Bạn đang xem bài viết Với Bài Thơ “Áo Trắng” Của Huy Cận được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Kiều Hoa
(Vanchuongphuongnam.vn) – Tuổi thơ đi qua trong đời người là một mảng không gian hồn nhiên rực rỡ và hàm chứa biết bao hy vọng. Buổi mai của mỗi người trong chúng ta là bức tranh diễm lệ sáng tươi, phấp phới ánh sáng tươi trong và lung linh màu sắc tin yêu, nồng ấm. Đó là những nốt nhạc reo vui đọng mãi dư thanh của bao nỗi niềm hoài vọng của một ngày mà ta mong muốn như “đi tìm thời gian đã mất” (À la recherche du temps perdu – Pascal).
Nhà thơ Huy Cận
Không ít những nhà thơ nổi tiếng trong văn học hiện đại đông tây, xưa nay đã tiếp nối thông điệp về mối rung động mỗi người mỗi vẻ từ khoảng trời hoa bướm ngày xưa đó. Đắm say háo hức với Xuân Diệu (Vội vàng), sâu lắng nồng nàn với Huy Cận (Học sinh), chơn chất hồn nhiên với Nguyễn Bính (Trường huyện), vơ vẩn yêu đương với Tế Hanh (Chủ nhật), ngậm ngùi nuối tiếc với Giang Nam (Quê hương), hay các nhà thơ Pháp: Lamartine: Hỡi thời gian, hãy dừng cánh bay (Ô temps, suspends ton vol), rồi tiếp đó lời khẳng định của triết gia Hy Lạp cổ đại Heraclitus: Không ai tắm hai lần trên một dòng sông, rồi hiện thực đời thường với Nguyên Sa (Cần thiết, Tuổi mười ba).
Nhưng thiết tha sâu lắng hơn với công chúng yêu thi ca, ta không thể không nói đến bài thơ Áo trắng của Huy Cận (1919-2005), tác giả Lửa thiêng:
Ngày ấy, em đến anh với bao ước mơ và bằng tất cả tấm chân tình: mắt như lòng:
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong
Hôm xưa em đến, mắt như lòng.
Em đến anh với sắc áo đơn sơ, thánh thiện một màu trinh trắng, lung linh ánh sáng và từng bước đi lãng đãng tỏa hồng với đôi gót ngọc dồn hương:
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng.
Em là giai nhân trong mộng ước, anh ngưỡng vọng tôn vinh, đặt em lên “ngai thờ nữ sắc” (Đinh Hùng). Thon thon những ngón tay tiên đẹp dịu dàng phải chăng là những nốt nhạc làm nên giai điệu hòa âm với đôi má nắng hoe tròn mặn mà và mái tóc bềnh bồng trong gió biếc làm bừng dậy hồn anh bao nỗi niềm xao xuyến:
Em đẹp bàn tay ngón ngón thon;
Em duyên đôi má nắng hoe tròn.
Em lùa gió biếc vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non.
Đối diện trước thần tượng, anh ngây ngất, nuốt từng tiếng nói, hơi thở của em như một tín đồ say đạo giữa không gian của đất trời tươi sáng với nắng thơ dệt lụa trên tà áo, với từng phiến lá nhỏ phất phới mừng vui nơi thế giới bên ngoài: Em nói anh nghe tiếng lẫn lời;
Hồn em anh thở ở trong hơi.
Nắng thơ dệt sáng trên tà áo,
Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
Từ đó, đôi lứa thần tiên cùng chắp cánh thăng hoa, hội nhập trong bản song ca hạnh phúc, giai điệu ấm áp lan tỏa triền miên, quyện dặt dìu theo màu áo trắng, “trong như nước ngọc tuyền” (Thế Lữ):
Đôi lứa thần tiên suốt một ngày,
Em ban hạnh phúc chứa đầy tay
Dịu dàng áo trắng trong như suối
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
Áo trắng là bài thơ mới bảy chữ, bốn khổ mà nghệ thuật tập trung nhất quán trong một khổ như một bài tứ tuyệt: ba vần bốn câu, phá trắc, vần bằng. Ngôn ngữ bài thơ rất dung dị, ít dùng tu từ hơn thơ Hàn Mặc Tử, nhịp thơ trầm lắng thiết tha, Áo trắng có dịp đưa ta trở về với không gian tình cảm êm đềm thơ mộng của những ngày xưa thân ái. Áo trắng là một bài thơ trữ tình, ấm nồng xúc cảm tuổi xuân, một viên ngọc thơ xinh xắn trong tập “Lửa thiêng” của Huy Cận, ra đời cách nay ngót bảy thập kỷ mà chất lửa của nó vẫn còn thiêng!
Thưởng thức lại bài thơ Áo trắng của nhà thơ Huy Cận, người yêu thơ càng trân trọng tác giả đã nâng niu tâm hồn mộng hoa trinh trắng của tuổi học trò hồn nhiên ở mỗi người. Đó là lúc “Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp” (Tựu trường). Bài thơ giúp ta chấp cánh bay bổng tìm về mộng ước tuổi trẻ thần tiên, để có được những giây phút thăng hoa ngọt ngào trong kiếp sống nhân gian: Dịu dàng áo trắng trong như suối/ Ta phất đôi hồn cánh mộng bay.
O4.04.2023
K.H
Tôi Yêu Hai Bài Thơ Huy Cận
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Huy Cận (31.5.1919 – 31.5.2023)
*Thanh Thảo
(Baoquangngai.vn)- Người ta thường ca ngợi những bài thơ có cảm thức vũ trụ của Huy Cận. Đúng là những bài thơ ấy rất hay. Nhưng bạn có biết không, vũ trụ thì mênh mông quá. Trong khi con người lại quen với những gì gần gũi. Có hai bài thơ của Huy Cận mà tôi cảm thấy gần gũi nhất với mình. Hai bài thơ ấy gần gũi với thiên nhiên, gần gũi với làng quê, gần gũi với những gì gần gũi nhất của con người ở mọi thời. Đây là bài thơ thứ nhất:
BUỒN ĐÊM MƯA Tặng Khái Hưng Đêm mưa làm nhớ không gian Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn Nghe đi rời rạc trong hồn Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi… Rơi rơi…dìu dịu rơi rơi… Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ… Tương tư, hướng lạc, phương mờ Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe Gió về, lòng rộng không che Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư…
Bài thơ tặng Khái Hưng. Tôi nghĩ, có lẽ vì Khái Hưng rất yêu thích bài thơ này, nên ông được tặng. Khái Hưng đã yêu đúng. Một bài thơ ở khoảng giữa của bất cứ cảm giác nào về một không gian mưa. Và, mưa đêm. Nó hiện thực đến không thể hiện thực hơn: “Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn” Không có trời nặng nặng, thì cũng không có ta buồn buồn. Và ngược lại. Đó là sự giao cảm có trọng lượng giữa “nước giọt mái nhà” và cái “buồn buồn” không thể định danh hay định vị. Nhưng nó cũng phi thực đến không thể phi thực hơn: “Nghe đi rời rạc trong hồn Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…” Nhịp mưa đi trên mái nhà, hay trong tâm hồn của nhà thơ, nó “rời rạc”. Cảm nhận về những “bước chân mưa” như thế, tôi cho là tuyệt tác. Tôi cũng đã bao lần nằm nghe trong đêm mưa tiếng “nước giọt mái nhà” như thế, và chắc rất nhiều người cũng có chung cảm giác như vậy. Nhưng viết ra được trong hai câu lục bát ngắn ngủi, làm hiện lên cái cảm giác chơi vơi miên man mà rời rạc lẻ loi xa vắng như thế, thì chưa ai làm được. Âm thanh đã thấm nhập, không chỉ nghe bằng tai nữa, mà nghe bằng cả con người mình, từ hồn đến xác. Đó là thơ đi giữa “cảm” và “tưởng”, nó làm nên một “tiểu vũ trụ” cho riêng mình, gạt ra ngoài mọi thêm thắt hay bình tán vô ích. Thơ ấy đã nội tâm hóa vũ trụ, nội tâm hóa thiên nhiên, nội tâm hóa chính cảm thức của nhà thơ. Huy Cận là nhà thơ cổ điển như vậy. Cổ điển khi ông đưa thơ phương Tây và thơ phương Đông lại gần nhau, hòa nhập với nhau. Bởi trong cách thể hiện, là phương Tây. Nhưng cái hồn, là phương Đông. Huy Cận chịu ảnh hưởng của Xuân Diệu. Nhưng ông đi xa hơn Xuân Diệu ở cách hòa nhập Đông-Tây này. Bây giờ tôi càng hiểu, sự giản dị là một thượng phẩm trong thơ. Sự giản dị ấy phải phát xuất từ tâm hồn anh, rồi nó tìm được sự giản dị trong thiên nhiên, trong cả vũ trụ nữa, nếu cần. Nó giữ một vẻ “trung tính” nào đó, rất khó cắt nghĩa, nhưng có thực. Thơ Huy Cận thường có cái vẻ “trung tính” đó, không phải ông cố làm ra cái vẻ ấy, mà tự nhiên nó có trong thơ ông. Có phải trung tính là bản chất của vũ trụ ? Tôi không biết. Cái này phải hỏi các nhà khoa học vũ trụ. Còn Huy Cận, tự nhiên ông có được cái “trông lên” ấy, vậy thôi: “Da chiều mới tỏ sao Hôm Màu thanh thiên đã vào ôm giữa hồn” (Trông lên) Sự giản dị trong tâm hồn đã làm nên sự giản dị trong thơ. Mà biết đâu, giữa vô vàn sự phức tạp của mình, vũ trụ cũng cực kỳ giản dị. Có phải, Albert Einstein đã cảm nhận hết sức sâu sắc “sự giản dị vũ trụ” này chăng, khi Ông đưa ra Thuyết tương đối rộng (hay còn gọi là Thuyết tương đối tổng quát), công bố vào năm 1916, một thuyết hấp dẫn thành công nhất cho tới thời hiện đại. Tôi không biết. Điều này cũng phải hỏi các nhà khoa học. Nhưng đọc bài thơ Huy Cận, thì cảm nhận được sự giản dị mênh mông đó. Còn đây là bài thơ thứ hai:
ĐI GIỮA ĐƯỜNG THƠM Tặng Thạch Lam Đường trong làng hoa dại với mùi rơm Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm, Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu Lên bề cao hay đi xuống bề sâu ? Không biết nữa. –Có chút gì làm ngợp Trong không khí…hương với màu hòa hợp… Một buổi trưa không biết ở thời nào Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ. Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự. Buổi trưa này xưa kia ta đã đi, Phải cùng chăng ? Lòng nhớ rõ làm chi! Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng, Trí vô tư cho da thở hương tình. Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình Như sắp nói, nhưng mà không; -khóm trúc Vừa động lá, ta nhận vào một lúc Cả không gian hồn hậu rất thơm tho Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ… Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng… Trí bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều: “Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu” Chân đang bước bỗng e dè dừng lại -Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại…
Bài thơ tặng Thạch Lam. Cả món quà và người được tặng hòa hợp với nhau vô cùng. Vì tâm hồn Thạch Lam cũng nhẹ nhàng, nhạy cảm và buông xả như bài thơ này. Cách đây hai năm, sau Tết, tôi ra Đà Nẵng gặp nhà văn Đặng Tiến mới từ Paris về Đà Nẵng ăn Tết, tôi đã đưa anh Đặng Tiến về Hội An thăm chơi với nhà văn Nguyên Ngọc. Hôm ấy, không gặp được Nguyên Ngọc vì anh bị ốm phải về điều trị ở Đà Nẵng, nhưng thật tình cờ, chúng tôi đã gặp chính “con đường thơm” mà Huy Cận đã viết bài thơ “Đi giữa đường thơm”.
Anh Đặng Tiến là một nhà bình thơ rất tinh tế, và rất am tường xuất xứ từng bài thơ hay. Con “đường thơm” ấy là một con đường nhỏ nhưng khá dài thuộc ngoại vi Hội An. Anh Đặng Tiến nói: “Cảnh trí hai bên đường này vẫn không khác mấy so với hồi Huy Cận viết bài thơ. Chỉ có khác, đường này xưa là đường đất, giờ là đường nhựa. Nhưng bóng tre và bóng phượng thì vẫn còn nguyên đó. Hồi nhỏ, tôi đi học cũng có nhiều dịp đạp xe trên con đường này, cứ có cảm giác lâng lâng thế nào ấy”. Cái cảm giác lâng lâng đúng là cảm giác mà tôi nhận được từ bài thơ Huy Cận: “Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình Như sắp nói, nhưng mà không; -khóm trúc Vừa động lá, ta nhận vào một lúc Cả không gian hồn hậu rất thơm tho” Cái lâng lâng ấy, vừa là những động chạm đầu tiên của tuổi học trò khác giới, vừa là những động chạm của thiên nhiên cũng đầy những trinh nguyên e ấp. Mừng cho Hội An giờ vẫn còn giữ được con đường thơm này, dù có khác một phần, nhưng những khóm tre, những cây phượng già vẫn còn, gió vẫn nhẹ mà nắng vẫn vàng ươm, cái lâng lâng ấy chưa mất. “Đường trong làng hoa dại với mùi rơm Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm” Mùi rơm cùng mùi hoa dại, bây giờ người thành phố mới thấy quí cái mùi thơm mộc mạc, như quí những dòng thơ trong trắng của Huy Cận. Bây giờ người ta có thể gọi đó là “thơ sinh thái” cũng được, vì có thể hít thở cái không khí sạch trong từ chính những câu thơ. Luôn luôn, bài thơ là một cơ thể thống nhất, dù người ta có nhận ra đôi mắt to tròn, làn da trắng mịn hay mái tóc dài mượt mà, thì cả cơ thể bài thơ vẫn là một. Và giọng nói trong bài thơ nữa, nhẹ nhàng như giọng nói người Hội An. Chính thiên nhiên làng quê của Hội An ngày xưa ấy đã cho Huy Cận bài thơ này. Bây giờ thì Hội An có hơi nhiều những resort hay khách sạn, may mà còn giữ được “con đường thơm” là nguyên mẫu bài thơ Huy Cận ngày xưa. Thơ Huy Cận cổ điển là như vậy. Và cảm thức vũ trụ nảy sinh từ những li ti bé bỏng thân yêu nhất, từ những “bước chân mưa” hay mùi hoa dại cùng mùi rơm mùa gặt phơi trên đường. Sự giản dị, đó cũng là một vũ trụ của Thơ. Tôi cảm thấy mát rượi cả người khi đọc bài thơ “Đi giữa đường thơm”, cứ như bóng tre và bóng phượng đã tỏa mát xuống mình giữa mùa hạ nóng bức./.
Về Bài Thơ Tràng Giang Của Huy Cận …
1. MỞ BÀI Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm – Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc, tiêu biểu trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945. – “Tràng giang” (sáng tác 1939, in trong tập “Lửa thiêng”) là bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. “Tràng giang” đã tiếp nối mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thực. 2.THÂN BÀI Tràng giang đã nối tiếp mạch thi cảm truyền thống: – Mạch thi cảm truyền thống: cảm hứng sáng tác của văn học truyền thống thường thiên về nỗi buồn: Nỗi buồn về thế thái nhân tình; buồn về cái nhỏ bé hữu hạn của đời người trước cái vô hạn, vô biên của đất trời – “nỗi sầu vũ trụ”; buồn về quê hương đất nước, về thân phận người lữ khách xa quê, cái buồn biệt ly, xa cách… Cảm hứng sáng tạo trong thơ Huy Cận thiên về thẩm mỹ không gian nên dù đưa trái tim đi vào nỗi buồn hay hát lên khúc ru tình yêu nhà thơ cũng lấy không gian làm nền nhạc đệm. Và ý vị cổ điển ấy thể hiện trong “Tràng giang” là hình ảnh con người một mình đối diện với vũ trụ để cảm nhận cái vô cùng, vô tận của đất trời và cái cô đơn, nhỏ bé của kiếp người: Cảm hứng bao trùm toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, tâm trạng bơ vơ của một con người khi một mình đối diện với vũ trụ để cảm nhận được cái vô cùng, vô tận của đất trời và nỗi cô đơn nhỏ bé của kiếp người. Thể hiện qua các yếu tố: + Nhan đề: “Tràng giang” : sông dài – rộng – mênh mang + Lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thâu tóm toàn bộ cảm xúc của bài thơ: bâng khuâng và nhớ + Khổ 1: nỗi buồn, nỗi sầu trước cảnh thiên nhiên mênh mang sóng nước. + Khổ 2: nỗi buồn, sự nhỏ bé của con người khi một mình đối diện với không gian vũ trụ bao la rộng lớn+ Khổ 3: nỗi buồn trước cái hoang vắng đến rợn ngợp của thiên nhiên và sự lạc loài của kiếp người. + Khổ 4: nỗi buồn nhớ nhà nhớ quê da diết. Sự cách tân đích thực trong thơ Huy Cận: – Sự cách tân đích thực: Đó là sự đổi mới trong thi ca hiện đại ở cách nhìn, cách cảm, quan niệm thẩm mỹ và những phương thức biểu đạt rất mới. Tràng giang không chỉ tiếp nối nỗi buồn trong thi ca truyền thống mà còn thể hiện “nỗi buồn thế hệ” của một “cái tôi” Thơ mới thời mất nước “chưa tìm thấy lối ra”. Huy Cận đến với không gian truyền thống nhưng lại mở rộng không gian ấy ra ba chiều tít tắp, vô tận đến mênh mông (dài – rộng – cao). – Hình ảnh thơ không hề sử dụng những ước lệ, tượng trưng truyền thống… mà rất giản dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của con người Việt Nam… – Huy Cận đến với không gian truyền thống nhưng lại mở rộng không gian ấy ra ba chiều tít tắp, vô tận đến mênh mông (dài, rộng, cao): “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” Đó là không gian ta thường thấy trong những bức hoạ Phục hưng phương Tây hay trong những bài thơ lãng mạn Pháp. – Nhưng câu thơ Nắng xuống trời lên sâu chót vót mới thực sự gây ấn tượng mạnh bởi lối dùng từ mới mẻ, táo bạo ( cách dùng hình dung từ sâu chót vót thay cho cách diễn đạt thông thường cao chót vót ) vừa mở ra chiều cao mênh mang đến thăm thẳm của bầu trời vừa diễn tả nỗi cô đơn của cái tôi trữ tình, đặc biệt là cảm giác rợn ngợp của con người hữu hạn trước một vũ trụ vô biên. – “Tràng giang” còn là sự cách tân trong cách thể hiện cảm xúc. Khi đến với nỗi cô đơn bé nhỏ của con người, Huy Cận đưa nỗi buồn từ xa về gần, là cõi con người bằng hình ảnh cụ thể, dung dị, sáng tạo: “Củi một cành khô”, “bèo dạt hàng nối hàng”, “bến cô liêu”… Đó là nỗi niềm, là tâm sự của cả một thế hệ trước thời đại. – Sự cách tân còn thể hiện ở việc sáng tạo, đưa vào những cảm xúc mới khi muợn tứ thơ của Thôi Hiệu: Xưa Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mà chạnh nỗi nhớ nhà; nhưng nay đến Huy Cận nỗi nhớ ấy thường trực, có sẵn trong lòng, được dâng lên cao độ hơn, cùng cách diễn đạt cũng tân kỳ, sáng tạo hơn: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. – Thể thơ thất ngôn nhưng bị gò ó trong niêm luật của thơ trung đại mà với nhạc điệu phong phú, từ ngữ giản dị, hàm súc, tinh tế đã đem lại cho “Tràng giang” một sự hài hoà giữa ý và tình, giữa cổ điển và hiện đại. 3.KẾT BÀI Thể thơ bảy chữ với nhạc điệu phong phú, từ ngữ hàm súc, tinh tế đã đem lại cho “Tràng giang” một sự hài hòa giữa ý và tình, giữa cổ điển và hiện đại. Nêu những suy nghĩ và cảm nhận của người viết về giá trị và sự đóng góp tích cực của Huy Cận trong phong trào Thơ mới nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Của Huy Cận
Bài thơ Tràng giang in trong tập Lửa thiêng là bài thơ hay nhất của Huy Cận và cũng là trường hợp tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ ông trước Cách mạng. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang đã kết
tụ nỗi buồn “mang mang thiên cổ” ở Huy Cận, được diễn đạt bằng hình thức thơ trang trọng, cổ kính, đậm đà phong vị Đường thi mà vẫn giản dị, mới lạ, độc đáo, mang rõ dấu ấn thời đại của Thơ mới.
Ngay ở nhan đề, Tràng giang đã cho ta biết cảm hứng của bài thơ là cảm hứng từ một không gian. Thật thế, chính tác giả đã thố’ lộ: “Nhìn dòng sông lớn gợi những lớp sóng, tôi cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra những lớp sóng”. Tràng giang là sông dài, “trường” cũng là dài nhưng “tràng” có âm “ang” là âm mở rộng, gợi được cả dài lẫn rộng. Hơn nữa Tràng giang láy âm cuối “ang” càng khơi gợi cảm giác mênh mang, bát ngát của dòng sông lớn.
Tiếp theo, câu đề càng thổ hiện đầy đủ tình, cảnh gợi tứ cho bài thơ. Tình là bâng khuâng, nhớ cảnh là trời rộng, sông dài. Bài thơ mở ra trước tầm mắt ta bức tranh bao la, rộng lớn của cảnh trời nước mênh mang. Không gian ở đây thật vô định. Nó được trải ra ở cả ba chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, với những hình ảnh phong phú: tràng giang, trăm ngả, mấy dòng, sâu chót vót, sông dài, trời rộng, mây cao, núi bạc… Tất cả bầu trời, mặt đất đều là vô tận, không cùng của vũ trụ. Huy Cận sử dụng nghệ thuật đối lập rất tự nhiên bởi ông đã đặt vào giữa cái không gian bất tận mênh mông ấy những hiện thực của cuộc sống không thế thiếu vắng. Đó là những sự vật cụ thể, nhỏ nhoi, đơn chiếc, con thuyền xuôi mái, củi một cành khô, cồn nhỏ lơ thơ, chim nghiêng cánh nhỏ… nhưng càng làm tăng thêm cái cao rộng của bầu trời, mặt đất. Cái hữu hạn thì vô nghĩa, vô hướng, nhỏ bé, nhạt nhòa, không đáng kể nhưng đã làm nổi bật cái vô hạn không cùng.
Tràng giang không chỉ là bức tranh phong cảnh đẹp với những đường nét, hình khôi, trái lại, đây còn là một bức tranh tuyệt đẹp mang nét buồn mênh mang, quạnh vắng, cô liêu. “Thơ mới” đã đem đến cho người đọc những bức tranh thiên nhiên rạng rỡ nhiều thanh sắc. Thiên nhiên trong Tràng giang cũng có vẻ đẹp riêng của nó. Đó là vẻ đẹp nên thơ của những con sóng diệp điệp đuổi nhau trên mặt nước, của cồn nhỏ lơ thơ, của bờ xanh tiếp bãi vàng chạy dài tít tap. Đó là vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh nắng xuống trời lên sâu chót vót, của cảnh sông dài trời rộng, của mây cao, núi bạc…
Cái đẹp thường gắn với nỗi buồn, đó là cảm quan nghệ thuật của các nhà thơ lãng mạn. Ớ Tràng giang cũng vậy, thiên nhiên trong Tràng giang thật đẹp mà cũng thật buồn. Nỗi buồn cũng bao la mà hiu quạnh. Nhà thơ đã đem nỗi lòng mình và tâm trạng của một thế hệ nhà thơ mới phủ lên cảnh vật. Thôi thì đủ các cung bậc: buồn diệp điệp, sầu trăm ngả, bên cô liêu, bờ sông lặng lẽ như thời tiền sử, lòng quê dạn dợn… đặc biệt bức tranh thiên nhiên ở đây không hề có lây một dâu hiệu của con người, giao cảm, gặp gỡ… bởi đã được phủ định: không dò, không cầu, không khói… quạnh vắng, thê lương.
Ngoài ra, bài thơ Tràng giang còn là một bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển mà hiện đại.
Cả bài Tràng giang mang tính chất trang nghiêm, cổ kính, đậm đà phong vị Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ, hiện đại. Chất cố điển hiện ở cảm xúc của bài thơ (con người một mình đối diện với vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn vô cùng của không gian, thời gian, để nghĩ về kiếp người), cổ điển trong việc học tập Chinh phụ ngâm, cố điển ơ nhạc diệu và tứ thơ Đỗ Phủ (trong bài Đãng cao), cổ điển ở việc lấy ý thơ của Thôi Hiệu (trong Hoàng Hạc lâu)… Nhưng đồng thời cảnh vật trong bài thơ cũng hết sức cụ thể, đời thường (cành củi khô, cồn cát, cánh bèo… ). Hơn nữa, đây còn là một bức tranh đậm đà phong vị Việt Nam. Tràng giang, cái tên gợi nhớ đến dòng Trường giang ngàn dặm ở Trung Quốc từng là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ thi nhân. Tứ thơ Thôi Hiệu ở cuối bài Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà lại càng tăng thêm không khí Đường thi của bài thơ. Tuy thế, bức tranh thiên nhiên ở đây lại rất Việt Nam. Một dòng sông, một cành củi trôi, một cồn cát nhỏ, một chợ chiều ở một làng xa, những cánh bèo trên mặt nước, cánh chim chao liệng trên nền mây bạc lúc hoàng hôn… đều là những cảnh quê hương đất nước, gần gũi, thân thuộc với mỗi con người Việt Nam.
Nói tóm lại, bài thơ Tràng giang toát lên một nỗi buồn mênh mang, thấm vào linh hồn cảnh sắc quê hương, gợi tình mến yêu quê hương một cách sâu lắng. Xuân Diệu nhận xét: “Tràng giang, là một bài thơ ca ngợi non sông đất nước, do đó, dọn đường cho tình yêu giang sơn Tố quốc”.
Phong trào Thơ mới qua đi đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị. Tràng giang của Huy Cận mang vào trong thơ ca giai đoạn này một hơi thở riêng, độc đáo, một phong cách riêng, vẻ đẹp riêng, và vì thế, Tràng giang vẫn còn “chảy” mãi cho đến tận bây giờ và mai sau.
Cùng với rất nhiều nhà thơ khác đương thời, Huy Cận luôn mang trong tâm tư của mình nỗi sầu của cả một thế hệ:
Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ?
Nhưng, đó là nỗi sầu nhân gian, nỗi sầu như từ “vạn kỉ” chảy về. Tràng giang tiêu biểu cho phong cách thơ anh là vậy. Nỗi lòng của tác giả trong Tràng giang man mác, bâng khuâng toàn vũ trụ để đi đến cái cuối cùng, cái cốt lõi là nỗi buồn “Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà”.
Tràng giang là một bài thơ đẹp. Nó đẹp trước hết bới nỗi buồn. Thường thường, đẹp và buồn như hai người tâm giao, nhất là đôi với các thi sĩ thơ mới:
Sóng gạn tràng giang buồn diệp diệp.
Nỗi lòng ấy không thể đem ra mà đong, mà đếm. Nỗi lòng ấy cứ lớp lớp vỗ vào nhau, trào lên nhau ngày càng nặng trĩu. Cái nặng của lòng người lại được gợn lên bằng sóng nước dập dềnh bao la nên càng hụt hẫng, chới với hơn. Nỗi buồn làm cho thi nhân cảm thấy cô độc quá:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả.
Củi một cảnh khô lạc mấy dòng.
Dường như cái có thật ây bỗng trở nên mờ ảo, hư vô. Có cái gì đó hiện thân của sự cằn cỗi, héo hon và hiện thân của một Huy Cận đang cô độc đến rợn người. Đó là nỗi buồn trống trải, bơ vơ. Đã có lúc hồn của thi nhân lay lắt trong ngọn gió “đìu hiu”, trong cái không gian tĩnh lặng đến tuyệt đôi, một âm thanh buồn cũng không thế gợi lên. Đã có lúc hồn của thi nhân như tan ra, trải ra trôn sông nước dập dềnh và tràn vào vũ trụ bao la với “sông dài, trời rộng”, với “nắng xuống trời lên”… Mọi cảnh vật đối với nhà thơ đều mông mang quá, còn bản thân ông lại chí là một “bến cô liêu”. Cái hữu hạn bỗng nhỏ nhoi trước cái vô hạn và cùng như thô lại càng buồn hơn. Đã có lúc Huy Cận dường như bơ vơ đi tìm nơi nương náu để đỡ trông trải, nhưng mà chỉ thấy ” bèo dạt về đâu hàng nối hàng – mênh mông không một chuyến đò ngang”, sắc màu “bờ xanh”, “bãi vàng” không sưởi ấm được con người cô độc, mà càng làm cho hồn của thi nhân thêm buồn. Nỗi buồn ây bao trùm toàn bài thơ, làm nên vẻ đẹp của tác phẩm. Nhưng đến khổ cuối, nỗi buồn đó như được vỡ ra, như được lý giải. Điều quan trọng là Huy Cận tìm được nguyên cớ khiến cho tạo vật thấm đượm nỗi buồn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dọn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Và như thê, bài thơ lại càng trở nôn đẹp hơn ơ cái tình của thi nhân. Trong khi một số nhà thơ khác có phần còn đang “say” đang “điên”, đang trong chốn “diêu tàn” hay mê mải với tình yêu, thì Huy Cận lại đau vì phải xa mái nhà xưa. Nỗi buồn riêng tư của thi nhân rộng lớn quá, nhân ái quá và cao cả quá! Thôi Hiệu xưa kia nhớ nhà trong buổi chiều tà, khói sương thì nay, Huy Cận thương nhà khi không có cả cái cớ đê buồn thương, để mà gợi nhớ!
Ta nhận thấy trong cái hùng vĩ của thiên nhiên “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, trong cái nhà nhỏ nhoi yếu ớt của một sinh vật sông “chim nghiêng bóng nhỏ cánh chiều sa” và trong cái “dợn dạn” của nước non… có mang một tâm sự u uẩn, nặng trĩu. Phải chăng đó là tâm sự “băng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là niềm khao khát được sống trong sự giao cảm con người với con người, con người với dân tộc, với đất nước của chính nhà thơ.
Có thế nói chính nỗi buồn cao cả ấy đã làm nên nội dung tình cảm của bài thơ, làm nên vẻ đẹp riêng tư của Tràng giang. Mặt khác, phải thấy rằng, Huy Cận là một nhà thơ trẻ (lúc bấy giờ) đầy tài năng. Tràng giang biểu hiện sinh động cho nghệ thuật thơ ca Huy Cận.
Đọc Tráng giang, ta thấy bài thơ có những hình ảnh rất độc đáo và sinh động. Đó là hình ảnh Củi một cành khô lạc mấy dòng. Nhưng ngôn từ vương vãi ớ đáu đó được nhà thơ nôi lại thành một câu thơ giản dị gần gũi có sức khêu gợi những gi nhà thơ muốn nói. Ngoài nỗi buồn ra, ta còn
cảm nhận được cả nỗi đau đời còn chắt lại. Và như thế, với riêng thơ ca, cũng đủ in đậm một nỗi lòng trong bao nhiêu nỗi lòng của bao nhiêu nhà thơ khác. Bài thơ còn có rất nhiều hình ảnh dẹp và buồn. Đó là hình ảnh của một Tràng giang mênh mang sóng nước, một cồn nhỏ hắt hiu, một màu xanh, màu vàng lặng lõ của cây lá. Và hình ảnh cuối cùng, như trĩu xuống vì lòng thi nhân cũng đã quá nặng với đất trời rồi:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa.
Đó là một hình ảnh kỳ vĩ quá cả sức tưởng tượng làm cho ta có cảm giác như một hình ảnh hoang đường. Mây không gợi sự nhọ nhàng mà gợi sự u uất. Bên cạnh cái hùng vĩ ấy, cánh chim bỗng trở nên bé nhỏ hơn, yêu đuôi non nớt hơn. Một cánh chim chiều cũng đủ đê làm nôn nỗi buồn. Nhưng cánh chim ấy lại như chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhằng trong buổi chiều tà bóng xế. Ta có cảm giác như cánh chim nhỏ nhoi lắm, lại vừa rộng lớn lắm, còn đủ sức để cõng cả bóng chiều, nâng đỡ cả đám mây cao núi bạc cho dù có một lúc nào đó chới với giữa không gian. Có lẽ đây là một hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường, nhưng sao ở đây nó lại mới đến thế, lạ và đẹp đến thô?
Có thể nói trong Tràng giang, Huy Cận đã làm công việc cao cả của một người nghệ sĩ, đó là sự dày vò ngôn từ. Ngôn ngữ trong Tràng giang không đơn điệu mà sinh động cô đọng với các điệp từ “điệp diệp”, “song song, đìu hiu, chót vót, lặng lẽ, lớp lớp, dạn dạn, đôi khi từ ngữ trong Tràng giang được sử dụng rất đắt không thể thay thế được.
Tràng giang có niêm luật chặt chõ như một bài thơ Đường luật. Vì thế đọc lên, ta có cảm giác như giọng thơ hoài cổ, chắc, khỏe và cũng chất đầy nỗi buâng khuâng nhớ mong, chất đầy tâm sự thầm kín.
Đọc Tràng giang, cái đọng lại cuối cùng là tư thế của con người – một thi nhân trước vũ trụ. Tư thế ấy thật đẹp thật lớn lao biết bao. Nỗi buồn đã không làm cho con người trở nên yếu đuô”i, nhỏ nhoi. Con người ở đây vừa kiêu hãnh, vừa buồn thương. Để cảm nhận, thu hút cả thiên nhiên dưới tầm mắt của mình, nhà thơ phải đứng từ rất cao, rất xa mới thấy Sóng gạn tràng giang, mới thấy một làng xa, mới thấy nắng xuống chiều Lén, bờ xanh tiếp bãi vàng, mây cao đùn núi bạc… Nhà thơ đã dựng lên một không gian ba chiều rộng lớn, mênh mông, sâu thẳm và cao vời vợi. Trùm lén không gian ấy là sự tĩnh lặng gần như là tuyệt đối, duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang thầm gọi trong xa xăm một dáng hình Tố quốc.
Khó có thê nói hết được cái giới hạn cuối cùng của nỗi lòng trong Tràng giang, cũng như khó có thể nói hết vẻ đẹp tận cùng của nó. Nội dung tình cảm và nghệ thuật điêu luyện trong Tràng giang đã làm nôn phong cách riêng Huy Cận – một điều rát cần thiết đối với người nghệ sĩ.
Vẻ đẹp của bài thơ Tràng giang đã làm nên sức sông mãnh liệt của nó. Tràng giang vẫn là một dòng chảy mãi mãi đến tận sau này. Tràng giang tồn tại trong văn chương bằng vẻ đẹp đầy kiêu hãnh của một sự sáng tạo nghệ thuật và một cái tâm bao la, cao cả của một người nghệ sĩ.
12 Kết Bài Tràng Giang Của Huy Cận
Để viết tốt Kết bài tràng giang của Huy Cận, nay chúng tôi xin gửi tới bạn 12 mở bài xuất sắc được trích từ những bài ngữ văn mẫu đạt điểm cao. Mời bạn tham khảo
Kết bài 1.
Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang.
Kết bài 2.
Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Kết bài 3.
Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Kết bài 4.
Bài thơ “tràng giang” là bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ là sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ “tràng giang” của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Kết bài 5.
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao trùm không gian ấy là một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.
Kết bài 6.
Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết đạt được bao nhiêu lâu nữa.
Kết bài 7.
Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
Kết bài 8.
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Từ những lời văn phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận, chúng ta có thể thấy được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
Kết bài 9.
Sau khi phân tích bài thơ Tràng giang, chúng ta thấy Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của “cái tôi” trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.
Kết bài 10.
Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.
Kết bài 11.
Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.
Kết bài 12.
Nỗi buồn giăng mắc, mơ hồ hòa quyện với cái vẻ hiu hắt, quạnh quẽ đôi bờ sông. Nhà thơ muốn nghe lắm, muốn được thấy lắm tiếng người nói cười nhưng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu” ở đây là diễn tả “đâu đó” hay “đâu có” – tác giả cũng không nói rõ với người đọc.
Dòng Sông Nào Trong Bài Thơ “ Tràng Giang” Của Huy Cận?
Posted on by nguyentrongtao
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Trần Phong Sơn (Đức Sơn- Đức Thọ- Hà Tĩnh)
Lâu nay tôi cũng có niềm tin giống bạn là Huy Cận đã làm bài “Tràng Giang” về dòng sông quê ông. Nhưng thực ra ông lại viết về sông Hồng. Hồi đó là năm 1939 Huy Cận đang học năm thứ hai Trường cao đẳng Nông Lâm tại Hà Nội, và “luôn luôn bị một mối sầu lớn vò xé tâm hồn”. Thời bấy giờ, Hà Nội còn rậm rạp cây cối, và các hồ nước thì rất cô liêu. Để giải sầu, Huy Cận đạp xe lên đường đê Nhật Tân, con đê nằm giữa sông Hồng và Hồ Tây, lại gặp mùa nước lũ, con sông hồng đỏ ngầu lên và đột nhiên mở rộng lòng ra mênh mang. Ông lặng người đứng ngắm dòng sông vừa hùng vĩ vừa hoang vắng ấy. Ông thấy rác rêu, bèo bọt, tre gỗ và củi mục trôi nổi bồng bềnh cuốn đi theo dòng nước. Xa xa một làn sương dâng lên mơ hồ. Không có một bóng người. Đôi ba cánh chim chấp chới giữa một vòm trời về chiều nhạt mờ, u ám. Theo Ông thì có lẽ cảnh thiên nhiên không đến nối thiếu sức sống đến thế, nhưng cũng có lẽ tâm hồn khi đó đã rung lên đúng điệu buồn bã cô hoài như Nguyễn Du từng viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tất nhiên cảnh ở đây đúng vào ngày ảm đạm, và mùa lũ sông Hồng này là lần đầu tiên Huy Cận được chứng kiến. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng đã “nhập” vào ông một điệu cô hoài chưa từng thấy. Thế là ông lẩm nhẩm câu thơ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Đây là cảm giác đầu tiên bao trùm tâm trạng nhà thơ. Nhưng khi làm bài thơ, ông lại viết câu thơ đầu là “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Sau câu mở đầu này, từng lời thơ cứ trào tuôn như có dòng nước lũ cuốn ra từ lòng thi sĩ. Cái ý “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” lúc ban đầu lại biến thành “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”. Xong bài thơ rồi, ông vẫn tiếc cái câu thơ bao trùm cả tâm trạng lúc ban đầu, thế là ông giữ luôn câu này làm đề từ cho cả bài thơ.
Như vậy là bài thơ “Tràng Giang” đã được Huy Cận sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, cái buổi chiều ông tha thẩn đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ.
Nhưng theo tôi, đó chỉ là cái cớ cho bài thơ trào tuôn dòng chảy của tâm hồn, chứ còn vốn sống về sông của ông có thể còn khởi từ xa hơn, đấy là từ những con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông La, Sông Lam và cả sông Hương nữa, con sông một thời đã gắn bó với cậu học sinh Cù Huy Cận nhiều tháng năm ở Huế. Và cũng có thể xa hơn nữa , đấy là những dòng sông trong thơ Đường mà ông đã từng được đọc: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị – Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sông cho buồn lòng ai – bản dịch của Tản Đà). Vì thế mà ông đã kết bài “Tràng Giang” với hai câu mang tính âm u cổ kính của Đường thi mà lại rất tinh tế, gợi cảm của ngôn ngữ tiếng:Việt “Lòng quê dờn dợn vời con nước- Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
*
Cả bài thơ không nói tên một dòng sông nào, dòng sông đó chính là “Tràng Giang” có nghĩa là “sông dài”, nhưng hai từ tràng giang không phải là tên sông, nên nó gợi cho người đọc có thể liên tưởng tới một con sông u hoài trong kỷ niệm của riêng mình.
Chia sẻ:
Cập nhật thông tin chi tiết về Với Bài Thơ “Áo Trắng” Của Huy Cận trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!