Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Nghị Luận Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
– Tác giả: Nguyễn Trãi là nhà quân sự tài ba, là nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
– Tác phẩm: “Bình Ngô Đại Cáo” tựa bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc được viết vào khoảng cuối năm 1428..
– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nho giáo: mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.
– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nguyễn Trãi:
+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”).
+ Tư tưởng mới: vì dân mà trừ bạo tàn (” trừ bạo”)
– Dẫn chứng thuyết phục: văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng, phong tục phong phú, lịch sử lâu đời.
– Thái độ của Nguyễn Trãi:
+ So sánh ngang bằng triều đại Đại Việt và Trung Hoa.
+ Gọi vua Đại Việt là ” Đế” ( vua phương Bắc trước nay chỉ gọi ta là Vương)
– Phép liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô,…
b.2. Soi chiếu lí luận vào thực tiễn
– Bóc lột nhân dân:
+ Vơ vét tài nguyên nước ta.
+ Phá hoại môi trường, tự nhiên sinh thái của ta.
b.3. Diễn biến cuộc khởi nghĩa
– Xuất thân: nông dân.
– Căn cứ khởi nghĩa: “núi Lam Sơn dấy nghĩa”
– Giai đoạn đầu:
+ Khó khăn về vật dụng quân trang cũng như lương thực thực phẩm.
+ Tính thần của quân và dân: gắng chí, quyết tâm.
– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi: biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta.
– Sự thất bại nhục nhã của giặc:
+ Cởi áo giáp xin hàng (Thượng Hoàng Thư Phúc)
– Tuyên bố đất nước hoà bình, mở ra kỉ nguyên mới.
– Hình ảnh về tương lai đất nước: ” xã tắc từ đây…vững chắc”
– Nội dung: Tác phẩm khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và thay mặt vua Lê, tuyên cáo thành lập triều đại mới.
– Nghệ thuật: thể cáo được vận dụng tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương, biện pháp liệt kê, phóng đại,…
Khẳng định giá trị của tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và tài năng của Nguyễn Trãi.
Nếu “Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì ” Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng được tôn xưng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai. Bằng ngòi bút và tư tưởng vượt trước thời đại của mình, Nguyễn Trãi đã tạo nên một thiên anh hùng ca, vừa có giá trị văn học vừa có giá trị lịch sử sâu sắc.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba, đóng góp quan trọng cho việc thành lập nhà Lê mà ông còn là một nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông để lại tiếng thơm cho đời bởi những tư tưởng nhân nghĩa ông gửi gắm trong từng tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong số ấy là “Bình Ngô Đại Cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482, tựa một bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay vua Lê Lợi thảo bản cáo này để tuyên bố sự thắng lợi của quân và dân ta. Nhan đề tác phẩm có nghĩa là: bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô (tên gọi hàm ý khinh bỉ thay cho giặc Minh).
Trước hết, Nguyễn Trãi đặt ra tiền đề lí luận cho những lí lẽ của mình. Ông đi vào khẳng định cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Nếu trong Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí thì đến Nguyễn Trãi, ông đã tiếp thu và mở rộng phạm vi nhân nghĩa ra:
Nhân nghĩa không chỉ là việc làm cho dân hạnh phúc mà còn cả việc trừ bạo tàn, diệt những kẻ làm dân khốn đốn Đây hoàn toàn là một lời khẳng định đanh thép về bản chất của ta và địch: ta chính nghĩa, địch phi nghĩa. Qua đó còn thể hiện sự tuyên bố về quốc gia và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã tài tình nêu ra một loạt các dẫn chứng thuyết phục cho chân lí độc lập không thể chối cãi của dân tộc: có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục phong phú và lịch sử lâu đời,… Song hành với đó, các từ ” từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” góp phần củng cố thêm sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta. Bản thân Nguyễn Trãi cũng có ý thức về chủ quyền độc lập cao độ khi dùng phép so sánh ngang bằng khi so sánh triều đại Đại Việt ta và triều đại Trung Hoa. Trong khi vua phương Bắc trước nay chỉ gọi vua ta là “Vương” (chức cai quản một vùng đất nhỏ) thì Nguyễn Trãi khẳng khái gọi “Đế” (danh gọi vua của một nước). Chỉ một chữ đó thôi nhưng cũng thể hiện lòng kiêu hãnh của một nước nhỏ về diện tích lãnh thổ nhưng không hề nhỏ về lòng tự tôn dân tộc. Các danh tướng của giặc lần lượt được liệt kê chỉ thêm tô đậm lời cảnh cáo về kết cục của kẻ chống lại chân lí: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống,… Tư tưởng nhân nghĩa làm tiền đề cho lời tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia và chắc chắn rằng dòng giống con Rồng cháu Tiên sẵn sàng đánh đổi tất cả để giữ vững quyền tự do độc lập đó.
Soi chiếu lí luận vào thực tiễn, hình ảnh nhân dân ta quằn quại đau đớn dưới gót giày thống trị của giặc Minh không khỏi khiến người đời xót xa:
Nguyễn Trãi đã vạch trần sự bịp bợm, giả dối của những kẻ cướp nước với ý đồ xâm lược nước ta (“nhân”, “thừa cơ”) mà lại giao giảng những thứ đạo lí lừa đời. Chúng bóc lột nhân dân ta đến kiệt cùng: tàn sát người vô tội, vơ vét tài nguyên, phá hoại môi trường,… Một sự hủy diệt tàn bạo khiến trời đất cũng phải căm phẫn. Hình ảnh phóng đại ” Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội nước Đông Hải ko rửa hết mùi” với sự ví von tội ác của giặc trước sự vô cùng vô tận của tự nhiên thêm phần khẳng định tội ác không thể nào gột rửa của kẻ thù. Dường như trong lồng ngực chúng không còn là trái tim, là dòng máu của một con người mà là khối sắt không có cảm giác. Chúng như những con quỷ khát máu lúc nào cũng nhe nanh đi đòi mạng những người dân lành. Câu hỏi tu từ mở ra cũng là lúc thái độ nhân dân phẫn uất đến cùng cực:
Vũ trụ ngàn năm còn chẳng xuôi lòng trước bàn tay độc ác của quân thù nữa là người dân!
Như một kết quả tất yếu khi nước tràn li, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã nổ ra, đòi lại hòa bình cho đất nước. Mở đầu là hình tượng vị anh hùng Lê Lợi ”
Xuất thân từ nông dân, mang theo lòng căm thù giặc sâu sắc, con người tài trí hết mực ấy một lòng thực hiện lí tưởng cao cả. Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc nước nhà không thành. Những câu văn khắc sâu thêm ý chí, lòng quyết tâm vì đại nghĩa của một vị chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc. Giai đoạn phản công và giành thắng lợi được tác giả sử dụng phép liệt kê nhằm nhấn mạnh thêm không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta. Đối lập với chiến thắng tất yếu ấy là sự thất bại nhục nhã ê chề của giặc:
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch tiến quân ra Bắc. Giặc thì huy động tổng lực cố thủ, ta thì hừng hực quyết thắng. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Nghệ thuật phóng đại (“thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”) khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến cũng như sự bại vong của giặc Minh. Với tấm lòng nhân nghĩa nghìn đời, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn” thì quân và dân ta chọn cách ứng xử nhân đạo với những kẻ cướp nước bại trận:
Ta không cần phải đuổi cùng giết tận, Nguyễn Trãi thực sự thanh cao khi biết việc bây giờ không phải khiến mất thêm bất kì sinh mạng nào mà cần tập trung lo cho binh sĩ, lo cho nhân dân sau những ngày binh đao dồn dập.
Niềm tin của nhân dân sau những ngày đại thắng thêm vững mạnh. Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê, tuyên cáo với toàn thiên hạ rằng đất nước đã hoà bình, mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc – kỉ nguyên độc lập, tự do:
Giọng điệu vô cùng hào sảng, hình ảnh về tương lai đất nước chưa bao giờ ngời sáng hơn thế. Vua dân chung một lòng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước. Vậy là trên mọi miền quê, dưới mỗi mái nhà, độc lập, tự do và sự yên bình đã thực sự trở lại. Cuối cùng, Nguyễn Trãi không quên nhắn gửi lời biết ơn chân thành tới ông cha ta:
Thật vậy, “”Bình Ngô Đại Cáo” là một áng văn chương hùng tráng, với hơi văn cuồn cuộn.” Tác phẩm ngùn ngụt chí khí khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và lời tuyên bố thành lập triều đại mới. Lòng yêu nước, chiến thuật quân sự đúng đắn đã khiến quân thù phải khiếp sợ mà lui. Nguyễn Trãi bằng ngòi bút điêu luyện của mình, đã vận dụng tài tình thể cáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương. Biện pháp liệt kê, phóng đại cũng được đan xen triệt để, tạo nên những hiệu quả nghệ thuật thật tuyệt vời.
“Bình Ngô Đại Cáo” thực sự là một áng thiên cổ hùng văn. Qua đó, Nguyễn Trãi thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền độc lập dân tộc, khẳng định truyền thống yêu nước ngàn đời. Khí thế ấy còn vang vọng trong bài ngâm bên sông như Nguyệt hôm nào:
(Nam quốc sơn hà)
Bình Luận Facebook.
Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo” Một Tác Phẩm Của Nguyễn Trãi
Mặc dù là một thể văn có tính quan phương, không phải bài cáo nào cũng có giá trị văn học. Thế nhưng bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi thực sự là một thiên anh hùng ca. Mở đầu bài cáo là một sự tuyên bố về lập trường chính nghĩa.
Ý nghĩa ở hai câu này đó là phải làm cho nhân dân được sống yên ổn mới là việc nhân nghĩa. Nhưng muốn dân được yên thì trước tiên phải lo diệt quân cường bạo. Và đây cũng chính là tư tưởng xuyên suốt của lịch sử Việt Nam. Nguyễn Trãi như đang muốn nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại Việt Nam ta, triều đại nào cũng đi theo tư tưởng đó.
Mở đầu bài cáo không chỉ là sự thể hiện tư tưởng nhân nghĩa trừ bạo làm yên dân mà còn là một sự tuyên bố của một quốc gia chủ quyền. Và chúng ta luôn ở trạng thái sẵn sàng để bảo vệ có chủ quyền đó như là một truyền thống dân tộc đã thấm nhuần trong tư tưởng.
Tiếp đó tác giả Nguyễn Trãi nói lên tội ác của quân xâm lược. Chúng đã khiến cho dân ta lao đao khốn khó, một cuộc sống cơ cực dưới ách thống trị của giặc Minh. Tác giả đã vận dụng 12 cặp đối trong câu văn để tố cáo tội ác quân thù, làm nổi bật lên hình ảnh khổ nhục của dân ta.
“Dân đen”, “con đỏ” là những hình ảnh mang tính ước lệ ám chỉ những người dân nghèo hèn vô tội. Họ đang bị những kẻ ác thú đày đọa, đối xử không như con người. Chúng dối trời, lừa dân, vùi dập nhân dân ta trong bao nhiêu năm trời. Một sự hủy diệt đến tàn bạo khiến trời đất tan nát. Người bị ép xuống biển mò ngọc trai với bao nguy hiểm rình rập cá mập thuồng luồng. Người thì bị ép vào núi đãi cát tìm vàng sống trong rừng sâu nước độc.
Người chết, người sống thì ngàn cân treo sợi tóc khổ cho vợ con góa bụa ở nhà cũng đang sống trong cảnh khốn cùng. Tội ác của kẻ thù không thể nào ghi hết ra được, và cũng không thể nào rửa sạch được những tội ác đó. Chúng đã thực sự không còn là con người, cũng không còn là con thú, mà là những kẻ vô nhân tính. Và tội ác đó trời không dung đất không tha
Phần thứ ba của bài cáo là một sự công bố về quá trình dấy binh chống lại kẻ thù và thể hiện niềm vui chiến thắng. Đây cũng là phần văn chương của tác phẩm khiến người đọc cũng phải thực sự hả hê và sảng khoái. Đoạn một của phần ba gồm 15 cặp đối nói về sứ mệnh của Lê Lợi trong thời kỳ đầu dựng nghiệp khó khăn. Nguyễn Trãi đã xây dựng nên hình tượng anh hùng dân tộc với tâm huyết đánh tan kẻ thù, bảo vệ chủ quyền với ý chí, tài trí hơn người. Như một lời giới thiệu hiên ngang, dõng dạc:
Một sự hiên ngang của một nhân vật lớn đang nuôi ý chí dấy cờ khởi nghĩa. Và điểm xuất phát cho chiến dịch đó là tại ngọn Núi Lam Sơn. Nơi chốn hoang dã chính là một chốn nương mình để thực hiện hoài bão của mình. Một sự ý thức về sứ mệnh, thấm nhuần sự đau xót nỗi đau trăm họ luôn canh cánh bên mình trong suốt hai mươi năm trời.
Căm thù quân giặc cướp nước, thề không đội trời chung. Nuôi ý chí hoài bão lớn, chấp nhận việc sống một cuộc sống nếm mặt nằm gai, ngày đêm thao thức canh cánh trong lòng. Ngay cả trong mộng mị cũng chỉ có một sự băn khoăn đó là làm sao đánh tan kẻ thù lấy lại nước nhà. Những câu văn thể hiện một ý chí nung nấu, quyết chiến đấu vì đại nghĩa.
“Lại ngặt vì:
Thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa mặc dù sĩ khí và tinh thần quyết tâm lên cao. Nhưng thực sự đúng giai đoạn khó khăn khi mà kẻ thì đang mạnh. Quân ta còn đang ít người, tướng tài còn thiếu chẳng khác nào như “sao buổi sớm” “như lá mùa thu”. Những lúc bị vây hãm lương thực gần như cạn kiệt, quân sĩ chẳng còn mấy người…
Thế như đó chính là những thử thách, và chính nhờ ý chí, vững khí, lòng quyết tâm, sự quật cường, sự đoàn kết. Chúng ta đã xây dựng được một lực lượng vững mạnh tuy có ít hơn kẻ thù nhưng sẵn sàng lấy ít địch nhiều. Lấy yếu chống mạnh với những chiến thuật đúng đắn.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng.
Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng. Do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Cuộc chiến đã đến giai đoạn cuối cùng. Nguyễn Trãi đã miêu tả chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang như một bản anh hùng ca vang dội nhất của một cuộc kháng chiến trường kỳ.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Mặc văn dồn dập, thể hiện những chiến thắng dồn dập. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi mọi thứ như đang bắt đầu tăng tốc. Như một sự thần tốc với những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế, Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu. Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong. Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.”Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Hình ảnh quân ta lúc này hiện lên với lực lượng đông đảo, ý chí mạnh mẽ kiên cường, tầm vóc lồng lộng nơi vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:
Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh, Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Sĩ khí dâng cao, chiến thắng dồn dập, quân địch tan hoang. Những kẻ tham sống sợ chết hèn hạ, nhục nhã bị cầm tù phải xin tha mạng. Quân ta cũng chẳng cần phải giết hại những kẻ đó, mở cho chúng một con đường sống. Chúng trở về mà hồn vẫn bay phách lạc, tim đập chân run. Thật là thảm hại!.
Nếu kẻ thù đã xin tha, đã có sự hòa hiếu thì ta cũng không thể cạn tình. Nguyễn Trãi đề cao sự nhân nghĩa, sinh mạng con người ở đây, mặc dù những kẻ đó là kẻ địch. Nhưng chúng ta đã chiến thắng. Chúng ta cũng không cần phải đuổi cùng giết tận, tha cho chúng về nước. Để tập trung việc lo cho binh sĩ, lo cho nhân dân nghỉ sức. Nguyễn Trãi thực sự đã thể hiện một sự nhân nghĩa, sự thanh cao đến tuyệt vời.
Bài cáo kết thúc với những câu văn chuyển sang trạng thái khoan thai, trang trọng, vui tươi.
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội.
Xã hội phải đối diện với “những sự đổi thay” nhưng cũng như càn khôn “bĩ rồi lại thái”, như nhật nguyệt “hối rồi lại minh”. Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là “muôn thuở nền thái bình vững chắc”. Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng:. “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.
“Bình Ngô Đại Cáo” là một áng văn chương hùng tráng, với hơi văn cuồn cuộn.Nó như một nhát chém vào quân thù xâm lược. Và thể hiện một ý chí quyết chiến quyết thắng của dân tộc ta. Mặc dù gian khổ, nguy hiểm luôn rình rập, nhưng với sự quyết tâm và đoàn kết. Với chiến lược đúng đắn quân ta đã đánh tan kẻ thù, khiến cho chúng phải khiếp sợ.
Áng văn chương đã thể hiện một sự bừng bừng. Một cảm xúc hào sảng trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Tác phẩm thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc ta, thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc với ý chí chiến đấu chống lại bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Soạn Bài Bình Ngô Đại Cáo Ngữ Văn 10
Soạn bài Bình Ngô Đại Cáo ngữ văn 10
Vấn đề chung bình ngô đại cáoCuối năm 1427, Vương Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở Việt Nam, đã phải mở cửa thành Ðông Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10 năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt vua Lê, Nguyễn Trãi viết bài cáo nhằm tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập triều đại mới.
2. Về tựa đề bài Cáo:
Những quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo
Ngô: Một cách gọi theo thói quen của người Việt Nam thời đó để chỉ chung người trung Quốc.
Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác,
Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh
tàn bạo.
Kiến thức trọng tâm bình ngô đại cáo ngữ văn 10 Nêu luận đề chính nghĩa:– Luận đề này được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa 3 yếu tố: Nhân nghĩa, dân và nước:
– Nhân nghĩa: điếu dân phạt tội, bênh vực cho kẻ khốn cùng, chống lại các thế lực phi nhân.
– Dân: Dân trong tác phẩm là những người thuộc tầng lớp thấp nhất nhưng lại chiếm đa số trong xã hội nông nghiệp thời đó. Ðó là những dân đen, con đỏ, thương sinh, phu phen, manh lệ, những người có vai trò lịch sử quan trọng, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Truyền thống lịch sử vẻ vang
+ Nước: Khái niệm nước bao gồm mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố
Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo về Nhân nghĩa, Dân, Nước đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Những quan niệm này, so với trước, đã có nhiều biến đổi, phát triển do sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử.
Vạch trần tội ác giặc:Các nhà nghiên cứu xem đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm trên mảnh đất Ðại Việt.
Ðể đảm bảo vừa tăng cường sức thuyết phục vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương, Nguyễn Trãi sử dụng đan xen, kết hợp hàihòa giữa những hình ảnh mnag tính chất khái quát với những hình ảnh có tính cu, sinh động.
a. Hình ảnh của Lê Lợi buổi đầu kháng chiến
Tổng kết quá trình kháng chiến:Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau.
– Xuất thân bình thường:
Ta đây Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
– Có tấm lòng căn thù giặc sâu sắc:
Ngẫm thù lớn há đội trời
Căm giặc nước thề không cùng sống
– Khởi đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng chí khắc phục gian nan
– Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân: Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới Tướng sĩ một lòng phụ tử hòa nước sông chén rượu ngọt ngào
– Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình: Thế trận xuất kỳ lấy yếu chống mạnh
– Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.
– Ở đây, ta không tìm thấy những anh hùng cá nhân trong văn chương trung đại hay trong các tác phẩm anh hùng ca của Hy Lạp cổ đại. Bài Cáo tập trung làm sáng rõ vai trò của một tập thể anh hùng, những người mà trước kia văn học bác học chưa quan tâm đi sâu, khai thác
– Tuy nhiên, đối với tướng giặc, tác giả lại miêu tả đầy đủ, cụ thể từng gương mặt, họ tên, chức tước và tư thế thất bại của từng tên một.
– Cách sử dụng liệt kê ngày tháng thể hiện rõ nhịp độ dồn dập của những trận chiến thắng.
Nhịp thơ dàn trải, trang trọng
Khẳng định thế thịnh suy tất yếu
Tuyên bố hòa bình, xây dựng vương triều mới:Hãy Thuyết Minh Về Tác Phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” Của Nguyễn Trãi
Hãy thuyết minh về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – Bài làm 1
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới các tác phẩm của Nguyễn Trãi , một anh hùng dân tộc, một con người có nhân cách lớn, nhà tư tưởng vĩ đại được suy tôn là danh nhân văn hóa của nhân loại. Trong đó, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”, luôn được nhiều thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.
Phần đầu tiên, tác giả nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến .Tác giả đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh là để nhân dân có cuộc sống yên bình, ấm no, là để diệt trừ thế lực tham tàn,bạo ngược và đó là việc làm nhân nghĩa…
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Sau đó, Nguyễn Trãi còn khẳng định,nước ta còn là 1 nước độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ, phong tục và triều đại riêng:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.
Bằng những lý lẽ chặt chẽ, cho thấy tác giả đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa, hợp với lòng dân, hợp với quy luật, đó là chính nghĩa, việc làm đó xuất phát từ tư tưởng yêu nước, thương dân.
Phần thứ hai của bài cáo, tác giả đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Nhắc đến giặc. Minh chúng ta không thể quên được 1 số câu chất chứa lòng căm phẫn:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
“Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”.
Tác giả đã liệt kê ra 1 loạt tội ác của giặc Minh, chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta, mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má phu phen nặng nề, vơ vét sản vật quý hiếm, diệt sản xuất, sự sống, tàn sát dã man…. Dân ta phải lâm vào cảnh khốn cùng.Từ đó,tác giả đã kết tội giặc Minh :
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”
Hơn thế nữa,tác giả còn bày tỏ thái độ phẫn uất trước những tội ác đó :
“Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Bằng cách lập luận chặt chẽ,lời văn đanh thép và những hình ảnh rất thực có tính khái quát cao, giọng văn linh hoạt. Có thể nói, đoạn 2 này là 1 bảng cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh. Đó chính là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ.
Tiếp đó,ta không thể không tự hào trước quá trình chiến đấu gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa qua đoạn 3. Đầu tiên, tác giả đã kể về buổi đầu khởi nghĩa, quân ta đã gặp rất nhiều khó khăn:
“Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.”
Hay trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém, có khi lương thực cạn kiệt, quân ta hiếm hoi nhân tài:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu.”
Thế nhưng, nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn, tạo được sức mạnh. Đó là người lãnh đạo có quyết tâm cao độ, có chiến lược, chiến thuật phù hợp, đề cao sức mạnh của sự đoàn kết, chú trọng mưu cơ hơn binh lược.
“Thế trận xuất kì,lấy yếu chống mạnh;
Dùng quân mai phục,lấy ít địch nhiều…”
Như vậy, người đọc đã cảm nhận được hình tượng Lê Lợi đó là một người có xuất thân dân dã, nhưng có lòng yêu nước sâu sắc, hết lòng lo lắng tận tâm,suy tính đại sự và đã tìm ra cách chiến thắng giặc Minh, tập hợp được sức mạnh của nhân dân để làm nên chiến thắng. Có thể nói, đoạn này đã khắc họa được hình tượng người anh húng áo vải một cách sinh động, toàn diện.
Sau đó,tác giả đã kể về những chiến thắng oanh liệt của dân ta qua 3 trận đánh:
Thứ nhất,là trận Bồ Đằng-Trà Lân:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân, trúc chẻ tro bay.”
Thứ hai, là trận Ninh Kiều-Tốt Động:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.”
Cuối cùng là trận Chi Lăng-Mã An cho đến Xương Giang:
“Ngày 18,trận Chi Lăng,Liễu Thăng thất thế,
Ngày 20,trận Mã An,Liễu Thăng cụt đầu,”
Trong 1 loạt câu văn biền ngãu đó, đã thể hiện khí thế khí thế quân ta rõ nhất qua câu:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.”
Tuy nhiên, ta vẫn thể hiện tinh thần nhân đạo với kẻ thù. Đó là tư tưởng nhân nghĩa đã mang 1 tầm cao mới:
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.”
Thông qua lối viết liệt kê, hình tượng phong phú đa dạng, dùng nhiều động từ mạnh, các tính từ chỉ mức độ tối đa, lối viết thậm xưng, nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ, mang đậm chất anh hùng ca. Trong phần kể về quá trình kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn, tác giả đã dùng lối viết tương phản về lực lượng của ta và địch. Quá đó, tác giả đã bày tỏ được niềm tự hào của hãnh diện về những chiến thắng của quân ta và nêu bật sự thất bại thảm hại của quân thù.
Cuối cùng, tác giả đã tuyên bố chiến thắng và khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của quân ta đã hoàn toàn thắng lợi. Đến đây, giọng văn của NguyễnTrãi đã nhẹ nhàng hơn, khoan thai. Nguyễn Trãi đã tuyên bố nền hoà bình của dân tộc ta đã được lập lại, đồng thời cũng rút ra được bài học lịch sử và thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.”
“Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”
Với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc Bình Ngô đại cáo có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương được xem là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. Hơn thế nữa, “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca, ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập nhân nghĩa tự cường, nêu bật sức mạnh của dân ta trong cuộc khởi nghĩa, đập tan cuộc xâm lăng phi lăng phi nghĩa của giặc Minh, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập tự do, hoà bình cho lịch sử.
Sau khi đọc xong bài cáo, ta thấy rõ “Bình Ngô đại cáo” không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại văn chính luận của Nguyễn Trãi mà ta còn hiểu nhận thực rõ chính lòng yêu nước và tinh thần nhân nghĩa là hai yếu tố quyết định đưa cuộc kháng chiến đến thành công, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc. Chính ví thế bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, thể hiện được khát vọng độc lập tự chủ và yêu chuộng hoà bình của toàn dân ta.
Hãy thuyết minh về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – Bài làm 2
Bình ngô đại cáo được Nguyễn Trãi sáng tác năm 1428, khi quân ta giành thắng lợi trước quân Minh, dưới ngọn cờ lãnh đạo của nghĩa quân Lam Sơn và chủ tướng Lê Lợi. Sau thắng lợi, Lê Lợi đã lên ngôi hoàng đế và bắt tay vào xây dựng vương triều của mình. Việc đầu tiên sau khi lên ngôi, đó là truyền lệnh cho Nguyễn Trãi soạn thảo văn bản ” Bình ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân rằng cuộc khởi nghĩa gian nan cuối cùng cũng kết thúc thắng lợi, kể từ đây nhân dân sẽ bước vào một cuộc sống mới, tự do, độc lập. Bình ngô đại cáo là một áng văn chính luận xuất sắc, là một áng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học dân tộc.
Trong “Bình ngô đại cáo” Nguyễn Trãi rất đề cao tư tưởng thân dân, theo ông, một quốc gia muốn trường tồn, thịnh vượng, thì yếu tố căn cốt nằm ở người dân. Người dân có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Vì vậy, ngay câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã đề cập đến tư tưởng thân dân vừa như khẳng định vai trò của dân, vừa như lời nhắc nhở tế nhị đến bậc quân vương, việc nhân nghĩa luôn luôn được dân chúng nhắc đến, và những người đứng đầu đất nước luôn luôn phải có trách nhiệm với dân với chúng, trước hết phải biết lo cho dân cho chúng, lo trừ đi bạo ngược để giữ cho đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và có giá trị to lớn hơn, những người luôn luôn biết lo cho dân yêu dân như con, điều đó để lại cho dân tộc những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất, khi mỗi chúng ta đều hưởng được một nền thái bình thịnh trị:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Quốc gia muốn trường cửu thì phải “yên dân”, tức là phải chăm lo đến cuộc sống của người dân. Trách nhiệm của triều đình, của “quân điếu phạt” là phải “lo trừ bạo”, diệt trừ mọi mối đe dọa đến cuộc sống của người dân. Nền văn hiến của dân tộc Việt Nam luôn luôn được cải thiện và giữ gìn mỗi ngày. Trong các tác phẩm thơ ca, nó cũng nhấn mạnh điều đó, dân quốc đã có từ xưa đến nay, nền văn hiến cũng luôn luôn được giữ gìn và nâng cao trên nền mỗi ngày. Giá trị của nó để lại cho dân tộc ta cũng vô cùng có giá trị. Nền văn hiến của dân tộc đã khẳng định từ trước tới nay, nó luôn mang những giá trị vẻ vang cho dân tộc của mình, mỗi khi các giá trị đó được cải tạo là làm cho văn học nước nhà được củng cố và nâng cao lên mỗi ngày, những định giới của Việt Nam luôn luôn được cải thiện và nâng cao mỗi ngày, nó luôn trở thành một giá trị vô giá và để lại cho dân tộc Việt Nam những điều có ý nghĩa to lớn, khi những giới hạn biên giới đó đã được khẳng định từ trước tới nay, phong tục của hai miền cũng luôn luôn được phân định rõ ràng:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi đã khẳng định ranh giới lãnh thổ bờ cõi, cùng với đó là sự tự hào về truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc “Đã xưng nền văn hiến đã lâu”. “Văn hiến”, “phong tục” là những dẫn chứng nhà thơ đưa ra để tăng thêm tính thuyết phục của lời khẳng định. Đại Việt là một quốc gia độc lập, có ranh giới, lãnh thổ riêng. Trên mảnh đất ấy, con người Đại Việt đã sinh sống, hình thành nên những phong tục, những nền văn hiến mang bản sắc của dân tộc mình. Các đời vua từ xưa đến nay, luôn luôn xưng nền độc lập, không có thể bỏ qua những quân thù mà phải sánh vai với cường quốc năm châu, cần phải tạo nên những giá trị có ý nghĩa và có tầm quan trọng đặc biệt cho đất nước của mình, dù có chênh lệch lực lượng đi chăng nữa thì chúng ta cần phải dốc hết lòng để bảo vệ cho đất nước của mình. Thời nào cũng luôn thấy xuất hiện những vị anh hùng của dân tộc điều đó tạo nên những giá trị có ý nghĩa và vẻ vang nhất, song mỗi người luôn luôn biết quyết tâm để bảo vệ đất nước và dân tộc của mình:
“Từ Triệu, Đinh, Lí,Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nếu câu thơ trên nhà thơ khẳng định một cách rõ ràng về chủ quyền lãnh thổ cùng với niềm tự hào về văn hiến lâu đời thì trong những câu thơ này, nhà văn thể hiện niềm tự hào về truyền thống đấu tranh, truyền thống anh hùng của dân tộc. Nhà văn khẳng định Việt Nam có nền độc lập riêng, nền độc lập ấy được xây dựng bởi bao đời vua từ Triệu, Đinh, Lí, Trần. Vì vậy cùng với Trung Quốc,Việt Nam hoàn toàn bình đẳng, vì vậy kẻ thù không có quyền xâm phạm. Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần dân tộc, lòng tự hào sâu sắc khi đặt Đại Việt sánh ngang với các triều đại Trung Quốc: “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, tuy có những thăng trầm “mạnh yếu từng lúc khác nhau”,nhưng nhà thơ cũng khẳng định “hào kiệt đời nào cũng có”. Đó là những trang nam tử, những người anh hùng, khi mà đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng đứng lên, dốc sức bảo vệ tổ quốc.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”
Vì cố tình xâm phạm vào quốc gia có chủ quyền, có nền độc lập nên những kẻ xâm lược đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng thê thảm. Lưu Cung, Triệu Tiết, Ô Mã, Toa Đô đều là những danh từ chỉ người, họ là những tên tướng cầm đầu đội quân xâm lược, vì bất chấp luân lí xâm phạm Đại Việt mà chúng đã nhận lấy những thất bại cay đắng. Nguyễn Trãi cũng sử dụng hệ thống các động từ để diễn tả sự thất bại ê chề này: “thất bại”, “tiêu vong”, “bắt sống”, “giết”. Bên cạnh việc chỉ ra những thất bại của quân giặc, Nguyễn Trãi cũng nêu lên những thắng lợi vang dội của quân dân Đại Việt như trận ở Hàm Tử, chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Những dẫn chứng mà nhà thơ nêu đều căn cứ vào sự thực lịch sử “chứng cớ còn ghi”, vì vậy mà không thể chối cãi.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Nguyễn Trãi đã kể lại sự rối ren trong nước, khi họ Hồ “chính sự phiền hà’, nhân dân lầm than, đau khổ rồi mang lòng oán hận với triều đại “lòng dân oán hận”. Nhân sự mâu thuẫn nội bộ của Đại Việt, quân Minh đã mưu kế xấu xa, muốn nhân cơ hội này để thực hiện những hành động phi nghĩa “Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa”. Một triều đại lớn mạnh như nhà Minh mà cũng “thừa cơ”, cách dùng từ của Nguyễn Trãi làm bật lên cái phi nghĩa của quân đội nhà Minh, đồng thời cũng thể hiện được cái tiểu nhân đê hèn trong hành động xâm lược ấy. Không chỉ lên án quân Minh mà nhà thơ còn vạch tội của những kẻ “bán nước cầu vinh”. Vì hành động bắt tay xâm lược của chúng đã đẩy nhân dân ta vào biết bao nhiêu tai họa. Nhà thơ đã sử dụng những động từ mạnh “nướng dân đen”, “vùi con đỏ” để vạch trần bản chất tàn nhẫn, độc ác của chúng.
“Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng khốn rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hưu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”
Để mang lại lợi ích cho mình, quân giặc không từ một thủ đoạn, một hành động nhẫn tâm, tàn ác nào. Chúng không chỉ bắt dân ta nộp nhiều loại tô thuế mà còn bắt những người dân vô tội lên rừng xuống biển tìm cho chúng những món đồ quý giá. Cuộc sống của người dân vô cùng đau khổ, bi thương. Nhưng tiếng khóc của người dân chúng đâu thấy được, không chỉ người dân mà ngay cả những loài thú quý, hay những loài côn trùng, cây cỏ chúng cũng không buông tha.
“Bình ngô đại cáo”là một áng văn chính luận xuất sắc của dân tộc ta. Bài cáo vừa khẳng định hùng hồn, mạnh mẽ chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào với truyền thống văn hóa cũng như truyền thông đấu tranh của dân tộc. Là lời cảnh cáo đanh thép với lũ quân xâm lược, với bọn bán nước. Như vậy, “Bình ngô đại cáo”xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”.
Hãy thuyết minh về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – Bài làm 3
Nguyễn Trãi là một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà quân sự tài ba, không những thế ông còn là một nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của cả dân tộc. Nguyễn Trãi đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trong số đó phải kể đến “Bình Ngô đại cáo”. Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết thay vua Lê Thái Tổ để tuyên cáo rộng rãi trong nhân dân về qua trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Về mặt cấu trúc, tác phẩm có thể chia thành bốn phần. Phần 1là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”), phần 2 là phần tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (Tiếp theo phần 1 đến “Ai bảo thần dân chịu được”), phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (Tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”), phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa (phần còn lại).
Ở phần mở đầu tác giả nêu lên triết lí về nhân nghĩa, một triết lí có giá trị lịch sử và tầm vóc của thời đại. Trong thơ Nguyễn Trãi, vấn đề “nhân nghĩa” không đơn giản chỉ là sự yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mà nó đã được nâng lên và thể hiện trong hành động cụ thể:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đối với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”. Những câu thơ tiếp theo tác giả muốn nói về nước Đại Việt của chúng ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
… Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong những câu thơ trên Nguyễn Trãi cho rằng “nhân nghĩa” đã có từ lâu đời ở nước ta, đồng thời khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc được thể hiện ở việc núi sông bờ cõi đã được phân chia rõ ràng. Vì đã được phân chia nên việc hình thành những phong tục tập quán cũng có nhiều khác biệt tuy nhiên vẫn có điểm chung là sự tồn tại song song của các triều đại lịch sử. Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” – được coi như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Chính vì đã có những hành động xâm chiếm nước ta nên họ phải chuốc lấy hậu quả:
“Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Những kết cục như thế này đều tự do chính họ chuốc lấy vì thông qua bài tuyên ngôn đầu tiên đã như một lời cảnh cáo nhưng họ vẫn cố tình thực hiện. Ở phần thứ hai, tác giả đã nêu ra những tội ác của giặc và vạch rõ bộ mặt thật của giặc đằng sau lớp vỏ ngụy tạo “phù Trần diệt Hồ”:
Từ việc:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Cho đến việc chúng bắt nhân dân phải xuống biển mò ngọc trai lên rừng sâu đãi cát tìm vàng, phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc” và muôn vàn khó khăn nguy hiểm , rồi đến sưu thuế chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng hành hạ nhân dân ta đủ mọi đường “thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”, sự độc ác và tàn nhẫn khiến tác giả phải thốt lên:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Giữa lúc ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy lên tinh thần yêu nước và tiến hành cuộc khởi nghĩa:
“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Căm phẫn trước tội ác của giặc, bóc lột nhân dân đủ đường khiến nhân dân lầm than cực khổ khiến người lãnh đạo là Lê Lợi và nghĩa quân mất ăn, mất ngủ, quyết tâm chiến đấu với tất cả tinh thần vì độc lập nước nhà:
“Căm giặc nước thề không chung sống
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng chỉ còn lo một nỗi về việc tìm kiếm “nhân tài” và “hào kiệt”, đây là một việc khó vì theo tác giả:
“Hào kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”
Trong khi đó, nghĩa quân vừa dấy quân khởi nghĩa vẫn còn non nớt, thiếu thốn về mọi mặt như lương thực “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần”, quân sĩ “Lúc Khôi Huyện quân không một đội”, còn quân thù thì đang rất mạnh, đây chính là khó khăn của chúng ta và cách khắc phục duy nhất chính là sự đồng lòng của toàn bộ nghĩa quân “Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” và triết lí “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” cùng với sự dũng cảm, gan dạ của binh sĩ, nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành và lớn mạnh “sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”, kết quả là nghĩa quân giành được nhiều chiến thắng vang dội “Đánh một trận sạch không kinh ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim muông”, còn giặc Minh thì phải chấp nhận những thất bại liên tiếp và những tên tướng đều có kết thúc thật bi thảm:
“Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng
Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên
Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”
Tác giả đã ghi lại chi tiết từng mốc thời gian như những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc nhưng lại là vết nhơ, nỗi nhục nhã đối với giặc Minh.
Mặc dù tội ác của giặc mãi mãi không thể rửa sạch nhưng quân ta vẫn trợ cấp cho giặc để về nước khi đã bại trận:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.
Hành động này thể hiện truyền thống nhân nghĩa từ lâu đời của dân tộc ta, một lần nữa khẳng định lời của Nguyễn Trãi:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Phần cuối của tác phẩm đã nêu ra bài học lịch sử quý báu về ý thức độc lập chủ quyền và vấn đề nhân nghĩa, đồng thời khẳng định sự thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
… Âu cũng nhờ trời đất tổ tong
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”
“Bình Ngô đại cáo” có ý nghĩa như một bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc Minh vừa khẳng định được độc lập chủ quyền dân tộc, là minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta. Đã một thời gian dài trôi qua, nhưng giá trị của bài cáo vẫn tồn tại vĩnh hằng và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị lỗi thời, nhà thơ, nhà văn xuất sắc sẽ sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.
Hãy thuyết minh về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi – Bài làm 4
Có thể nói, Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn là nhà văn trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận lỗi lạc. Và, nhắc đến văn chính luận Nguyễn Trãi, ta không thể không nhắc đến bài ” Đại cáo bình Ngô ” mang những nét rất đặc trưng, cơ bản của thể cáo.
Như chúng ta đã biết: năm 1427 đánh dấu sự kiện trọng đại quân ta đại thắng chống lại giặc Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã sáng tác ra ” Đại cáo bình Ngô”- được coi là bản tuyên ngôn độc lập, một áng ” thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. ” Bình Ngô đại cáo” đã nói lên phần nào nỗi lòng của Nguyễn Trãi cũng như của cả dân tộc Việt Nam ta: căm thù, phẫn uất trước kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về chiến công to lớn của thời đại. ” Đại cáo bình Ngô” được viết theo thể cáo, gồm bốn phần với những ý nghĩa sâu sắc khác nhau.
” Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tác giả khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh là để cuộc sống yên bình, là diệt trừ những thế lực tham tàn, bạo ngược, đó chính là việc làm danh nghĩa. Sau đó, Nguyễn Trãi còn khẳng định nước ta là một nước độc lập có chủ quyền, có lãnh thổ, phong tục, triều đại riêng…. Ở đây, giọng thơ nghe sao tự hào quá đỗi. Phải chăng, đây chính là những dòng thơ viết từ chính tiếng lòng hạnh phúc của Nguyễn Trãi, từ chính tấm lòng yêu quê hương, đất nước cao đẹp:
” Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Bằng những lí lẽ xác đáng, lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa, hợp với lòng dân, hợp với quy luật là chính nghĩa. Và lẽ dĩ nhiên, những việc làm cao quý đó chỉ có thể xuất phát từ một lòng yêu nước, thương dân cao cả.
Vạch rõ, tố cáo những tội ác của giặc Minh chính là nội dung chính của đoạn tiếp theo. Ở đây, Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt tội ác của giặc Minh. Chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má, phuaphen nặng nề, vơ vét sản vật quý hiếm, diệt xản xuất, sự sống, tàn sát dã man dân ta, làm cho dân ta lâm vào cảnh” khốn cùng”.
” Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Cuối cùng, sau khi liệt kê một loạt tội ác của giặc Minh, tác giả đã bộc lộ thái độ căm thù, phẫn uất đồng thời kết tội chúng:
” Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được ? “
Tác giả đã có cách lập luận chặt chẽ, lời văn đanh thép, sử dụng những hình ảnh rất thực và có sức khái quát cao, giọng văn linh hoạt để kết tội giặc Minh. Có thể nói, phần thứ hai là một bảng cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của giặc Minh là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ.
Đoạn tiếp theo kể về quá trình nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống lại giặc Minh bạo tàn. Tả về những ngày đầu kháng chiến đầy gian khổ, tác giả đã lấy đó làm nền để lột tả hết những chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta:
” Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu. “
Trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém, có khi lương thực cạn kiệt, có khi quân ta hiếm hoi nhân tài. Thế nhưng, nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ địch. Đó là do người lãnh đạo có quyết tâm cao độ, có những chiến lược, chiến thuật phù hợp để nâng cao sức mạnh của tình đoàn kết của nhân dân, chú trọng mưu cơ hơn binh lực. Có thể nói, hình tượng của Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng áo vải sinh động và toàn diện.
Với giọng điệu hào hùng, tác giả đã kể về ba trận đánh: Trận Bồ Đằng-tro bay ; Trận Ninh Kiều-tết động ; Trận Chi Lăng-Mã An đến Xương Giang. Trong một loạt những cặp câu biền ngẫu, lối viết thậm xưng, nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ mang đậm chất anh hùng ca, tác giả đã nhấn mạnh được sự thất bại thảm hại của giặc Minh và khí thế hào hùng của quân ta.
Đoạn cuối, tác giả đã tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự nghiệp chiến đấu chính nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn:
” Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Bằng giọng văn nhẹ nhàng khoan thai, tác giả đã tuyên bố nền hòa bình của dân tộc ta đã được lặp lại. Đồng thời, tác giả cũng rút ra bài học lịch sử và thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc, ” Đại cáo bình Ngô ” đã có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương, được xem là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. Ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần tự lập tự cường nêu bật sức mạnh của nhân dân ta, mở ra kỷ nguyên mới-kỉ nguyên hòa bình, độc lập tự do cho lịch sử dân tộc chính là những ý nghĩa sâu sắc mà “Bình Ngô đại cáo” mang lại.
“Đại cáo bình Ngô” tiêu biểu cho thể loại cáo, tiêu biểu cho thể loại văn chính luận của Nguyễn Trãi. Bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, thể hiện được khát vọng tự chủ độc lập, yêu chuộng hòa bình.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
thuyết minh đoạn 2 bài bình ngô đại cáo
thuyết minh đoạn 3 bài bình ngô đại cáo
thuyết minh bình ngô đại cáo lớp 10
Bài Viết Phân Tích “Bình Ngô Đại Cáo”
Chia sẻ cách lập dàn ý phân tích tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và bài văn mẫu hay nhất của các em học sinh giỏi năm 2023. I. Dàn Ý Phân Tích Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo
– Giới thiệu chung về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo’ (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,…)
a. Nêu tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập
– Tiền đề chính nghĩa:
+ “Nhân nghĩa”: một phạm trù tư tưởng i của Nho giáo, chỉ mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức
+ Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” phải gắn liền với “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải “trừ bạo”
– Chân lí độc lập khách quan:
+ Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng
+ Lối so sánh các triều đại phong kiến cho thấy tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó khẳng định nền độc lập của dân tộc và thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc
+ Kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó
b. Vạch rõ tội ác của kẻ thù
– Làm sáng rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh
– Tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.
– Chính sách thuế khóa nặng nề, vô lí
– Hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên trên đất nước ta.
c. Quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta
– Hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi:
+ Đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy Lê Lợi cũng xuất thân từ nhân dân
+ Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở để đứng lên dấy binh khởi nghĩa
+ Dẫu trong hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
– Quá trình chiến đấu của quân ta:
Nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực, thiếu thốn lương thực,…
Nghĩa quân vẫn luôn tràn đầy lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng
+ Giai đoạn phản công và giành thắng lợi:
Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,…
Tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp và cuối cùng nghĩa quân của ta đã dành thắng lợi, khiến bọn giặc phải khiếp sợ.
Khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Điều đó cho thấy tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần nhân văn của quân và dân ta.
– Giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc
– Lời tuyên bố ấy vừa thể hiện lòng tự hào dân tộc vừa cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.
Khái quát những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” và nêu cảm nhận của bản thân.
II. Bài Văn Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 2023Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.
Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợn, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc
Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ,
Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợn của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
Đen đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.
Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.
Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.
dàn ý bình ngô đại cáo
dàn ý bài bình ngô đại cáo
phân tích bình ngô đại cáo
bình ngô đại cáo dàn ý
dàn bài bình ngô đại cáo
dàn ý bài bình ngô đại cáo
dàn ý phân tích bài thơ bình ngô đại cáo
Bình Luận Facebook.
Bình Ngô Đại Cáo (Ngô Tất Tố Dịch)
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân, Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. Duy ngã Đại Việt chi quốc, Thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực ký thù, Nam bắc chi phong tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc, Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương. Tuy cường nhược thì hữu bất đồng, Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại, Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong. Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan, Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải. Kê chư vãng cổ, Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà, Trí sử nhân tâm chi oán bạn. Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân; Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc. Hân thương sinh ư ngược diệm, Hãm xích tử ư họa khanh. Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên. Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức; Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di. Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa, Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải. Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh, Điễn vật chức thúy cầm chi võng la. Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh, Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở. Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha; Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, Lư diêm chi trữ trục giai không. Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô, Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác. Thần dân chi sở cộng phẫn, Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn, Thê thân hoang dã. Niệm thế thù khởi khả cộng đái, Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh. Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên, Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật. Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư, Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý. Đồ hồi chi chí Ngộ mị bất vong. Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì, Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp, Tuấn kiệt thần tinh. Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân, Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ. Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông; Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch. Phẫn hung đồ chi vị diệt, Niệm quốc bộ chi tao truân. Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần, Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ. Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm, Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan. Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập; Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm. Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị; Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo. Bồ Đằng chi đình khu điện xế, Trà Lân chi trúc phá khôi phi. Sĩ khí dĩ chi ích tăng, Quân thanh dĩ chi đại chấn. Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách, Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh. Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu; Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương. Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý; Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên. Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ; Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi. Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần, Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ. Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong; Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất. Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự, Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô. Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân, Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm; Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần. Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến, Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai. Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong, Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực. Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã; Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn. Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu, Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ. Ngã toại nghênh nhận nhi giải, Bỉ tự đảo qua tương công. Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi, Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt. Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ, Thân mệnh trảo nha chi thần. Ẩm tượng nhi hà thủy càn, Ma đao nhi sơn thạch khuyết. Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn, Tái cổ nhi điểu tán quân kinh. Quyết hội nghĩ ư băng đê, Chấn cương phong ư cảo diệp. Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản, Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm. Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ, Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy. Phong vân vị chi biến sắc, Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ; Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân. Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết; Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng. Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại, Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng. Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ; Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm. Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán; Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh. Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành; Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức. Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn, Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn. Xã tắc dĩ chi điện an, Sơn xuyên dĩ chi cải quán. Càn khôn ký bĩ nhi phục thái, Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh. Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ, Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ. Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công; Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ, Hàm sử văn tri.
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại, Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ, Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, Gây thù kết oán trải mấy mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ; Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nổi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế: Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Nghị Luận Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!