Bạn đang xem bài viết Vẻ Đẹp Của Cuộc Sống Và Tâm Hồn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Khổ Đầu Bài Thơ “Nhàn” được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Загрузка…
Загрузка…
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những vị quan thanh liêm của thời nhà Mạc, vì bất lực với chính sự, không thể can ngăn nhà vua, vạch tội bọn nịnh thần nên ông đã cáo lão về quê ở ẩn. Bài thơ “Nhàn” là một tác phẩm ra đời trong thời điểm ấy, thể hiện rõ vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ngoài ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà nho nổi tiếng với những tác phẩm để đời mà qua đó người đọc thấy rõ vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ “Nhàn” cũng là một trong những tác phẩm như thế. Chỉ trong bốn câu thơ đầu bài thơ đã thể hiện rõ quan điểm sống của ông.
Đề bài: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những câu thơ sau:
“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
Bài văn mẫu số 1: Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một vị quan dưới thời Mạc, do vua không nghe lời khuyên của ông diệt trừ gian thần mà ông đã cáo quan về một nơi dân dã sinh sống. Tại đó, ông đã sáng tác tập thơ Bạch Vân Am thi tập, với tác phẩm nổi tiếng là bài thơ “Nhàn” mà qua đó người đọc thấy rõ vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Với mỗi người, cuộc sống nhàn được hiểu theo những cách khác nhau. Có người nói cuộc sống nhàn là cuộc sống trong vinh hoa phú quý, lại có người nói đó là cuộc sống thảnh thơi không phải suy nghĩ gì…Nhưng với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì khác, cuộc sống nhàn của ông là một cuộc sống đắm mình trong thiên nhiên:
“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
Câu thơ đầu tiên, ông sử dụng số từ “Một” nhiều lần, theo sau là các danh từ “mai, cuốc, cần câu” cho ta thấy sự bình dị, thân thuộc. Bởi những danh từ kia là những vật dụng làm nông hàng ngày mà ai ai cũng biết. Kết hợp với nhịp thơ ngắt quãng chậm rãi gợi sự thong thả, những dụng cụ luôn sẵn sàng, nhà thơ trở về với cuộc sống dân dã, bình dị, an nhiên, tự tại, cuộc sống tự cung, tự cấp. Từ “thơ thẩn” trong câu thơ thứ hai lại khiến cho ta có cảm giác thật ung dung. Hai câu thơ đầu không chỉ diễn tả được đề tài mà còn cho ta thấy được vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Một cuộc sống bình dị nơi thôn quê.
Hai câu thơ tiếp theo, tác giả dùng biện pháp đối lập “ta dại” với “người khôn” với “nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao”. Tác giả đã chủ động tìm một nơi vắng vẻ ở nơi thôn quê thanh nhàn mặc người tìm đến “chốn lao xao”. Tác giả tự nhận mình là “người dại” , bỏ qua vinh hoa phú quý để sống cuộc sống thanh nhàn. Đặt mình vào hoàn cảnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta có thể thấy ông là người rất có hoài bão, luôn mong muốn nhân dân có cuộc sống ấm no. Tuy nhiên, triều đình lục đục, nhiều thế lực tham lam chuyên đi bóc lột cần bị tiêu diệt lại vẫn cứ ung dung, còn người thương dân như ông lại bị chối bỏ tấu chương xử loạn thần. Giữa vòng đấu tranh như vậy, ông đã trở về với thiên nhiên để di dưỡng tinh thần đồng thời giữ cho mình được trong sạch, thanh cao.
Qua bài thơ “Nhàn”, ta thấy rõ vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là cuộc sống không màng vinh hoa, phú quý, chỉ có một cuộc sống nhàn và hòa mình vào thiên nhiên.
Bài văn mẫu số 2: Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Cáo quan về quê, tất nhiên Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn được hưởng bổng lộc của triều đình nữa. Nhưng không quá nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm dễ dàng hòa nhập với cuộc sống thôn quê đạm bạc. Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ta đã có cảm giác đang đứng trước một lão nông tri điền với những công cụ lao động. Cách đếm rành rọt “Một…một…một” cho thấy tất cả đã sẵn sàng, chu đáo. Đồng thời, nó cũng thể hiện một phong thái ung dung, thư thái, thanh nhàn, có chút ngông ngạo. Hai chữ “thơ thẩn” nói lên trạng thái thảnh thơi của con người “vô sự” trong lòng không chút cơ mưu, tư dục. Cụm từ “dẫu ai vui thú” nói lên ý thức kiên định lối sống đã lựa chọn. Hai câu thơ như đưa ta về với cuộc sống chất phát, nguyên sơ của cái thời “tạc tỉnh canh điền”. Rõ ràng có sự tương đồng trong cuộc sống, lối sống của con người này. Đến đây, người đọc đã dần cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó chính là một tinh thần nhập thế rất tích cực của các bậc đại ẩn.
Thật khó có thể tìm thấy dấu vết của lối sống quan trường cao sang trong những câu thơ như vậy. Chủ động lựa chọn cuộc sống đó nên Bạch Vân cư sĩ sẵn sàng đón nhận cảnh sống đạm bạc. Thế mới biết vật chất đơn sơ không bao giờ có thể làm cho những nhân cách lớn phải vướng bận, lo toan. Đạm bạc trong cuộc sống của những con người này không đi với khắc khổ. Nó đi với thanh cao. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với thiên nhiên, mùa nào thức ấy. Chỉ hai câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khắc họa một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ , thu, đông; có mùi vị, có hương sắc, không nặng nề, không ảm đạm. Lựa chọn cuộc sống thanh đạm, tự nguyện hòa nhập với thiên nhiên, sống trung hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt. Ông đối lập với danh lợi như nước với lửa. Nhà thơ đối lập “nơi vắng vẻ” với “chốn lao xao” đối lập “ta” với “người”. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và là nơi thảnh thơi của tâm hồn, là nơi ta thích thú, được sống thoải mái, an toàn. Người đến “chốn lao xao” là đến chốn cửa quyền, “chốn lao xao” là chốn “chợ lợi, đường danh” huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giành giật, hãm hại nhau, là nơi nhiều nguy hiểm khôn lường.
Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ thanh thản một cách là lạ. Bài thơ vẻn vẹn tám câu. Người đọc vẫn có cảm nhận rất rõ nét về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó cuộc sống đạm bạc mà thanh cao và nhân cách vượt lên trên danh lợi của một bậc tiền nhân.
Bài làm số 3: vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm ( Sinh năm 1491- Mất năm 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là mọi người thường nghĩ ngay đến việc lúc ông làm quan, ông đã từng dân sớ vạch tội xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Ông là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi mất, ông để lại tập thơ viết bằng chữ Hán – Bạch Vân Am thi tập. Và bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ đó là bài thơ “Nhàn”. Bốn câu thơ cuối của bài thơ nói rõ nhất về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Hai câu thơ đầu đã khắc họa được như thế nào một cuộc sống nhàn rỗi :
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẫn dầu ai vui thú nào”
Ở câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh một ông lão nông dân sống thảnh thơi. Bên cạnh đó tác giảc còn dùng biện pháp điệp từ “Một” thêm vào là một số công cụ quen thuộc của nhà nông dân nhằm khơi gợi trước mắt người đọc một cuộc sống rất tao nhã và gần gũi nhưng không phải ai muốn là có. Từ “Thơ thẩn” trong câu hai khắc họa dáng vẻ của một người đang ngồi ung dung, chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo lão về quê ở ẩn. Và từ “vui thú nào” cũng một lần nữa nói lên cái nhàn rỗi, cái vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là cảnh nhàn dẫu có ai bon chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thế ung dung nhàn hạ, tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng vui thú, điền viên…
“…Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu thơ tiếp theo của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối lâp nhau như “ta” – “người”; “dại” – “khôn”; “nơi vắng vẻ” – “chốn lao xao” một loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của ông. Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ với chốn thôn quê cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm đến chốn “phồn hoa đô hội”. Hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập, hoàn toàn trái ngược nhau. Ông tự nhận mình là “dại” vì theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn. Vậy lối sống của ông có phải là lối sống xa dời và trốn tránh trách nhiệm? Điều đó tất nhiên là không, vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ cốt cách thanh tao của mình. Do ông có hoài bão muốn giúp vua làm cho trăm dân no ấm, hạnh phúc nhưng triều đình lúc đấy tranh giành quyền lực, nhân dân rất đói khổ, tất cả ước mơ hoài bão của ông không được xét tới. Vậy nên ông rời bỏ “Chốn lao xao” là điều đáng trân trọng. Ta có thể cảm nhận được ông đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên, tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành. Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì bài thơ đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.
Như vậy, qua bốn câu thơ đầu của bài thơ “Nhàn” ta đã hiểu rõ được quan niệm sống nhàn và nhân cách của ông, coi thường danh lợi, luôn giữ được tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lối sống trong sạch của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bài thơ cho đến tận ngày hôm nay.
Bài làm số 4: Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan dưới triều Lê Mạc. Ông là một người có học vấn uyên thâm. Thơ của ông thường mang chất triết lí và thường viết về thiên nhiên trốn thôn quê dân dã. Bài thơ “Nhàn” là một bài thơ nói về một cuộc sống nhàn hạ, thanh tao, không quỵ lụy ai. Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện qua những câu thơ:
“ Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
Hai câu thơ đầu thể hiện thú vui của cuộc sống nhàn. Cuộc sống nhàn là cuộc sống thuần hậu, giản dị chốn thôn quê như của “một lão nông chi điền”. Mai, cuốc, cần câu là những vật dụng lao động hàng ngày của người nông dân mà nó còn gợi lên nếp sóng thanh bần của nhà nho. “Thơ thẩn” là trạng thái thảnh thơi, vô sự trong lòng không lo sợ, toan tính những lý do cá nhân nào khác. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rời chốn quan trường náo nhiệt để về với cuộc sống thôn quê dân dã. Một cuộc sống an nhàn, tự tại, tự cung, tự cấp không hề phiền hà, quỵ lụy ai. Không như những “ai kia” đang sống một cuộc sống sung túc, đầy đủ mọi thứ nhưng trong lòng đầy những âu lo, toan tính, đầy những danh lợi. Ông trở về sống một cuộc sống thôn dã, bình dân chốn quê nhà. Song, không chỉ thể hiện về vẻ đẹp của cuộc sống nhàn mà hai câu thơ tiếp theo còn nói lên vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“ Nơi vắng vẻ” ở đây muốn nói đến nơi ít người, không có ai cầu cứu, xin thưa. Nơi đó chỉ có ta với ta, một cuộc sống rất bình yên, thanh bình. “Chốn lao xao” là nơi quan trường ngoài kia, đông vui và náo nhiệt nhưng đầy những ai đang xin, thưa, cầu cứu, một cuộc sống khá bận rộn. Ông tự nhận mình là kẻ dại, rời chốn quan trường kia để về với cuộc sống thôn quê, dân dã. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống một cuộc sống như những người thuần nông, làm gì ăn nấy, tự cung, tự cấp. Cuộc sống nơi đây không giàu sang, phú quý, sung sướng nhưng nó lại là một cuộc sống lặng lẽ, không ồn áo với những bữa cơm bình dị và những vật dụng thân quen. “Người khôn” kia là những vị vua đang sống một cuộc sống có kẻ hầu người hạ, quyền quý mà cao sang. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, nó còn là một cuộc sống đầy phiền hà, đầy toan tính. Nơi đây con người phải luồn cúi, bon chen, phải ẩn nấp, quỵ lụy lẫn nhau về công danh, lợi lộc. Chính vì thế mà cụ Trạng đã chọn cách về sống nơi thôn quê để di dưỡng nhân cách, tâm hồn thanh cao của mình.
Qua bốn câu thơ đầu của bài thơ “Nhàn” chúng ta có thể thấu và thấy được vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là một cuộc sống tự do, tự tại, không phải luồn cúi, bon chen một ai.
Loading…
Vẻ Đẹp Của Cuộc Sống Và Tâm Hồn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Khổ Đầu Bài Thơ “Nhàn”
Đề bài: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những câu thơ sau:
” Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chốn lao xao”
Bài văn mẫu số 1: Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một vị quan dưới thời Mạc, do vua không nghe lời khuyên của ông diệt trừ gian thần mà ông đã cáo quan về một nơi dân dã sinh sống. Tại đó, ông đã sáng tác tập thơ Bạch Vân Am thi tập, với tác phẩm nổi tiếng là bài thơ “Nhàn” mà qua đó người đọc thấy rõ vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
” Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Câu thơ đầu tiên, ông sử dụng số từ “Một” nhiều lần, theo sau là các danh từ “mai, cuốc, cần câu” cho ta thấy sự bình dị, thân thuộc. Bởi những danh từ kia là những vật dụng làm nông hàng ngày mà ai ai cũng biết. Kết hợp với nhịp thơ ngắt quãng chậm rãi gợi sự thong thả, những dụng cụ luôn sẵn sàng, nhà thơ trở về với cuộc sống dân dã, bình dị, an nhiên, tự tại, cuộc sống tự cung, tự cấp. Từ “thơ thẩn” trong câu thơ thứ hai lại khiến cho ta có cảm giác thật ung dung. Hai câu thơ đầu không chỉ diễn tả được đề tài mà còn cho ta thấy được vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Một cuộc sống bình dị nơi thôn quê.
Qua bài thơ “Nhàn”, ta thấy rõ vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là cuộc sống không màng vinh hoa, phú quý, chỉ có một cuộc sống nhàn và hòa mình vào thiên nhiên.
Bài văn mẫu số 2: Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Thật khó có thể tìm thấy dấu vết của lối sống quan trường cao sang trong những câu thơ như vậy. Chủ động lựa chọn cuộc sống đó nên Bạch Vân cư sĩ sẵn sàng đón nhận cảnh sống đạm bạc. Thế mới biết vật chất đơn sơ không bao giờ có thể làm cho những nhân cách lớn phải vướng bận, lo toan. Đạm bạc trong cuộc sống của những con người này không đi với khắc khổ. Nó đi với thanh cao. Cuộc sống thanh cao trong sự trở về với thiên nhiên, mùa nào thức ấy. Chỉ hai câu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khắc họa một bộ tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ , thu, đông; có mùi vị, có hương sắc, không nặng nề, không ảm đạm. Lựa chọn cuộc sống thanh đạm, tự nguyện hòa nhập với thiên nhiên, sống trung hòa thuận theo tự nhiên là thoát ra ngoài vòng ganh đua của thói tục, là không bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn an nhiên khoáng đạt. Ông đối lập với danh lợi như nước với lửa. Nhà thơ đối lập “nơi vắng vẻ” với “chốn lao xao” đối lập “ta” với “người”. Nơi vắng vẻ là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và là nơi thảnh thơi của tâm hồn, là nơi ta thích thú, được sống thoải mái, an toàn. Người đến “chốn lao xao” là đến chốn cửa quyền, “chốn lao xao” là chốn “chợ lợi, đường danh” huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giành giật, hãm hại nhau, là nơi nhiều nguy hiểm khôn lường.
Tìm đến sự thanh cao, tìm thấy sự thư thái của tâm hồn. Niềm vui chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, cứ thanh thản một cách là lạ. Bài thơ vẻn vẹn tám câu. Người đọc vẫn có cảm nhận rất rõ nét về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó cuộc sống đạm bạc mà thanh cao và nhân cách vượt lên trên danh lợi của một bậc tiền nhân.
Bài làm số 3: vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm ( Sinh năm 1491- Mất năm 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là mọi người thường nghĩ ngay đến việc lúc ông làm quan, ông đã từng dân sớ vạch tội xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Ông là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi mất, ông để lại tập thơ viết bằng chữ Hán – Bạch Vân Am thi tập. Và bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ đó là bài thơ “Nhàn”. Bốn câu thơ cuối của bài thơ nói rõ nhất về vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
“Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẫn dầu ai vui thú nào”
Ở câu thơ đầu đã khắc họa hình ảnh một ông lão nông dân sống thảnh thơi. Bên cạnh đó tác giảc còn dùng biện pháp điệp từ “Một” thêm vào là một số công cụ quen thuộc của nhà nông dân nhằm khơi gợi trước mắt người đọc một cuộc sống rất tao nhã và gần gũi nhưng không phải ai muốn là có. Từ “Thơ thẩn” trong câu hai khắc họa dáng vẻ của một người đang ngồi ung dung, chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo lão về quê ở ẩn. Và từ “vui thú nào” cũng một lần nữa nói lên cái nhàn rỗi, cái vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đó là cảnh nhàn dẫu có ai bon chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thế ung dung nhàn hạ, tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng vui thú, điền viên…
Như vậy, qua bốn câu thơ đầu của bài thơ “Nhàn” ta đã hiểu rõ được quan niệm sống nhàn và nhân cách của ông, coi thường danh lợi, luôn giữ được tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lối sống trong sạch của ông vẫn còn giữ nguyên giá trị trong bài thơ cho đến tận ngày hôm nay.
Bài làm số 4: Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm làm quan dưới triều Lê Mạc. Ông là một người có học vấn uyên thâm. Thơ của ông thường mang chất triết lí và thường viết về thiên nhiên trốn thôn quê dân dã. Bài thơ “Nhàn” là một bài thơ nói về một cuộc sống nhàn hạ, thanh tao, không quỵ lụy ai. Vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện qua những câu thơ:
” Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chốn lao xao”
Hai câu thơ đầu thể hiện thú vui của cuộc sống nhàn. Cuộc sống nhàn là cuộc sống thuần hậu, giản dị chốn thôn quê như của “một lão nông chi điền”. Mai, cuốc, cần câu là những vật dụng lao động hàng ngày của người nông dân mà nó còn gợi lên nếp sóng thanh bần của nhà nho. “Thơ thẩn” là trạng thái thảnh thơi, vô sự trong lòng không lo sợ, toan tính những lý do cá nhân nào khác. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rời chốn quan trường náo nhiệt để về với cuộc sống thôn quê dân dã. Một cuộc sống an nhàn, tự tại, tự cung, tự cấp không hề phiền hà, quỵ lụy ai. Không như những “ai kia” đang sống một cuộc sống sung túc, đầy đủ mọi thứ nhưng trong lòng đầy những âu lo, toan tính, đầy những danh lợi. Ông trở về sống một cuộc sống thôn dã, bình dân chốn quê nhà. Song, không chỉ thể hiện về vẻ đẹp của cuộc sống nhàn mà hai câu thơ tiếp theo còn nói lên vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Qua bốn câu thơ đầu của bài thơ “Nhàn” chúng ta có thể thấu và thấy được vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là một cuộc sống tự do, tự tại, không phải luồn cúi, bon chen một ai.
Vẻ Đẹp Tâm Hồn Và Triết Lí Sống “Nhàn” Của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, còn có tên gọi là Trạng Trình. Ông là người học vấn uyên thâm, thông minh, chính trực, coi thường danh lợi. Ông sống trong thời đại phong kiến bắt đầu khủng hoảng khi Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Vì gặp thời buổi loạn lạc nên ông chỉ làm quan 8 năm rồi lui về ở ẩn, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được người đời suy tôn là Tuyết Giang phu tử và qua đời ở tuổi 94 vào năm 1585. Lúc sinh thời, ông để lại cho nền văn học hai tập thơ: “Bạch Vân am thi tập” viết bằng chữ Hán với gần 700 bài và “Bạch Vân quốc ngữ thi” viết bằng chữ Nôm với gần 170 bài. Thơ của ông mang đậm triết lí, giáo huấn, ca ngợi chí của kẻ sĩ và cái thú thanh nhàn. Trong đó, bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc và phong phú, nói lên triết lí sống cao đẹp của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong suốt hơn 40 năm sống ẩn dật. Bài thơ số 73 trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi” cho ta thấy một cách rõ ràng quan niệm sống nhàn và vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm – “Nhàn”.
Thế nào là sống nhàn? Ngay từ câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho ta câu trả lời. Sống nhàn chính là nhàn ở thân, nhàn ở công việc:
“Một mai, một cuốc, một cần câu”
Tác giả liệt kê ra các công cụ “mai”, “cuốc”, “cần câu” với số từ “một”, kết hợp với nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng, tái hiện cuộc sống lao động thôn quê đều đặn, thong thả. Một cuộc sống không tư lợi, bon chen, chỉ cần đáp ứng những nhu cầu tối thiểu rất giản dị và đơn sơ. Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên với dáng vẻ của một lão nông tri điền thuần hậu, chất phác, thư thái, ung dung, ngày ngày đào đất, cày ruộng, câu cá, tìm kiếm niềm vui trong công việc lao động chân tay vốn dành cho nhà nông. Câu thơ thứ hai càng thể hiện rõ hơn thái độ, tâm trạng của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi trực tiếp nói lên quan điểm sống của mình. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “nhàn” không chỉ là ở thân mà còn là thảnh thơi, ung dung, mặc kệ những thú vui người đời:
“Thơ thẩn dù ai vui thú nào”
Câu thơ cho thấy ông rất an nhàn qua cụm từ “thơ thẩn”, gợi ra trạng thái thảnh thơi, lấy làm bằng lòng với cuộc sống đơn sơ, giản dị. Một con người đức cao vọng trọng, tài đức hơn người, được muôn dân kính trọng như thế mà nay tìm về nơi thôn dã, hoá thân thành một lão nông tri điền với những dụng cụ thô sơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn kiên định với lựa chọn của mình, dù cho ai có “vui thú nào”, có tìm đến những vinh hoa phú quý với cuộc sống đủ đầy, ông vẫn chẳng màng danh lợi, không bận tâm tới cuộc sống bon chen kia, ông an nhiên với lối sống “thơ thẩn” mình đã chọn. Từ đó cho thấy tâm trạng của ông là một kẻ sĩ “an bần lạc đạo” vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen tầm thường của người đời, từ ông toát lên một vẻ đẹp nhân phẩm khó có thể tìm được ở thời bấy giờ.
Lối sống nhàn vẫn được tiếp tục thể hiện qua cách sống thường ngày của ông ở hai câu luận:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả cuộc sống của mình khi về ở ẩn, tìm kiếm thú vui nơi thôn quê qua chuyện ăn uống, sinh hoạt. Câu thơ ngắt nhịp 1/3/1/2, kết hợp với nghệ thuật đối giữa bốn mùa xuân, hạ, thu, đông cùng với những từ ngữ hết sức giản dị, gần gũi. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ nên bức tranh tứ bình độc đáo với nhịp điệu tuần hoàn của thời gian đều đặn, thong thả, gợi ra hình ảnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở tâm thế chủ động, ung dung khi hoà nhịp sống của mình với nhịp điệu thiên nhiên. Câu thơ mở ra bức tranh bốn mùa với mùa nào thức ấy, có hương vị, có màu sắc. Tuy giản dị, đạm bạc với những món ăn dân dã, những sinh hoạt đời thường nhưng đó là lối sống thuận theo lẽ tự nhiên, hoà hợp với thiên nhiên, hưởng những thức có sẵn theo mùa nơi thôn dã mà không cần phải mưu cầu tranh đoạt. Tất cả đều không hề khắc khổ bởi nó là điều đáng quý, bởi đó mà lại tạo ra khí điệu thanh cao nơi con người ông. Với lối sống này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có sự gặp gỡ với thi hào Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống Đìa thanh, phát cỏ, ươm sen”
Cuộc sống tự do, thảnh thơi, tự tại mà biết bao bậc Nho sĩ mơ ước đến, nhưng mấy ai lại có được chữ “nhàn” này ở cái thời buổi loạn lạc kia?
Trở về hai câu thực, ta có thể thấy nhàn đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là xa rời phường danh lợi, quyền quý:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao.”
Hai câu thơ không chỉ nói về lối sống nhàn, mà còn nói lên quan niệm dại – khờ đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nơi vắng vẻ và chốn lao xao là hai hình ảnh đối lập giữa hai không gian sống khác nhau. Một nơi yên tĩnh, ít người qua lại, không phải cầu cạnh, tranh đua, cũng chẳng phải bon chen, luồn cúi, giành giật – đó là “nơi vắng vẻ”, nơi thiên nhiên trong lành, con người có thời gian nghỉ ngơi, thư giản, nơi mà ông lui về ở ẩn, nơi Bạch vân am ông mở lớp dạy học. Còn nơi kia, nơi đô thị sầm uất, nhộn nhịp, nơi kinh thành quyền quý, tranh đoạt, con người phải đua chen, luồn cúi, sống giữa quan trường đầy mưu mẹo, lừa lọc, cả thiên nhiên và con người đều vô tình trật nhịp nhau, nơi mà ông gán cho cái danh: “chốn lao xao”.
Ông nhận “dại” về mình, nhường “khôn” cho người, thực ra là cách nói tinh tế, khéo léo thể hiện lối sống an bần lạc đạo, coi thường danh lợi. Cách nói ngược nghĩa này không chỉ hóm hỉnh, sâu sắc mà còn thể hiện khái niệm “dại” – “khôn” đầy ý vị theo quan niệm của riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm mà ông cũng đã từng nói đến ở nhiều bài thơ khác:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.”
Thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự phủ nhận danh lợi: “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”. Mọi thứ công danh, tiền tài đối với ông đều là vô nghĩa, chỉ có một chữ “Nhàn” là có nghĩa. Qua đó, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại được nâng lên một tầm cao mới, toát lên vẻ đẹp nhân cách, trí tuệ, thoát khỏi vòng lợi danh cuộc đời, một con người thanh cao, uyên thâm và sáng suốt.
Nguyễn Bỉnh Khiêm ông sống nhàn là thế, nhưng một chữ “nhàn” này lại khác biệt so với nhiều bậc Nho sĩ ẩn dật khác:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Câu thơ đã nhắc điển tích Thuần Vu Phần uống rượu, nằm mộng thấy mình được đến nước Hoè Nhai và được sống trong vinh hoa phú quý, đến khi tỉnh dậy chỉ thấy bản thân nằm dưới gốc cây hoè cạnh tổ kiến. Từ việc mượn điển tích đã thể hiện sự thông tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có lẽ chính bởi nền học vấn uyên thâm của ông về lý học cho nên ông rất hiểu về sự biến chuyển tuần hoàn của vạn vật, ông hiểu được rằng:
“Càng khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh”
Hiểu được có rồi sẽ mất, thịnh rồi sẽ suy… Chính vì hiểu rõ là thế, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm mới nhìn những điều diễn ra với một con mắt rất bình thản. Ông mang phong thái của một vị tiên, một bậc cao hơn thế nhân để mà đứng nơi cao nhìn xuống, để tìm đến rượu mà say, tìm đến say để tỉnh, tìm đến tỉnh để nhận ra rằng: công danh phú quý cuối cùng chỉ là một giấc mộng thoáng qua, như áng mây trôi bồng bềnh giữa trời, tất cả đều hư vô. Hai câu kết như một lời khẳng định về ý nghĩa của triết lí sống nhàn, thể hiện sự thức tỉnh, tự cảnh tỉnh mình và đời, khuyên mọi người nên xem nhẹ vinh hoa phù phiếm.
Từ bài thơ ta rút ra được rằng phú quý không phải là đích đến cuối cùng trong cuộc đời mỗi người, cái tồn tại với con người mãi mãi là nhân cách, phẩm chất cao đẹp. Ta học được cái giữ gìn môi trường đang sống bằng cách chọn lối sống hoà hợp với thiên nhiên, thuận theo tự nhiên.
Bài thơ có sự nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường luật khi sử dụng các điển tích, hình ảnh ước lệ với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, tuân thủ chặc chẽ các niêm luật. Kết hợp với các yếu tố Việt hoá khi sử dụng chữ Nôm, các hình ảnh dân giã, quen thuộc và gần gũi, dãn dị. Đi cùng với sự ngắt nhịp hết sức linh hoạt, sáng tạo và hài hoà. Bài thơ là tiêu biểu cho quan niệm sống “nhàn” và vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Để lại ấn tượng đẹp trong lòng người đọc về một nhân cách lớn, một lối sống bình dị, thanh cao của một Bạch Vân cư sĩ.
Soạn Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm
BÀI LÀM
TIỂU DẪN
Những nét chính về tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 – 1585) quê ở Hải Phòng.
Ông làm quan dưới triều Mạc.
Ông cáo quan về quê, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông mở trường dạy học.
Mặc dù về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vân tham vấn cho triều đình nhà Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình quốc công nên có tên gọi là Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc.
Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (Khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (Khoảng 170 bài).
Những nét chính về tác phẩm
– Nhàn là bài thơ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi.
– Nhan đề bài thơ do người đời sau đặt.
– Nội dung bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.
ĐỌC HIỀU VĂN BẢN
Câu 1.
Hai Câu thơ đầu:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Cách dùng ố từ “một” và các danh từ trong câu thơ thứ nhất cho thấy sự giản dị trong lối sống của nhà thơ. Ông chỉ cần chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc cần câu để câu cá theo thú vui của mình.
Nhịp điệu câu thơ chậm rãi nhưng vẫn thể hiện thấp thoáng niềm vui, cùng sự ung dung tự tại của một con người đang rất bình tâm, bình thản.
Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh sống của tác giả rất bình dị, đơn sơ. Tuy không giàu có nhưng tâm trạng ông luôn mãn nguyện, vui vẻ và hòa đồng với thiên nhiên, với tất cả mọi người xung quanh.
Câu 2.
Nơi “vắng vẻ” mà tác giả để cập đến ở đây chính là chốn bình yên, thanh bình như quê hương nơi ông đang ở. Về nghĩa bóng, nơi “vắng vẻ” còn là nơi mà không có sự ganh đua, bon chen về danh lợi, về lợi lộc.
Ngược lại, chốn “lao xao” trong ý niệm của tác giả chính là chốn quan trường, nơi mà ngày ngày người ta phải sống bon chen, phải lừa lọc, phải đấu đá lẫn nhau.
Tác giả tự nhận mình là người “dại” khi tìm nơi “vắng vẻ” để sống. Vì nơi này không có lương bổng, cũng không có kẻ hầu người hạ, chỉ hoàn toàn là cuộc sống bình dị đơn sơ như bao người dân thường khác. Còn kẻ “khôn” tìm đến chốn quan trường, chốn “lao xao” để sống với những đấu đá, những bon chen của lề luật, của quan chức, của lợi danh.
” Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao “
Sự đối lập trong hai câu thơ giữa “dại” và “khôn”, giữa “vắng vẻ” và “lao xao” đã góp phần thể hiện quan điểm và triết lý sống rất rõ ràng của tác giả. Ông không ham mê danh lợi hay tiền tài, mà chỉ cần một cuộc sống an yên, tự tại.
Câu 3.
Các sản vật và khung cảnh trong hai câu thơ 5,6 :
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
Những sản vật trong câu thơ hoàn toàn từ thiên nhiên : măng trúc, giá.
Nếp sống sinh hoạt cũng thuận theo tự nhiên : Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Chỉ hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã trưng bày nếp sống của mình trong cả bốn mùa. Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, đạm bạc mà thanh cao.
Giá trị nghệ thuật của hai câu thơ : Nhịp điệu câu thơ vẫn nhẹ nhàng, chậm rãi như một tiếng đàn du dương về cuộc sống bình dị và êm đềm.
Câu 4.
Hai câu thơ cuối :
“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hai câu thơ có ý dẫn điển Thuần Vu Phần uống rượu say nàm ngủ gưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hèo an, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng mắt tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Từ đó điển này có ý : phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.
Nguyễn Bỉnh Khiêm cố ý nhắc đến câu chuyện trên để ý nói đến cuộc sống hiện tại của mình. Ông không mong chi cuộc sống giàu sang phú quý, cũng chẳng mong làm quan chốn quan trường chật chội nhiều xô bồ lẫn lộn. Ông chỉ cần một cuộc sống thanh bình, giản dị và đơn sơ.
Tuy nhiên, bất cứ lúc nào có thể giúp được triều đình việc gì, ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn.
Câu thơ thể hiện ông không những là người có học thức uyên thâm, thấu hiểu cuộc sống chốn quan trường, mà còn là người có tâm hồn thanh cao, trong sáng và đáng kính.
Câu 5.
Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là :
– Không vất vả, cực nhọc
– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân
– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.
– Hòa hợp với tự nhiên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người có học thức, có cốt cách thanh cao. Ông sống nhàn không phải vì sợ vất vả, cực nhọc, cũng không phải để tránh những phiền lụy đến bản thân mình. Bởi ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn cho triều đình mỗi khi vua cần. Hơn nữa, sống ở quê, ông vẫn mở lớp dạy học với mục đích đào tạo nhân tài cho đất nước, truyền đạt cái hay cái đẹp cho học trò. Đó là một cuộc sống rất bình dị mà thanh cao, rất đáng trân trọng.
Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, tự thân vận động nuôi dưỡng bản thân mình với những món ăn giản dị từ thiên nhiên như măng trúc, như giá. Ông lấy đó là niềm vui cho cuộc sống chứ không phải sự thiếu thốn hay cực nhọc.
Ông về quê sống là vì không được vua chấp thuận đề nghị chém đầu mười tám lộng thần. Nhưng khi về quê, ông vẫn luôn hướng lòng mình đến triều đình.
Tất cả những quan niệm và cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện trong bài thơ cho thấy ông là một người có cốt cách thanh cao, trong sạch, liêm khiết và yêu nước, thương dân.
Qua 6 Câu Thơ Đầu Bài Thơ Nhàn, Cảm Nhận Về Quan Niệm Sống Nhàn Của Tác Giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
Qua sáu câu thơ đầu bài thơ “Nhàn”, cảm nhận về quan niệm sống nhàn của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
1. Cảm nhận để làm sáng tỏ quan niệm sống nhàn của tác giả:
Luận điểm 1: Nhàn là sự thảnh thơi, ung dung trong lòng với thú điền viên (câu 1, 2):
– Những hình ảnh bình dị, thân thuộc: mai, cuốc, cần câu: chỉ những công việc lao động cụ thể của người nông dân quê đào đất, vụn xới, câu cá.
– Số từ “một” được lặp lại kết hợp với phép liệt kê: thể hiện công việc lao động bận rộn, vất vả thường xuyên.
→ Câu thơ đầu cho ta biết cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà với những công việc nặng nhọc, vất vả, lấm láp.
– “Thơ thẩn”: Dáng vẻ ung dung, tự tại.
– Cụm từ “dầu ai vui thú nào”: phủ nhận những thú vui đời thường mà người đời ganh nhau theo đuổi.
→ Tâm thế của tác giả: vui vẻ, xem những công việc nặng nhọc ấy là thú vui điền viên.
⇒ Quan niệm sống nhàn: Dù thân bận rộn, cực nhọc nhưng tâm hồn luôn ung dung, tự tại, thư thái.
* Luận điểm 2: Nhàn là quan niệm sống lánh đục về trong (câu 3, 4)
– Phép đối: ta – người, dại – khôn, nơi vắng vẻ – chốn lao xao: nhấn mạnh quan niệm và triết lí sống của tác giả.
– Phép ẩn dụ:
+ Nơi vắng vẻ: Chốn làng quê yên bình, tĩnh tại, chốn bình yên của tâm hồn.
+ Chốn lao xao: Chốn quan trường bon chen, ngổn ngang tranh giành, đấu đá.
– Cách nói ngược: Ta dại – người khôn: Cái dại của một nhân cách thanh cao và cái khôn của những con người vụ lợi.
→ Cách nói hóm hỉnh pha chút mỉa mai, vừa để răn mình vừa để dạy đời.
⇒ Quan niệm sống nhàn: Xa lánh chốn quan trường với những bon chen danh lợi, trở về với cuộc sống thôn dã giản dị, bình yên.
* Luận điểm 3: Nhàn là sống thuận theo lẽ tự nhiên (câu 5, 6)
– Xuất hiện bức tranh 4 mùa: Xuân – hạ – thu – đông: gợi về thiên nhiên làng quê Bắc bộ.
– Thức ăn: thu ăn măng trúc, đông ăn giá: thức ăn đơn sơ, giản dị, có sẵn trong tự nhiên, mùa nào thức đấy.
– Sinh hoạt: Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao: sinh hoạt theo sự thay đổi của thiên nhiên, sống hòa vào cùng thiên nhiên, thanh cao, giản dị.
– Cách ngắt nhịp 4/3 rất nhịp nhàng, cùng giọng điệu vui tươi thoải mái: gợi nhịp sống thong dong, ung dung.
⇒ Quan niệm sống nhàn: sống thuận theo tự nhiên, hưởng thụ những gì có sẵn trong thiên nhiên, không mưu cầu, bon chen.
Đánh giá chung:
– Về nội dung: bài thơ thể hiện rõ quan niệm sống tích cực của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt trong bối cảnh xã hội loạn lạc. Qua đó, chúng ta hiểu thêm về vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của tác giả.
– Về nghệ thuật: tác phẩm có ngôn ngữ giản dị, tự nhiên; giọng thơ nhẹ nhàng hóm hỉnh; sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật: đối, điệp…
Cập nhật thông tin chi tiết về Vẻ Đẹp Của Cuộc Sống Và Tâm Hồn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm Qua Khổ Đầu Bài Thơ “Nhàn” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!