Bạn đang xem bài viết Vẻ Đẹp Ngôn Từ Trong Những Câu Thơ Diễn Tả Cảm Xúc Kim được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nguyễn Du đã đặt chàng Kim vào tình huống tâm lí bất an khi xa cách người yêu. Có lẽ ông rất “thấu hiểu” nỗi niềm Kim Trọng đang tự bấu víu vào sự hoài nghi vô cớ nên đã đẩy dòng cảm xúc lên cao trào, đỉnh điểm Não người cữ gió, tuần mưa. Nếu không buồn trông để rồi sinh ra “tật” đa nghi, liệu chàng Kim có lâm vào tình trạng như vậy không? Tác giả đã mượn hiện tượng thiên nhiên cữ gió, tuần mưa để diễn tả cơn dông bão trỗi dậy trong lòng chàng Kim. Chính cách chuyển nghĩa ấy đã giúp ta thấy được nỗi niềm chàng Kim “sóng gió” đến mức nào. Nhìn chàng Kim, ta thấy có gì đấy rất cảm tính, yêu đến mê muội, nhưng thật đáng trân trọng bởi đó là căn bệnh trầm kha trong tình yêu ít ai tránh khỏi (http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/ve-tu-troi-trong-truyen-kieu). Về câu thơ Não người cữ gió tuần mưa, tác giả Phạm Quang Ái đã lí giải: “Theo các nhà biên khảo, một “cữ” là 7 ngày, một tuần là 10 ngày. Trong tính thành ngữ thì “cữ gió, tuần mưa” có nghĩa là chịu đựng “gió mưa” liên tục, nghĩa là chịu gian khổ, cực nhọc kéo dài. “người cữ gió tuần mưa” ở đây không thể là ai khác ngoài Kim Trọng (tỉnh lược vế của câu: người đang trong lúc cữ gió, tuần mưa, đang chịu đựng gian khổ nơi đất khách quê người). Trên đường đi đến nơi đất khách xa xôi Kim vừa nhớ Kiều vừa lạ cảnh, lạ người nên có tâm trạng cô đơn, buồn miên man; còn Kiều thì “đứng tựa hiên Tây” hình dung chặng đường xa xôi Kim phải liên tục chịu cảnh “cữ gió, tuần mưa” mà lo phiền, ray rứt, khắc khoải “Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ”. Cách hiểu này có lẽ không phù hợp với điều Nguyễn Du muốn thể hiện. Thứ nhất, đây là một trong bốn câu thơ diễn tả mạch cảm xúc của chàng Kim khi đang ở Liêu Dương nhớ về Kiều (tác giả diễn tả dòng mạch tương tư rất mạch lạc, không để diễn ra sự chồng lấn giữa chuyện của đối tượng này với chuyện của đối tượng kia). Đã như thế, ý kiến của Phạm Quang Ái cho rằng Kiều hình dung chặng đường xa xôi Kim phải liên tục chịu cảnh “cữ gió, tuần mưa” mà lo phiền, ray rứt, khắc khoải “Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ”, chỉ là sự suy diễn mơ hồ. Thứ hai, nếu câu thơ không nằm trong dòng cảm xúc chàng Kim khi nhớ về Kiều mà đứng độc lập, thì với cách hiểu của mình, ông Phạm Quang Ái đã vô tình cho rằng Nguyễn Du đang diễn đạt phi logic. Bởi, khi chia tay Kim Trọng, Kiều đã giãi bày: Quản bao tháng đợi, năm chờ,/ Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm. Nếu giờ đây, cữ gió, tuần mưa được hiểu theo cách mà ông Phạm Quang Ái diễn giải, thì ta buộc phải nhận định rằng Nguyễn Du đã rất “vụng” khi dùng hình ảnh trùng lặp. Tại Kim Trọng đa nghi, chứ Kiều đâu phải như chàng tưởng tượng. Đọc bốn câu thơ diễn tả tâm trạng Kiều sau khi chia tay người yêu, ta thấy nàng cũng nao lòng lắm chứ. Không phải vô tình Nguyễn Du để cho nhân vật xuất hiện trong trạng thái Nàng còn đứng tựa hiên tây. Thông thường khi diễn đạt những vấn đề mang tính tương ứng, trong cuộc sống cũng như văn chương, người ta thường dùng theo kiểu: bên kia thế ấy, bên này thì thế kia; nó mà như thế, thì mình cũng chẳng thua kém gì … Nếu theo lẽ thường này, đáng lẽ ra Nguyễn Du sẽ dùng từ “thì” thay từ còn (Kim Trọng nhớ như thế này thì Kiều cũng nhớ như thế kia). Nhưng ở góc nhìn của mình, Nguyễn Du không muốn dừng ở việc vẽ ra hiện tượng mà đang muốn khám phá cái bản chất. Theo mức độ diễn biến thời gian tiếp diễn, việc Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng), tác giả giúp ta nhận thấy người quốc sắc ấy đã vì tình yêu mà sẵn sàng để phó mặc cho sự “bào mòn” thân xác. Thế mới biết, ở thời điểm sau khi chia tay, tình yêu của Kiều đối với Kim Trọng không những không hề “nhẹ” như chàng tưởng tượng, trái lại còn toàn tâm toàn ý dành tình cảm cho người yêu nơi phương xa. Nàng (còn) đứng tựa hiên tây đã diễn tả một sắc thái tình cảm tư lự, sâu nặng của nàng. Khoảng thời gian khi chia tay chàng Kim đến lúc cha mẹ về, nàng sống bằng nỗi niềm canh cánh, thường trực, không rời mắt khỏi bước chân người yêu. Ở vị trí hiên tây, lòng dạ Kiều Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ, lung bung khó lòng tháo gỡ, bởi nàng trong tình trạng ruột chín lần bị đau quặn lại (Nguyễn Du, “Truyện Kiều”, Vũ Ngọc Khánh, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2005, trang 54). Nàng quặn thắt tâm can khi hình dung chặng đường Kim Trọng về Liêu Dương xa xôi cách trở, vất vả hộ tang chú nơi đất khách. Bằng cảm xúc nhớ, thương Trông chừng khói ngất song thưa, Kiều muốn qua áng mây, ngọn khói để gửi gắm tâm tư mình đến nơi Liêu Dương vời vợi. Từ tình thương, nỗi nhớ dành cho Kim Trọng, nàng hình dung một ngày mình sẽ như Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng. Kiều muốn gió sẽ đưa theo ngọn khói đến Liêu Dương để người yêu thấu tỏ tình cảnh của nàng lúc này. Nỗi lòng trĩu nặng lo lắng, một niềm thương nhớ không chút hoài nghi. Xây dựng hình ảnh thơ gợi lên vẻ tiều tụy, suy giảm (Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh àPhân Tích Vẻ Đẹp Ngôn Ngữ Thơ Ca Trong Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng
Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Trong “Nghĩ về nghề viết”, Chế Lan Viên nói:
“Hình thức cũng là vũ khí
Sắp đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí”
Chính vì vậy mà khi viết nên một tác phẩm, tác giả vẫn thường để tâm đến hình thức thơ để làm cho bài ca của mình thêm đẹp và đặc sắc. Thấu hiểu điều đó, nhà thơ Quang Dũng đã dùng tài năng của mình để mài giũa từng câu chữ trong “Tây Tiến”, để vẻ đẹp ngôn ngữ thơ góp phần làm nên sự thành công trong tác phẩm và để lại trong lòng người đọc bao ấn tượng. Có người từng ví hình thức của một tác phẩm như sắc đẹp của người con gái, không phải là yếu tố quyết định nhưng là yếu tố đầu tiên gây thiện cảm, gợi chú ý, làm quen để làm thân, gợi mối trăm năm bền chặt. Hình thức thơ, điển hình là ngôn ngữ thơ có tính thẩm mĩ thể hiện tài năng của tác giả, là yếu tố tạo nên phong cách. Cho nên với bài thơ “Tây Tiến”, ngôn ngữ thơ ấn tượng đã làm nên sức hút cho bài thơ, khiến người đọc muốn trông nhìn và thưởng thức, đồng thời làm nổi bật tài năng của nhà thơ chiến sĩ. Có lẽ nét nổi bật nhất trong nghệ thuật ngôn từ ở đây là cách sử dụng từ láy – một thủ pháp nghệ thuật đậm đà tính dân tộc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hai câu thơ là lời biểu đạt của nỗi nhớ, nhưng nếu nỗi nhớ ấy chỉ được thể hiện bằng từ “nhớ nhung” thì thật tầm thường và chưa đủ. Chỉ bằng từ láy “chơi vơi” với vần “ơi” có độ mở lớn khiến nỗi nhớ bị kéo dài ra vô hạn.Trạng thái lơ lửng, bồng bềnh của nỗi nhớ cộng hưởng với cảm xúc nồng nàn trong tâm trí đã tạo nên một nỗi nhớ “chơi vơi” có một không hai trên thi đàn. Đó là nỗi nhớ ăm ắp, mơ hồ, khỏa lấp cả không gian và thời gian, khiến tâm hồn người chiến sĩ cũng bồng bềnh và nương theo nỗi nhớ. Có lẽ cung bậc ấy trong nỗi nhớ của Quang Dũng đã gặp gỡ với nỗi tương tư của Xuân Diệu:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Tương tư chiều)
Như vậy là chỉ với từ láy “chơi vơi”, nỗi nhớ của Quang Dũng đã ngân lên với cung bậc thật khác lạ, không giống nỗi nhớ của người con gái trong “Khăn thương nhớ ai”, cũng không giống với nỗi nhớ tha thiết của Tố Hữu trong “Việt Bắc”. Đó là một nỗi nhớ vừa man mác, mơ hồ vừa xuyến xao, bao trùm cả núi rừng Việt Bắc, xuyên qua bức mây mù Pha Luông, đọng lại trong tâm trí người lính. Nỗi nhớ đó mang người chiến sĩ kí ức về một thời hành quân gian khổ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” đã khắc tạc con đường cheo leo, hiểm trở, đầy thử thách của cuộc hành quân. Các từ láy khiến giọng thơ trở nên gân guốc, điệu thơ mệt nhọc rất hợp với việc diễn tả sự hùng vĩ của thiên nhiên cũng như sự khắc nghiệt của những cung đường Tây Bắc. Nhờ chúng mà nỗi khó khăn, gian nan của người lính được ngụ ý một cách sâu sắc, làm nổi bật ý chí chiến đấu anh hùng cả người lính. Không gian núi rừng miền Tây còn được đặc tả qua từ láy “heo hút”, gợi một không gian xa xôi, vắng vẻ, quạnh hiu và lạnh lẽo. Nếu như con dốc đi lên cực kì hiểm trở và gập ghềnh, thì không khí ở đó lại mang dáng vẻ âm u, hẻo lánh của địa đầu tổ quốc. Mây không còn là áng phiêu du mộng mơ mà càng làm cho không gian trở nên mờ mịt, nổi bật nét đặc trưng của vùng cửa ải xa xôi: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa.” Chỉ với vài từ láy giàu sức gợi hình và gợi cảm, Quang Dũng đã đặc tả không gian thiên nhiên nơi núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ, ảo huyền vừa gian nan, đầy thử thách. Chúng như thách thức tinh thần những người lính trẻ trong cuộc trường chinh vạn dặm. Thế nhưng thiên nhiên dẫu có dữ dội vẫn biết cách làm duyên theo vẻ đẹp nên thơ nơi núi sâu rừng thẳm: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Phải là “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” – bởi “đung đưa” chỉ gợi hình còn “đong đưa” còn gợi cảm. Những bông hoa rừng la đà theo gió, làm duyên cùng nước, những đóa hoa đã sống trọn kiếp mình làm duyên làm dáng với dòng nước hay chính là sự tình tứ, đa tình của những người trẻ? Từ láy giàu chất gợi cảm đó như khơi sâu vào vẻ đẹp tâm hồn của người lính: hành trình hành quân ra trận không chỉ có gian nan, đó còn là nơi người lính bày tỏ nét đa tình và hào hoa của mình qua từng điệu nhạc, từng lời ca tiếng hát, từng nhành hoa nhỏ mà duyên dáng và phong tình. Những từ láy khiến giọng thơ trở nên uyển chuyển, giàu chất thơ, khiến bài thơ như một khúc hát, khúc ca của tuổi trẻ, khúc hát của người lính năm xưa. Ngôn ngữ thơ Quang Dũng không chỉ giàu chất tạo hình, không chỉ gợi cảm mà còn là sự sáng tạo độc đáo của riêng nhà văn. Đó là khi ta phát hiện trong bài thơ có sử dụng những cụm từ rất mới lạ: “súng ngửi trời” – một góc nhìn rất lính, rất lạc quan của họ mà ta đã từng bắt gặp trong thơ Hồng Nguyên: “Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau”. Bằng cảm nhận rất thơ của một người trẻ, người lính thấy đầu mũi súng như chạm đến trời cao, họ như đang được đứng trên đỉnh đầu tổ quốc để bảo vệ và canh giữ đất trời. Ngay khi nói đến sự hi sinh, Quang Dũng cũng sử dụng những cụm từ rất mới lạ: “không mọc tóc”, “bỏ quên đời”, “quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Nét đẹp trong tâm hồn người lính trẻ không chỉ có vẻ hào hoa phong tình của những cậu thanh niên mới lớn, đó còn là phong thái và cốt cách của một anh bộ đội cụ Hồ không màng gian khó, không ngại hi sinh để xông pha ra chiến trường. Cho nên dẫu có phải hứng chịu những trận sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, phải đắp cho mình một manh chiếu để đi về với đất, họ vẫn ngang tàng và ngạo nghễ trước sự hi sinh. Cách nói độc đáo biến họ trở thành những dũng sĩ, anh hùng trong thời chiến, sánh ngang với Đăm Săn, Xinh Nhã trong sử thi cổ đại, để họ viết nên một áng thiên hùng ca anh hùng. Để tạo vẻ trang trọng cho sự hi sinh của những người con bước ra từ trận chiến, nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi sử dụng một loạt các từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào”:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những từ Hán Việt được sử dụng trong đoạn thơ không biến đoạn thơ trẻ nên khó hiểu mà ngược lại, làm tăng thêm không khí trang trọng, vẻ đẹp thiêng liêng, giọng trầm hùng bi tráng cho sự hi sinh của người lính, biến những nấm mộ vô danh thành mộ chí vĩnh hằng. Cách nói mĩ lệ đó đã biến sự hi sinh trở thành một khúc ca bi tráng, thành ra đằng sau người lính lại thấp thoáng những chiến tướng “Ra đi không vương thê nhi”, chẳng hẹn ngày về. Họ là những con người đẹp nhất của thế kỉ XX, là người đã viết nên lịch sử cho cả một thời đại hào hùng. Như vậy, người ta thường nói thành công của thơ ca phụ thuộc phần nhiều vào khả năng biểu đạt ngôn ngữ. Với cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo và rất đặc sắc, nhà thơ Quang Dũng đã thổi hồn vào từng câu chữ, biến bài thơ thành nghệ thuật ngôn từ. Đằng sau những lời thơ đó là tài năng nghệ thuật của nhà thơ cũng như sự dụng công trong hành trình sáng tạo nghệ thuật. Xét cho cùng, thơ hay phải là thơ giàu tình cảm, nhưng để biểu đạt tình cảm thì cần đến ngôn ngữ thơ đặc sắc. Quang Dũng đã làm tròn trách nhiệm của thơ ca, biến bài thơ trở thành một khúc tráng ca về binh đoàn Tây Tiến. Chiến tranh đã lùi xa nhưng những âm vang của thời đại vẫn hiện lên trong những lời thơ đặc sắc. Bằng nghệ thuật ngôn từ độc đáo, thi sĩ Quang Dũng đã in dấu ấn vào thời gian, vào lòng người một áng thơ bất hủ, làm nên thiên anh hùng ca của một thời đại anh hùng.
Mạch Cảm Xúc Của Bài Thơ Viếng Lăng Bác Diễn Ra Như Thế Nào
Bài thơ “Viếng lăng Bác” sáng tác năm 1976 trong lần viếng lăng của nhà thơ Viễn Phương đã ghi lại tiếng lòng kính yêu, thương xót của nhà thơ với Bác.
Mở đầu bài thơ là lời của đưa con từ miền Nam ra Bắc để thăm lăng Bác.Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Tác giả xưng “con” một cách gần gũi, thân tình, mộc mạc mà giản dị đúng như bản chât con người Nam Bộ. Với một chuyến đi dài đấy những mệt nhọc nhưng khi đứng trước lăng Bác thì tình cảm kính yêu lại dào dạt lên trong lòng nhà thơ.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
“Đã thấy” gợi nên một cái nhìn một hành động tưởng chừng như đã biết trước. Cái hình ảnh quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam: “hàng tre xanh xanh” đang lấp ló trong làn sương mờ ảo. Tính từ “bát ngát” như choáng ngợp cái nhìn của Viễn Phương. Ông thốt lên:
“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Từ láy tính từ “xanh xanh” đã gợi nên một màn mắc non của hàng tre bao trùm tất cả. Bài màu quen thuộc như dân Việt Nam, hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” hình ẩn dụ “hàng tre” chính là biểu tượng cho tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, mãnh liệt, sự kiên cường, bất khuất không gục ngã trước mọi thứ khó khăn thử thách của cả dân tộc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực, ẩn dụ, sóng đôi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
“Mặt trời” ở câu đầu là hình ảnh mặt trời thực ơ mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng, là nguồn sáng đối với vạn vật. “Mặt trời” thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ kính yêu. Bác là mặt trời cách mạng, soi đường chỉ lối, dẫn dắt dân tộc Việt Nam thoát khỏi kiếp người lầm than, mở ra một tương lai tươi sáng. Bác như nguồn sáng rực rỡ không bao giờ tắt trong lòng mỗi người dân đất Việt. Bác được so sánh với mặt trời là thiên thể vĩ đại của vũ trụ, tạo nên sự vĩ đại, ấm áp, tỏa sáng từ trái tim yêu nước thương dân của Bác. Đó cũng là lòng thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: đoàn người vào lăng thăm Bác trong mỗi xúc động, bùi ngùi, tiếc thương vô hạn.
Dòng người đó được tác giả liên tưởng để “tràng hoa” cũng là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Cuộc đời của họ cũng như bông hoa nở dưới ánh sáng mặt trời rực rõ. “Bảy mươi chín mùa xuân” là cách nói hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. con người bảy mwoi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời như mùa xuân góp vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Bằng điệp từ “ngày ngày” tác giả đã diễn đạt sự đều đặn của biết bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn cứ lặng lẽ, lần lượt vào lăng viếng Bác.
Khi đứng trước linh cữu Người, miềm biết ơn thành kính đã chuyển sang xúc động, nghẹn ngào.
Bác đang nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản trong ánh sáng dịu hiền. Cả cuộc đời Bác lúc nào cũng lo nghĩ cho đất nước có bao giờ yên. Bác ngủ yên giữa đây, khi miền Nam được giải phóng, Bác mới có thể yên lòng, thanh thản nghỉ ngơi. Hai câu thơ sử dụng cách nói giảm nói tránh để thể hiện sự xúc động, dâng trào của nhà thơ Viễn Phương.
Nhưng mặc dù biết Bác vẫn sáng mãi trong lòng của dân tộc, nhà thơ vẫn phải chấp nhận một cái sự thật là bác đã ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”
“Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự vĩnh hằng, cũng như Bác vậy luôn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân, người con yêu nước.
Thế nhưng tác giả vẫn đau xót “nghe nhói ở trong tim” đó là tấm lòng xót thương đến quặn lòng của nhà thơ đứng trước linh cữu Bác. Đoạn cuối là ước nguyện của nhà thơ trước khi phải rời xa lăng Bác.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Nghĩ đến ngày mai trở về miền Nam, rời xa lăng Bắc, tạm biệt miền Bắc nhà thơ không khỏi bùi ngùi, xúc động, tiếc thương “thương trào nước mắt”.
Điệp từ “muốn làm” thể hiện cái ước nguyện nho nhỏ của nhà thơ: chỉ muốn làm con chim để ngày ngày hót ca cho giấc ngủ của Bác, muốn làm một đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, muốn làm một cây tre trung hiếu để đứng canh giấc ngủ nghìn thu của Bác.
Mạch của xúc của bài thwo rất ổn định, tự nhiên cùng nhịp điệu sâu lắng, hài hòa đã tạo nên sự thành công của bài thơ.
Cảm xúc của nhà thơ cũng là cảm xúc của người con đất Việt dành cho Bác với sự tôm kính, yêu thương, đau xót khi vào thăm lăng, đứng trước linh cữu của Người.
Với chúng ta Bác sẽ luôn tồn tại trong trái tim, mãi là nguồn sáng vĩnh cửu soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quàn để sánh vai với các cường quốc năm châu”
Cảm Nhận Vẻ Đẹp Bức Tranh Thiên Nhiên Trong Bài Thơ Cảnh Ngày Hè
Mở bài 2: Thiên nhiên bốn mùa luôn là bức tranh tươi đẹp. Mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân là lúc đất trời nở hoa còn mùa thu là bước chuyển giao từ sự sinh sôi rực rỡ đến sự héo tàn, mùa đông thì cảnh vật chìm vào giá băng. Tuy trong ba mùa, mùa hè ít được xuất hiện nhất trong thơ văn. Nhưng khung cảnh thiên nhiên mùa hè ấy lại được hiện lên một cách đầy sinh động trong những vần thơ của Nguyễn Trãi.
Đôi nét chính về Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè
Để hiểu hơn về nội dung và tư tưởng của tác phẩm, trước khi phân tích và cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, bạn cần nắm được sơ nét về tác giả cùng tác phẩm.
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một nhà thơ một nhà quân sự chính trị lỗi lạc của đất nước. Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê ở tỉnh Hải Dương. Ông đã từng cùng cha là Nguyễn Phi Khanh thi đỗ và ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Nhưng khi giặc Minh xâm lược, nhà Minh thất thủ, cha ông bị bắt giải sang Trung Quốc.
Nhớ lời cha dặn ông quyết tâm đi tìm minh chủ phò tá để phục hưng nước nhà. Cuối cùng ông đã tìm gặp được người có cùng chí hướng đó là Lê Lợi. Kể từ ngày gặp Lê Lợi ông đã dốc hết tâm sức cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành khai quốc công thần cho triều Hậu Lê.
Nhưng nhắc đến Nguyễn Trãi không chỉ nhắc đến sự nghiệp chính trị vĩ đại mà còn phải nhắc đến sự nghiệp văn học đồ sộ. Từ những tác phẩm mang đậm sức chiến đấu như Quân trung từ mệnh tập đến những tác phẩm trữ tình nhẹ nhàng đậm chất thơ văn, Nguyễn Trãi đều để lại dấu ấn cho người đọc.
Với ông, thiên nhiên là người bạn thân cố tri cùng ông san sẻ mọi nỗi buồn. Trong quan hệ với thiên nhiên, ông không phải là một vị quan với chiến công vang dội mà ông chỉ là một người bình thường, một khách thơ.
Tìm hiểu tác phẩm Cảnh ngày hè
Cảnh ngày hè được trích từ Quốc âm thi tập. Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ được viết hoàn toàn bằng chữ Nôm được chia làm bốn phần là vô đề, môn thì lệnh, môn hoa mộc, môn cầm thú. Đây là một nỗ lực rất đáng ghi nhận của Nguyễn Trãi.
Nhờ có ông và nhờ có tập thơ này đã tạo nền móng cho việc sử dụng chữ Nôm để sáng tác thơ văn – vốn chỉ dùng chữ Hán. Tập thơ đã đánh dấu được vai trò của chữ Nôm đối với nền văn học. Bởi đọc thơ Nôm của Nguyễn Trãi tuy giản dị mộc mạc nhưng lại uyển chuyển tinh tế nhẹ nhàng gieo lại nhiều cảm xúc thẩm mĩ cho người đọc. Và bài thơ Cảnh ngày hè cũng là một bài thơ như thế.
Bài thơ được đánh số là bài 43 trong mục Bảo kính cảnh giới – Gương báu răn mình (bao gồm tổng 61 bài). Tác phẩm đã khắc họa một khung cảnh thiên nhiên bình dị nhưng tràn đầy sức sống nơi thôn quê yên bình.
Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi
Khung cảnh thiên nhiên cùng tâm thế người thi nhân, bức tranh cảnh vật cũng như cuộc sống là những nét chính cần tìm hiểu khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè.
“Rồi hóng mát thuở ngày trường”
Tâm thế ngắm cảnh thiên nhiên của người thi nhân
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã nói về một hoàn cảnh nhàn rỗi đặc biệt:
Nhịp thơ 1-2-3 với ngắt nhịp tự do cùng cách kể tự nhiên và thoải mái như lời nói hằng ngày đã cho thấy tâm thế ngắm cảnh của thi nhân. Khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy “rồi” ở đây thể hiện sự rảnh rỗi, nhàn hạ. “Hóng mát thuở ngày trường” thể hiện một hoạt động thư thái, nhàn tản và cũng không kém phần tao nhã. Tâm thế của người thi nhân hiện lên một cách thư thái, an nhàn, thảnh thơi. Với tâm thế ấy thì bức tranh thiên nhiên nơi làng quê cũng hiện lên hòa hợp với tâm hồn của con người.
Trạng thái nhàn rỗi không vướng bận này là một trạng thái bình thường với mọi người như với một người luôn nặng lòng với đất nước như Nguyễn Trãi, con người mà ” tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc “, thì đây là một trạng thái bất thường. Gắn với hoàn cảnh lịch sử đây là lúc Nguyễn Trãi không được triều đình trọng dụng nên cáo lão lui về ở ẩn để giữ khí tiết. Đây là một nét buồn trong sự nghiệp của ông, vì ông còn mong muốn đóng góp nhiều hơn cho đất nước…
Nhưng nghĩ ở một góc độ khác đây lại là một cơ hội hiếm hoi cho ông sống cho bản thân mình. Nên đây là lúc để ông gạt bỏ hết mọi bộn bề lo toan mà tận hưởng những phút thanh nhàn hiếm hoi trong suốt cuộc đời của ông. Chính vì vậy, trong hoàn cảnh đó ông không buồn mà lại tận dụng nó dùng nó để “hóng mát”, chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên.
Cách kết hợp ngày trường khiến cho ta có cảm giác thời gian đang kéo dài ra đến bất lực chán chường. Nhưng trong khoảng thời gian ngày dài đằng đẵng ấy ông đã có thiên nhiên cùng bầu bạn, cùng chia sẻ nhau khoảng thời gian ấy. Cách ngắt nhịp 1/2/3 là một sự phá luật của Nguyễn Trãi trước cách ngắt nhịp cổ điển chẵn trước lẻ sau của thơ ca trung đại. Từ đó gợi ta cho liên tưởng về hình ảnh một ông già râu tóc bạc phơ từng bước từng bước đi dạo ngoài hiên làm bạn với cây cỏ thiên nhiên.
Khi phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy đó được xem là một phong thái ung dung tự tại, thoát tục dường như không có gì có thể trói buộc hay làm vẩn đục tâm hồn thanh cao này.
“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Bức tranh cảnh vật trong bài Cảnh ngày hè của tác giả
“Mộng lành nảy nảy bởi hòe trồng Một phát xuân qua một phát trông Có thuở ngày hè trương tán lục Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”
Thiên nhiên với nét phác thảo xanh đầu tiên
“Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Mỗi miền quê lại đặc trưng bởi những phong cảnh thiên nhiên riêng biệt. Đó có thể là hình ảnh của quán nước, là nét đẹp của gốc đa, sân đình, là cánh diều, là triền đê…. Nhưng khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy cây hòe hiện ra gợi cho ta ấn tượng về giấc mộng công danh như điển tích giấc mộng về cây hòe. Tuy vậy, cây hòe trong thơ của Nguyễn Trãi lại là một hình ảnh biểu trưng của mùa hè. Nguyễn Trãi đã từng sử dụng hình ảnh cây hòe để gợi tả sức sống mùa hè trong những ý thơ:
“Long lay đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh hòe buông sắc lục đang bao trùm lên không gian và cảnh vật xung quanh. Đó là một màu xanh đặc trưng vốn có, và cũng chính màu xanh đó đã mở rộng không gian, tạo cảm giác thư thái giữa những ngày hè oi nồng. Nét phác họa đầu tiên của bức tranh mùa hè đó là màu xanh của cây hòe. Thiên nhiên trong thơ trung đại thường mang tính ước lệ như khi tả mùa xuân, Nguyễn Du chỉ phác họa bằng:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa” “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Hay khi tả mùa thu:
Nhưng ở Nguyễn Trãi ông lại thiên về tả thực, tả sức sống được gợi ra từ cảnh vật. Chính vì vậy mà cây hòe của ông không mềm yếu mong manh cũng không phải là một ẩn ý biểu trưng cho đời người ngắn ngủi mông công danh. Sức sống của cây hòe dường như dồn lại ở từ láy “đùn đùn”. “Đùn đùn” là từ láy diễn tả sự dồn nén chực chờ để bung tỏa. Như Đỗ Phủ cũng từng dùng từ “đùn đùn” để gợi ra sự hùng vĩ của cảnh vật.
Và sau này, ta còn có Huy Cận với câu thơ:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”
Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè sẽ thấy “tán rợp giương” gợi tả hình ảnh về cây hòe xòe tán lá dường như bao phủ cả đất trời. Một màu xanh mát che phủ khắp cả không gian. Mùa hè thường oi bức nhưng với cái nền xanh tươi mát này ta lại không cảm thấy một chút oi bức nào.
“Cuối trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Cây thạch lựu đang trổ dáng ngày hè
Trên khung nền xanh ấy, Nguyễn Trãi còn chấm phá thêm bởi những chấm đỏ như đang nở bung của cây thạch lựu. Đan xen giữa vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè chính là hình ảnh thạch lựu tô điểm thêm sắc đỏ trước hiên nhà.
Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy “thạch lựu hiên” nghĩa là cây thạch lựu bên hiên nhà. “Còn” chỉ trạng thái tiếp diễn. Sức sống ấy đã diễn ra vẫn đang diễn ra và sẽ còn tiếp tục diễn ra. Động từ “phun” được Nguyễn Trãi sử dụng thật đắc. Bởi phun đã diễn tả được sức mạnh mẽ tràn đầy bên trong cảnh vật, trào dâng không sao kìm nén được. Cũng nói về cây thạch lựu nhưng trong những dòng thơ của Nguyễn Du cây thạch lựu ấy không rực rỡ như của Nguyễn Trãi:
“Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Bởi ở bức tranh mùa hè của Nguyễn Du dường như đó là một mùa hè mới chớm. Và còn vì một lẽ là Nguyễn Du thiên về khắc bước đi của thời gian không chú trọng tả cảnh. Còn Nguyễn Trải thì chú trọng tả cảnh hơn và mùa hè trong sáng tác thơ của Nguyễn Trãi khi mọi vật đã rực rỡ rõ nét nhất, đặc trưng nhất của mùa hè.
Sen hồng nở rộ và ngát thơm bên hiên nhà
Khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy không chỉ cảm nhận bức tranh thiên nhiên bằng đường nét và màu sắc mà Nguyễn Trãi còn cảm nhận bức tranh ấy bằng cả khứu giác.
“Hồng liên trì” chính là ao sen hồng. Điểm thêm vào bức tranh mùa hè ấy còn là màu hồng của sen. Ao sen nở rộ khiến cho mặt hồ dường chỉ có màu hồng của hoa sen mà thôi. Đây là một ấn tượng mạnh về thị giác.
“Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh phát cỏ ươm sen”
Ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng tài tình phép đối. Đối với từ “còn” trong câu thơ “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” chính là từ “đã”. Đã mang ý nghĩa hoàn tất chỉn chu, quá trình ấy đã hoàn thành. “Tiễn” ở đây là từ cổ mang ý nghĩa hương sen đã ngát đã đầy. Mùi hương hoa sen thơm ngát phảng phất khắp nơi tràn ngập không gian một hương thơm nhẹ nhàng thanh khiết.
“Tả lòng thanh mùi núc nác Vun đất ải lãnh mồng tơi”
Những gam màu nóng được kết hợp lại trên nền xanh tạo ra một hiệu ứng về thị giác đặc biệt, một bức tranh mùa hè dần hoàn chỉnh với những đường nét, màu sắc, hương thơm. Và điều đặc biệt đây chỉ là những hình ảnh dân dã quen thuộc trong cuộc sống bình thường, không mang tính ước lệ. Thế nhưng từ chính sự vật bình dị ấy đã bật lên một sức sống bất ngờ.
Phải tinh tế lắm phải yêu thiên nhiên lắm nhà thơ mới có thể cảm nhận và phát hiện vẻ đẹp ẩn khuất đằng sau những sự vật bé nhỏ bình dị kia. Bình giảng vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy hình ảnh thiên nhiên bình dị đã tạo nên một nét rất riêng trong thơ của Nguyễn Trãi. Đó là những:
Hay những ý thơ:
Bức tranh cuộc sống với nhiều âm thanh trong Cảnh ngày hè
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Những âm thanh sinh động của cuộc sống làng quê
Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy sau tâm thế ngắm phong cảnh chính là bức tranh cảnh vật và bức tranh về cuộc sống con người. Những câu thơ của Ức Trai khiến ta liên tưởng đến những miền quê nghèo với những khu chợ đông vui tấp nập. Nơi đó có những đứa trẻ líu ríu theo mẹ đi chợ, là hình ảnh những mẹ già lưng còng ngồi bên những mớ rau…
Không chỉ cảm nhận bức tranh thiên nhiên bằng thị giác, khứu giác mà tác giả còn cảm nhận nó bằng thính giác.
“Lao xao” gợi lên âm thanh về sự hạnh phúc ấm no. Từ láy “dắng dỏi” là từ tượng thanh chỉ âm thanh rền rĩ, xôn xao của tiếng ve. Tiếng ve là một dấu hiệu quen thuộc của mùa hè. Nhưng ở tiếng ve này, ta bắt gặp điều gì đó rất giản đơn, rất mộc mạc. Dường như chính tiếng ve ấy khiến cho bầu trời cũng thay đổi. Tiếng ve cất ra để gọi buổi chiều “lầu tịch dương” – đây là một hình ảnh đẹp.
Cảnh chiều tà tường gợi những cảm xúc bâng khuâng khó tả, đôi khi là sự tiếc nuối của con người trước cảnh ngày tàn, của những kiếp người nhỏ bé. Nhưng cảnh chiều tàn trong bài thơ của Nguyễn Trãi lại không mang màu sắc u ám bởi nó đã được tô điểm bởi âm thanh của tiếng ve. Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè sẽ thấy tiếng ve xao động ấy đã đánh thức mọi vật tạo một một nét đọng trong bức tranh tĩnh chiều tàn. Sau này, Tố Hữu cũng dùng âm thanh để diễn tả nhưng đó là âm thanh của tiếng tu hú…
Dân giàu đủ, khắp đòi phương”
Mong ước về hạnh phúc an yên cho nhân dân của tác giả
Hình ảnh một miền quê an yên thanh bình như hiện lên đầy sinh động và có hồn qua những nét phác họa của Nguyễn Trãi. Nơi ấy không có loạn lạc chiến tranh, chỉ có những âm thanh chân thực từ cuộc sống ấm no, chỉ có những tiếng nói cười xen lẫn những tiếng ve khi chiều tà buông xuống. Vẻ đẹp ấy thật bình dị, mộc mạc mà đẹp hơn hết thảy. Chính những phút giây hòa mình với cuộc sống làng quê ấy mà tác giả có một khát khao không phải cho bản thân ông, mà cho chính nhân dân, cho đất nước và cũng là cho những con người nơi đây…
” Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Khi phân tích bài thơ Cảnh ngày hè cũng như cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta thấy Nguyễn Trãi đã mong ước có khúc đàn Nam Phong của vua Thuấn để nhân dân mãi có những giây phút yên bình của một sống an lành hạnh phúc. Trong truyền thuyết, dưới thời vua Thuấn thái bình thịnh trị, nhân dân hưởng lạc an yên, luôn cất cao những cung đàn Nam Phong. Và cũng chính lúc này đây, Nguyễn Trãi mong cho nhân dân được hưởng hạnh phúc như thế. Đó cũng là mong muốn cả đời của ông, điều mà ông luôn nghĩ suy canh cánh trong lòng.
Đánh giá tác phẩm khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè
Chỉ với vài nét chấm phá, Nguyễn Trãi đã hoàn thiện bức tranh mùa hè với đầy đủ thanh, sắc, hương. Đó là một mùa hè rực rỡ tràn đầy nhựa sống. Dù trong hoàn cảnh nào thi tấm lòng của ông hướng về thiên nhiên luôn là sự trân quý. Nên thiên nhiên tươi vui mà không bị nhuốm màu tâm trạng sầu bi của một kẻ sĩ sa cơ lỡ vận.
Thành công của bài thơ không chỉ đến từ sự quan sát tinh tế của nhà thơ mà còn đến từ việc sử dụng thể thơ độc đáo thất ngôn xen lục ngôn. Chính việc sử dụng thể thơ cùng cách ngắt nhịp độc đáo như là một cách thức để ông Việt hóa thể thơ của Trung Hoa. Không sử dụng những hình ảnh khuôn sáo ước lệ mà thay vào đó những hình ảnh bình dị của cuộc sống. Thổi hồn vào từng sự vật khiến cho ta thấy tuy chỉ là những vật nhỏ bé nhưng vẫn tràn đầy nhựa sống, vẫn có thể truyền tải hết không khí của mùa hè của thiên nhiên đất trời.
Kết bài: Bài thơ đã một lần nữa chứng minh tài năng của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên mùa hè bình dị. Tuy nói về khung cảnh thiên nhiên nhưng qua đó ta vẫn thấy hiện lên một con người thanh cao tự do tự tại chiêm ngưỡng bức tranh mùa hè tuyệt đẹp của tạo hóa. Qua việc cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè, ta còn thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên, khát khao gắn bó với quê hương đất nước, một tâm hồn yêu đời, một tấm lòng luôn lo nghĩ cho nhân dân, luôn hướng về nhân dân. Đó chính là tấm lòng nhân đạo sâu sắc luôn đặt đất nước, nhân dân lên đầu dù đã ở tuổi xế chiều…
Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên trong Cảnh ngày hè
Mở bài cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè
Sơ nét chính về tác giả Nguyễn Trãi và bài thơ Cảnh ngày hè.
Tóm tắt nội dung cùng giá trị của tác phẩm.
Dẫn dắt vấn đề: cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi.
Thân bài cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè
Khung cảnh thiên nhiên và tâm thế của người thi nhân.
Bức tranh cảnh vật và vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè.
Nét phác họa xanh xanh của những bông hòe.
Màu đỏ rực lửa của những cây thạch lựu.
Sắc hồng thanh mát và ngát thơm của những bông sen.
Bức tranh cuộc sống và vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè.
Những âm thanh chân thực đầy sinh động nơi cuộc sống làng quê yên bình.
Khát khao về cuộc sống bình yên, ấm no và hạnh phúc của Nguyễn Trãi với nhân dân.
Khái quát về nghệ thuật của tác phẩm, nhận xét về cách sử dụng từ của nhà thơ.
Khẳng định tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Trãi, khát khao giao hòa với thiên nhiên cảnh vật.
Bày tỏ những suy nghĩ khi cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè.
Có thể thấy, bằng tài năng cùng trái tim và nhiệt huyết của mình với nhân dân, với quê hương đất nước, Nguyễn Trãi đã thể hiện thành công mong ước về hạnh phúc ấm no và bình yên cho nhân dân qua những vần thơ tả cảnh ngày hè sinh động. Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong bài Cảnh ngày hè còn cho ta thấy tư tưởng của ông chính là bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu quê hương đất nước cùng với ước mong cống hiến cho tổ quốc.
Cập nhật thông tin chi tiết về Vẻ Đẹp Ngôn Từ Trong Những Câu Thơ Diễn Tả Cảm Xúc Kim trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!