Xu Hướng 6/2023 # Vẻ Đẹp Lối Sống Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bài Thơ Nhàn # Top 9 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Vẻ Đẹp Lối Sống Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bài Thơ Nhàn # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Vẻ Đẹp Lối Sống Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bài Thơ Nhàn được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề quan tâm trong bài viết: vẻ đẹp lối sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.

– Phân tích những khía cạnh của vẻ đẹp lối sống nhàn trong bài thơ:

+ Nhàn là “Một mai, một cuốc, một cần câu” trở về với cuộc sống thuần hậu, chất phác của một “lão nông tri điền” đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn (tạc tỉnh canh điền). Con người trí thức có danh vọng đương thời đã tìm thấy niềm vui trong công việc lao động, làm bạn với cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Mai để đào đất, cuốc để xới vun và cần câu để câu cá. Cách dùng hên tiếp 3 danh từ kết hợp với một số từ “một” đúng đầu cho thấy cái gì cũng đã có, đã sẵn sàng. Những vật dụng gắn với công việc lấm láp, vất vả của người nông dân lao động đi vào trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có cái thanh nhàn thư thái riêng của một người tự tại, có thể làm gì tùy theo sở thích cá nhân bởi lẽ mai, cuốc, cày… là để “Cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà – Nào của nào chăng phải của ta”.

+ Con người đã tìm thấy niềm vui, sự ưng ý thanh thản trong cuộc sống đó “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Hai chữ “thơ thẩn” là trạng thái thảnh thơi, “vô sự’, trong lòng không còn gợn chút cơ mưu tư dục của con người. Trong tương quan với “thú nào” của “dầu ai” kia, nhàn đã trở thành một thú có dư vị và sức hấp dẫn riêng đốì với nhà thơ, tạo nên ầm điệu chung cho tất cả tác phẩm: nhẹ nhàng, lâng lâng: “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách – Được thú ta đà có thú ta”.

+ Nhàn là “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ – Người khôn, người đến chốn lao xao”. “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng. “Chốn lao xao” chính là chốn quan trương, chốn giành giật tư lợi, sang trọng, tấp nập ngựa xe quyền quý, kẻ hầu người hạ, bon chen luồn lọt hãm hại nhau. Những âm thanh “lao xao” xe xe ngựa ngựa ấy một người tự nhận là “dại” như Nguyễn Bỉnh Khiêm thây “ngại bước chen” (“Thấy dặm thanh vân ngại bước chen”; “Nép mình qua trước chốn lao xao”; “Ngõ hạnh đưa người chân ngại chân”). Còn “nơi vắng vẻ” là nơi tĩnh tại của thiên nhiên, nơi tâm hồn tìm thấy sự thảnh thơi, nơi “Cửa vắng ngựa xe không quýt ríu”. Vậy cái “dại” và “khôn” ở đây thật ra là cách nói ngược, thâm trầm ý vị, vừa tự tin, tự cho mình là “dại”, người là “khôn”, vừa hóm hỉnh pha chút mỉa mai. Sự khôn, dại ấy trở lại trong bài thơ số 94: “Khôn mà hiểm độc là khôn dại – Dại vốn hiển lành ấy dại khôn”.

+ Nhàn là “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống – Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”. Không chỉ xa lánh danh lợi mà dường như còn cười cợt cả cái chôn lao xao lo giành giật nó, rốt cuộc chỉ như giấc mơ dưới góc cây hòe. Hai chữ “nhìn xem” biểu hiện một thế đứng cao hơn, dường như đã tiên liệu ngay từ khi chọn lối sống của một con người luôn tự cho mình là “dại”. Nhịp ngắt 2/5 của câu thơ cuối cùng gợi cảm nhận phú quý chĩ là một giấc mơ mà thôi. Đúng là “Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa!”.

– Kết lại nội dung phân tích: Lối sống nhàn trong bài thơ không đơn thuần là “giải pháp tình thế”, do hoàn cảnh ngẫu nhiên mà con người có. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông chủ động chọn lối sống nhàn. Sự chủ động ấy trong cuộc đời biểu hiện ở việc xin từ quan khi dâng sớ chém lộng thần không có kết quả. Trong bài thơ này, dấu ấn của sự chủ động hiện ra ở việc dứt khoát chọn cho mình một niềm vui riêng, một cách sống riêng so với những “giá trị” khác mà sô’ đông đang theo đuổi. Ngay từ những câu thơ đầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xác định “Thơ thẩn… nào” thì “thơ thẩn” với “thú nhàn” đã là một cách chọn lựa vượt lên vô vàn những “thú nào” của bất cứ ai. Sự chọn lựa cũng dứt khoát, quyết liệt trong cách sống: “Ta dại… lao xao”. “Ta” kiên định với chọn lựa của ta đầy tự tin. Chủ động trong thế “Rượu… chiêm bao”. Có người đang đứng trên phú quý, vượt ra ngoài “lực hấp dẫn” của phú quý để “nhìn xem” và cười cợt về nó. Như vậy nhàn không chỉ là tâm thế sống, niềm vui sống mà còn là một quan niệm sống, một triết lí sống.

Phân Tích Vẻ Đẹp Nhân Cách Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bài Thơ Nhàn

Vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại hơn 700 bài thơ chữ Hán và chữ Nôm. Các bài thơ được tập hợp trong Bạch vân am thi tập và 170 bài thơ chữ Nôm trong Bạch vân quốc ngữ thi. Thơ ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán thói đời đen bạc trong xã hội. Bài thơ Nhàn là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho lối sống, một cách xử thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay trong thời đại có nhiều biến động dữ dội nhất của lịch sử.

Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao. Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Nhan đề của bài thơ Nhàn do người đời sau đặt cũng là một sự tri ân với tác giả. Chữ Nhàn trong bài nhằm chỉ một quan niệm, một cách xử thế. Vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ được thể hiện qua cách nghĩ, cách sống trong sạch, khiết tịnh và đầy lạc quan của bậc tài danh:

Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào. Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao.

Trong lịch sử, Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều, cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Dưới thời phong kiến của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân Nho gia không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận nhưng được phong tới tước Trình Quốc Công ngay từ lúc còn sống. Lúc từ quan, ông về ở ẩn nơi quê nhà, mở trường dạy học, sống gần gũi với thiên nhiên Bởi thế, thiên nhiên trong thơ ông mang một vẻ đẹp vừa hồn hậu, vừa triết lý cao sâu. Hai câu thơ đầu toát lên phong thái thoát tục của bậc tài danh giữa cuộc đời:

“Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”.

Từ “một lặp lại ba lần làm hiện lên một cuộc sống đơn sơ, bình dị, không cầu kì vật chất. Tất cả đều là củ vườn quê, trong tư thế lao động. Câu thơ cho thấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao lao động chân chính, quý trọng sức lao động của con người. Của cải tạo ra phải bằng sức lao động và tâm hồn trong sáng của con người mới đích thực là của quý ở đời. Người quân tử tiếp thu cái mạch của đất, nhận lấy cái khí của trời để tạo tác nên khí chất cứng cỏi, thanh cao, thuần với tự nhiên.

Tuy không sa đà vào học thuyết của Lão Tử, song Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thể hiện một lối sống “vô vi”: ” Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Cái “vô vi” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa hẳn là phủ nhận mọi sự tồn tại của đời sống lý trí nhưng cũng tiệm cận đến sự thoát ly đời sống vật chất tiện nghi, đạt đến sự khiết tịnh của nhân tâm, một sự khiết tịnh thường thấy của các bậc nho gia. Xuất thân là bậc trí học thượng thừa, uy danh cũng đứng đầu thiên hạ, vị thế ấy có thể có được một cuộc sống tột bậc cao sang. Thế nhưng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sớm từ bỏ con đường quan trường, tìm kiếm một cuộc sống thanh tịnh, tu tâm dưỡng đạo, sống cuộc đời thanh bần, an lạc trong đạo triết của mình, tạo phúc cho thiên hạ. Một phần là bởi thời cuộc quá nhiễu nhương, chính pháp bị xem thường, phần chính là bởi ông yêu mến tự cảnh, muốn giữ gìn và phát huy minh triết của Nho gia. Bởi thế mà ông đã đặt mình ở nơi vốn còn tồn chứa nguồn mạch sự sống chân thiện để tĩnh tâm:

“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao”.

“Nơi vắng vẻ” là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Đó cũng là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Mọi mối quan hệ đều bình đẳng, trong sạch và tĩnh lặng. “Chốn lao xao” là chốn cửa quyền, sang trọng, ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, bon chen, sát phạt. Nơi ấy, tham quyền thắng thế, đạo đức bị khinh bỉ, tiền bạc làm điên đảo con người.

Trên cái nền mang tính triết luận, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự thán về bản thân, có vẻ như rất nghịch lý. Người “dại” thường tìm nơi vẳng vẻ. Người “khôn” thường thích đến chốn lao xao. Đây là cách nói ngược vô cùng hóm hỉnh nhưng sâu cay.

Nhìn vào cuộc đời, suy tư của Nguyễn Bỉnh Khiêm không khỏi khiến chúng ta giật mình. Người “dại” ấy thực chất là người “khôn”. Danh lợi, quyền lực, địa vị vốn là những ma lực không ngừng quyến rũ, lôi kéo con người đến tội lỗi. Nó làm khởi phát lòng tham, khiến con người đánh mất thiện tính, tranh đoạt không biết mệt mỏi. Người “dại” biết quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hoà nhập với thiên nhiên, tránh được những hiểm nguy ở đời quả thực là “khôn”. Còn người “khôn” tìm đến chốn lao xao, để cho ngọn lửa tham tàn thiêu đốt nhân tính, tự trói buộc mình vào ma lực của đồng tiền, cuồng quay điên đảo thì ấy là khôn dại:

“Khôn được ích mình, đừng để dại,Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn.Khôn mà hiểm độc là Khôn Dại,Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn”.

(Khôn dại – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Cái khôn của con người không phải tính bằng việc hơn thua bao nhiêu tuổi mà nó nhìn xoáy vào chiều sâu cảm nhận của mỗi người, cách nhìn sự việc và xử sự nơi cuộc sống. Đừng để tâm hồn ta lụi tàn ngay từ khi còn sống. Chính lòng tham khiến ta không còn nhận biết hay có thể thưởng thức cái đẹp chân chính ở đời. Quan niêm sống thanh cao, thoát tục khẳng định vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ phi thường, vượt lên trên mọi cám dỗ và ràng buộc.

Thoát lên trên những cái tầm thường của cuộc sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đến điểm nương tựa cho tâm hồn, cốt cách và cuộc đời mình, không gì khác ngoài một cuộc sống gắn kết với tự nhiên đầy sinh lực và đạo triết của mình:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Dường như, ta không thể tìm thấy một sự khiên cưỡng nào trong quan niệm sống hay lối sống của trạng Trình. Ông đặt mình trong vũ trụ như nhiên để vận động luân hòa. Mùa nào thức ấy, việc ấy, không có chi phải sầu não, lo âu. Sống thuần hậu phải chăng là cách sống mà các vị cao nhân, ẩn sĩ luôn tu tập:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy các sự vật hết sức giản dị, gần gũi để làm nổi bật lên nét đặc trưng riêng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật có sẵn xung quanh tác giả, mang đậm bản chất thôn dã. Đó là những sản vật do con người làm ra hoặc thiên nhiên ban tặng. Sinh hoạt của ông cũng hết sức nhịp nhàng, tuần hoàn theo dòng chảy của thời gian: tắm hồ sen, tắm ao. Cung cách sống thật khiêm nhường, bình dị của một bậc trí thức đại tài. Mọi nhu cầu của cuộc sống luôn được đáp ứng đủ không thừa cũng không thiếu. Cuộc sống tuy có phần đạm bạc nhưng hết sức thanh nhàn, giải phóng con người khỏi phường danh lợi, đem con người đến gần hơn với tự nhiên, hòa hợp với vạn vật. Nguyễn Trãi ở thế kỉ XIV cũng đã từng gây dựng và đề cao:

“Ao cạn vớt bèo cấy muốngĐìa thanh, phát cỏ, ươm sen”.

Và trong lúc thảnh thơi, con người lại tận hưởng cái đẹp của cuộc sống:

“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

Có rượu tìm đến cội cây, nơi quang đãng, vắng lặng đẻ uống, để say thỏa thích, mặc sự đời trôi chảy, nhìn mọi người tranh đoạt phú quý mà cười khinh miệt. Uống rượu thì đâu cần chỉ kẻ hầu người hạ, bàn tiệc linh đình, đàn hát xôn xao. Uống rượu để thưởng nhận cái nồng say của rượu, để thưởng lãm cảnh vật, để thức ngộ chân lý cuộc đời: ” phú quý tựa chiêm bao”. Nguyễn bỉnh Khiêm nhìn cuộc đời như là một giấc mộng. Cuộc đời thực chính là những tháng ngày sống đúng nghĩa, sống vì con người, vì nhân loại.

Cái say và giấc chiêm bao của tác giả thể hiện quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Công danh, phú quý, cái mà mọi người đang tranh giành nhau, đối với ông chỉ như một giấc mơ chẳng có ý nghĩa gì. Cái tồn tại mãi mãi vĩnh viễn là thiên nhiên và nhân cách con người

Câu thơ thể hiện quan điểm sống “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống “nhàn ” là sống hòa hợp với tự nhiên, sống đạm bạc, nhàn tản, vui với thú điền viên thôn dã, xa lánh quyền quý, danh lợi để giữ cốt cách thanh cao. Để có thể sống “nhàn”, con người phải chiến thắng cái tham vọng của bản thân, trả mình về với thực thể tự nhiên trong sạch và cao quý, không ngừng thanh lọc tâm hồn vươn tới chân, thiện, mĩ. Điều này cho thấy ông là một người có trí tuệ uyên thâm, nhân cách cao cả, bản lĩnh phi thường hiếm có.

Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên”, thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.

Xây dựng hình ảnh con người tự do vốn là tâm điểm của nền văn học thế kỉ XVI. Ở thời đại này, vì lực hút của triều đình phong kiến, Nho giáo độc tôn mạnh, nên gần như hút về tâm là quỹ đạo chủ đạo. Nguyễn Bỉnh Khiêm không bị hút về tâm nhưng cũng không hẳn ly tâm, nhờ đó tạo nên chính sự tự chủ cho người thức giả. Ông ung dung, tự tại, muốn ra thì ra, muốn về thì về, không phụ thuộc vào ai hay vào thứ gì. Cũng như các sĩ tử khác, ông trải qua quan trường để thực hiện cái chí của đáng nam nhi. Rồi khi thấy cần phải xuất thế ông liền chủ động rút lui, không lưu luyến gì.

Chính phong thái ung dung chủ động kia đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dòng mạch tư duy tự do tự tại quy tụ nên hình tượng con người không bị lệ thuộc vào quyền lực nữa mà ít hay nhiều đã là con người giải thoát. Cần phải thừa nhận rằng trong cái “nhàn”, cái thoát tục của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một phương diện gọi là tự tại. Nhàn ở đây không là ẩn, chưa phải xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận nổi mà trở về chăm nom vài luống cúc, hoặc lẩn trốn vào cửa thiền, hoặc tìm quên trong thú vui ở “nơi vắng vẻ” với cần câu, chén rượu. Nhàn, bởi mình cảm thấy phải làm chủ cuộc sống của mình, cho nên tự mình trở về an nhàn nghỉ ngơi. Nhưng khi triều đình kêu gọi đi đánh bọn phản loạn thì ông sẵn sàng và hăng hái ra giúp. Nhàn trong trường hợp này là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là nét khác với nhàn ở nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh triều đình, “dũng thoái”. Nhàn tự tại không cố chấp mà hồn nhiên hơn.

Vật chất làm nên giá trị sống nhưng không thể quyết định giá trị của con người. Chiến thắng sức cám dỗ của giàu sang, phú quý là chiến thắng hiển hách của các bạc hiền nhân. Nguyễn bỉnh Khiêm đã chọn một lối sống thanh cao, thoát tục, không để vật chất làm cho vấy bẩn tâm hồn. Thế nhưng, thái độ nhàn của Nguyễn bỉnh Khiêm không phải là cái nhàn yếm thế. mà là cái nhàn hiện thế, rất tích cực và mạnh mẽ. Ông vẫn ở trong cuộc đời, không xa rời trách nhiệm của người làm trai đối với đất nước.

Vẻ Đẹp Tâm Hồn Và Triết Lí Sống “Nhàn” Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, còn có tên gọi là Trạng Trình. Ông là người học vấn uyên thâm, thông minh, chính trực, coi thường danh lợi. Ông sống trong thời đại phong kiến bắt đầu khủng hoảng khi Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Vì gặp thời buổi loạn lạc nên ông chỉ làm quan 8 năm rồi lui về ở ẩn, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được người đời suy tôn là Tuyết Giang phu tử và qua đời ở tuổi 94 vào năm 1585. Lúc sinh thời, ông để lại cho nền văn học hai tập thơ: “Bạch Vân am thi tập” viết bằng chữ Hán với gần 700 bài và “Bạch Vân quốc ngữ thi” viết bằng chữ Nôm với gần 170 bài. Thơ của ông mang đậm triết lí, giáo huấn, ca ngợi chí của kẻ sĩ và cái thú thanh nhàn. Trong đó, bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc và phong phú, nói lên triết lí sống cao đẹp của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong suốt hơn 40 năm sống ẩn dật. Bài thơ số 73 trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi” cho ta thấy một cách rõ ràng quan niệm sống nhàn và vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm – “Nhàn”.

Thế nào là sống nhàn? Ngay từ câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho ta câu trả lời. Sống nhàn chính là nhàn ở thân, nhàn ở công việc:

“Một mai, một cuốc, một cần câu”

Tác giả liệt kê ra các công cụ “mai”, “cuốc”, “cần câu” với số từ “một”, kết hợp với nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, tái hiện cuộc sống lao động thôn quê đều đặn, thong thả. Một cuộc sống không tư lợi, bon chen, chỉ cần đáp ứng những nhu cầu tối thiểu rất giản dị và đơn sơ. Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên với dáng vẻ của một lão nông tri điền thuần hậu, chất phác, thư thái, ung dung, ngày ngày đào đất, cày ruộng, câu cá, tìm kiếm niềm vui trong công việc lao động chân tay vốn dành cho nhà nông. Câu thơ thứ hai càng thể hiện rõ hơn thái độ, tâm trạng của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi trực tiếp nói lên quan điểm sống của mình. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “nhàn” không chỉ là ở thân mà còn là thảnh thơi, ung dung, mặc kệ những thú vui người đời:

“Thơ thẩn dù ai vui thú nào”

Câu thơ cho thấy ông rất an nhàn qua cụm từ “thơ thẩn”, gợi ra trạng thái thảnh thơi, lấy làm bằng lòng với cuộc sống đơn sơ, giản dị. Một con người đức cao vọng trọng, tài đức hơn người, được muôn dân kính trọng như thế mà nay tìm về nơi thôn dã, hoá thân thành một lão nông tri điền với những dụng cụ thô sơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn kiên định với lựa chọn của mình, dù cho ai có “vui thú nào”, có tìm đến những vinh hoa phú quý với cuộc sống đủ đầy, ông vẫn chẳng màng danh lợi, không bận tâm tới cuộc sống bon chen kia, ông an nhiên với lối sống “thơ thẩn” mình đã chọn. Từ đó cho thấy tâm trạng của ông là một kẻ sĩ “an bần lạc đạo” vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen tầm thường của người đời, từ ông toát lên một vẻ đẹp nhân phẩm khó có thể tìm được ở thời bấy giờ.

Lối sống nhàn vẫn được tiếp tục thể hiện qua cách sống thường ngày của ông ở hai câu luận:

“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả cuộc sống của mình khi về ở ẩn, tìm kiếm thú vui nơi thôn quê qua chuyện ăn uống, sinh hoạt. Câu thơ ngắt nhịp 1/3/1/2, kết hợp với nghệ thuật đối giữa bốn mùa xuân, hạ, thu, đông cùng với những từ ngữ hết sức giản dị, gần gũi. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ nên bức tranh tứ bình độc đáo với nhịp điệu tuần hoàn của thời gian đều đặn, thong thả, gợi ra hình ảnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở tâm thế chủ động, ung dung khi hoà nhịp sống của mình với nhịp điệu thiên nhiên. Câu thơ mở ra bức tranh bốn mùa với mùa nào thức ấy, có hương vị, có màu sắc. Tuy giản dị, đạm bạc với những món ăn dân dã, những sinh hoạt đời thường nhưng đó là lối sống thuận theo lẽ tự nhiên, hoà hợp với thiên nhiên, hưởng những thức có sẵn theo mùa nơi thôn dã mà không cần phải mưu cầu tranh đoạt. Tất cả đều không hề khắc khổ bởi nó là điều đáng quý, bởi đó mà lại tạo ra khí điệu thanh cao nơi con người ông. Với lối sống này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có sự gặp gỡ với thi hào Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh, phát cỏ, ươm sen”

Cuộc sống tự do, thảnh thơi, tự tại mà biết bao bậc Nho sĩ mơ ước đến, nhưng mấy ai lại có được chữ “nhàn” này ở cái thời buổi loạn lạc kia?

Trở về hai câu thực, ta có thể thấy nhàn đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là xa rời phường danh lợi, quyền quý:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao.”

Hai câu thơ không chỉ nói về lối sống nhàn, mà còn nói lên quan niệm dại – khờ đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nơi vắng vẻ và chốn lao xao là hai hình ảnh đối lập giữa hai không gian sống khác nhau. Một nơi yên tĩnh, ít người qua lại, không phải cầu cạnh, tranh đua, cũng chẳng phải bon chen, luồn cúi, giành giật – đó là “nơi vắng vẻ”, nơi thiên nhiên trong lành, con người có thời gian nghỉ ngơi, thư giản, nơi mà ông lui về ở ẩn, nơi Bạch vân am ông mở lớp dạy học. Còn nơi kia, nơi đô thị sầm uất, nhộn nhịp, nơi kinh thành quyền quý, tranh đoạt, con người phải đua chen, luồn cúi, sống giữa quan trường đầy mưu mẹo, lừa lọc, cả thiên nhiên và con người đều vô tình trật nhịp nhau, nơi mà ông gán cho cái danh: “chốn lao xao”.

Ông nhận “dại” về mình, nhường “khôn” cho người, thực ra là cách nói tinh tế, khéo léo thể hiện lối sống an bần lạc đạo, coi thường danh lợi. Cách nói ngược nghĩa này không chỉ hóm hỉnh, sâu sắc mà còn thể hiện khái niệm “dại” – “khôn” đầy ý vị theo quan niệm của riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm mà ông cũng đã từng nói đến ở nhiều bài thơ khác:

“Khôn mà hiểm độc là khôn dại Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.”

Thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự phủ nhận danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”. Mọi thứ công danh, tiền tài đối với ông đều là vô nghĩa, chỉ có một chữ “Nhàn” là có nghĩa. Qua đó, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được nâng lên một tầm cao mới, toát lên vẻ đẹp nhân cách, trí tuệ, thoát khỏi vòng lợi danh cuộc đời, một con người thanh cao, uyên thâm và sáng suốt.

Nguyễn Bỉnh Khiêm ông sống nhàn là thế, nhưng một chữ “nhàn” này lại khác biệt so với nhiều bậc Nho sĩ ẩn dật khác:

“Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”

Câu thơ đã nhắc điển tích Thuần Vu Phần uống rượu, nằm mộng thấy mình được đến nước Hoè Nhai và được sống trong vinh hoa phú quý, đến khi tỉnh dậy chỉ thấy bản thân nằm dưới gốc cây hoè cạnh tổ kiến. Từ việc mượn điển tích đã thể hiện sự thông tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có lẽ chính bởi nền học vấn uyên thâm của ông về lý học cho nên ông rất hiểu về sự biến chuyển tuần hoàn của vạn vật, ông hiểu được rằng:

“Càng khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh”

Hiểu được có rồi sẽ mất, thịnh rồi sẽ suy… Chính vì hiểu rõ là thế, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm mới nhìn những điều diễn ra với một con mắt rất bình thản. Ông mang phong thái của một vị tiên, một bậc cao hơn thế nhân để mà đứng nơi cao nhìn xuống, để tìm đến rượu mà say, tìm đến say để tỉnh, tìm đến tỉnh để nhận ra rằng: công danh phú quý cuối cùng chỉ là một giấc mộng thoáng qua, như áng mây trôi bồng bềnh giữa trời, tất cả đều hư vô. Hai câu kết như một lời khẳng định về ý nghĩa của triết lí sống nhàn, thể hiện sự thức tỉnh, tự cảnh tỉnh mình và đời, khuyên mọi người nên xem nhẹ vinh hoa phù phiếm.

Từ bài thơ ta rút ra được rằng phú quý không phải là đích đến cuối cùng trong cuộc đời mỗi người, cái tồn tại với con người mãi mãi là nhân cách, phẩm chất cao đẹp. Ta học được cái giữ gìn môi trường đang sống bằng cách chọn lối sống hoà hợp với thiên nhiên, thuận theo tự nhiên.

Bài thơ có sự nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường luật khi sử dụng các điển tích, hình ảnh ước lệ với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, tuân thủ chặc chẽ các niêm luật. Kết hợp với các yếu tố Việt hoá khi sử dụng chữ Nôm, các hình ảnh dân giã, quen thuộc và gần gũi, dãn dị. Đi cùng với sự ngắt nhịp hết sức linh hoạt, sáng tạo và hài hoà. Bài thơ là tiêu biểu cho quan niệm sống “nhàn” và vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Để lại ấn tượng đẹp trong lòng người đọc về một nhân cách lớn, một lối sống bình dị, thanh cao của một Bạch Vân cư sĩ.

Triết Lý Nhân Sinh Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bài Thơ “Nhàn”

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dù ai vui thú nào

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.

Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người kiếm chốn lao xao

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khôn là thói thực dụng ích kỷ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ – không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa ” Người đời tỉnh cả, một mình ta say ” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn – dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao

Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hoà hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm ” độc thiện kỳ thân ” của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí ” vô vi ” của đạo Lão, ” thoát tục ” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình . Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định :

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :

Ở thế mới hay người bạc ác

Giàu thì tìm đến, khó thì lui

Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.

Bài thơ Nhàn bao quát toàn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Cập nhật thông tin chi tiết về Vẻ Đẹp Lối Sống Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Bài Thơ Nhàn trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!