Bạn đang xem bài viết Vài Nét Tìm Hiểu Về Vai Trò Của Yếu Tố Kì Ảo Trong Truyền Thuyết, Truyện Cổ Tích Và Truyền Kì được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Như chúng ta đã biết Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội đặc thù luôn vận động biến chuyển. Diễn tiến của văn học như một hệ thống với sự hình thành tồn tại thay đổi có mối quan hệ khăng khít chặt chẽ với thời kỳ lịch sử như hai mặt của một tờ giấy
Trong quá trình vận động Văn học phát triển trong sự kế thừa và cách tân, văn học dân gian là cội nguồn của văn học viết người sau kế thừa giá trị của người trước tạo nên giá trị mới. Sự vận động từ văn học dân gian sang văn học viết diễn ra một cách tự nhiên nhưng không nằm ngoài quy luật vận động của nền văn học. Chính văn học dân gian đã trở thành nguồn mạch mát lành nuôi dưỡng cho nền văn học viết Việt Nam ngày càng khởi sắc. Trong quá trình đó Văn học dân gian và văn học trung đại tuy là hai bộ phận văn học có phương thức sáng tác khác nhau nhưng lại có quan hệ gắn bó rất mật thiết. Trong mối quan hệ với văn học trung đại Việt Nam thì văn học dân gian đóng vai trò là ngọn nguồn, là nền tảng. Đối với nền văn xuôi trung đại, kho tàng truyện kể dân gian có vai trò và ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành và phát triển thể loại văn học tự sự về nhiều mặt. Có thể nói kho tàng truyện kể dân gian chính là một trong những nguồn suối trong mát đã nuôi dưỡng cho khu vườn tự sự Việt Nam mãi mãi xanh tươi. Tìm hiểu tác động ngược lại của văn học trung đại đối với văn học dân gian, các nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Phan Ngọc,… chỉ ra tác động của văn học trung đại đối với việc tạo nên chất liệu, nguồn cảm hứng làm cho một số hình thức biểu hiện của văn học dân gian được nâng cao lên tầm cao mới. Trong quá trình tìm hiểu các thể loại tự sự dân gian như truyền thuyết, cổ tích và thể loại truyền kì của văn học trung đại, chúng ta nhận thấy sự hiện diện của các yếu tố kì ảo.
Trong tác phẩm văn học, yếu tố kì ảo là cầu nối để đưa ta vào thế giới chưa biết, huyền diệu và bí ẩn trong trí tưởng tượng, vào những giấc mơ không có thật. Nó đem đến cảm giác mới lạ cho người đọc, mở ra một chân trời mới của sức tưởng tượng bay bổng. Mặt khác nó khiến con người không quay đi với đời sống thực tại mà luôn sẵn sàng đối diện, nhận thức đời sống một cách sâu sắc hơn. Trong bài viết, chúng tôi tìm hiểu vai trò các yếu tố kì ảo của văn học dân gian qua thể truyền thuyết ( Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy), truyện cổ tích thần kì ( Truyện Tấm Cám) và thể loại Truyền kì ( Chuyện chức phán sự đền Tản Viên– Trích Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ).
Đến với thể loại truyện cổ tích thần kì: Chức năng của cổ tích là nhận thức con người, nhận thức những quan hệ giữa con người với con người, đồng thời giáo dục con người khát vọng hướng thiện. Truyện cổ tích là truyện hư cấu có chủ tâm và mang tính nghệ thuật . Chức năng và đặc điểm nghệ thuật ấy của truyện cổ tích biểu hiện khá rõ trong truyện cổ tích thần kì. Mang chức năng nhận thức con người, nhận thức những quan hệ giữa con người với con người…nên truyện cổ tích thần kì hướng về đời sống xã hội, lấy con người (chủ yếu là những người lao động nghèo khổ, lương thiện) làm nhân vật trung tâm. Trong truyện cổ tích thần kì, yếu tố thần kì có vai trò rất quan trọng ở việc hình thành thế giới cổ tích. Truyện cổ tích thần kì thể hiện chức năng nhận thức con người, nhận thức xã hội qua việc phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có nội dung rất quan trọng là phản ánh xung đột, mâu thuẫn xã hội. Xung đột, mâu thuẫn xã hội, khi đi vào thế giới cổ tích trở thành xung đột, mâu thuẫn truyện và yếu tố thần kì có vai trò to lớn, không thể thiếu, trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột, mâu thuẫn của truyện. Trong truyện cổ tích Tấm Cám cũng như nhiều truyện cổ tích thần kì khác xung đột trong truyện cổ tích thần kì luôn luôn được giải quyết nhờ sự can thiệp của các lực lượng thần kì. Yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì là yếu tố có vai trò biến thực tế cuộc sống thành thế giới cổ tích. Người nghe say mê thế giới cổ tích, trước hết là họ say mê chính cái thần kì trong thế giới cổ tích. Nhờ sự phù trợ của lực lượng thần kì, xung đột được giải quyết bao giờ cũng theo hướng người tốt, thật thà, lương thiện chiến thắng, hạnh phúc; kẻ xấu, tham lam, độc ác thất bại, bị trừng trị đích đáng. Sự chiến thắng và hạnh phúc của nhân vật hiền lành, lương thiện trong truyện cổ tích thần kì gần như chỉ là biểu hiện của niềm tin vào triết lí ở hiền gặp lành và ước mơ công lí của nhân dân mà thôi. Có nhận xét về truyện cổ tích cho rằng:các yếu tố thần kì tham gia vào cốt truyện để giúp những nhân vật bất hạnh thay đổi số phận, nhờ có sự hư cấu kì ảo này họ đều được hưởng hạnh phúc.
Qua hàng ngàn năm, văn học dân gian Việt Nam vẫn giữ được sức sống lâu bền của nó, trở thành cội nguồn vô tận nuôi dưỡng tâm hồn người Việt và là mảnh đất màu mỡ ươm mầm và phát triển những tài năng nghệ thuật. Văn học dân gian là chiếc cầu vô hình nối quá khứ với hiện tại, tương lai; gắn kết tình cảm mọi thế hệ con người Việt Nam. Đó chính là sự khởi nguồn, là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Nói đến thể truyền kì, tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ được xem là tác phẩm mở đầu mẫu mực trong văn học trung đại Việt Nam- xứng đáng là “ Thiên cổ kì bút”, “ áng văn hay của bậc đại gia”. Truyền kì mạn lục mượn yếu tố hoang đường, kì ảo, mượn truyện xưa để phản ánh xã hội đương thời. Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”. Tác phẩm có sự kết hợp của yếu tố kì và thực trong bút pháp nghệ thuật. Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên có vẻ như “ người thực, việc thực” bởi cách dẫn người, dẫn việc cụ thể, xác định đến cả thời gian, địa điểm. Nhưng chính câu chuyện về Ngô Tử văn lại cũng chứa đầy tính li kì, huyền hoặc bởi sự xuất hiện của thế giới Minh ti. Chịu ảnh hưởng từ tư duy thần linh siêu hình của các sáng tác dân gian, của những truyện kì quái phương Bắc, Nguyễn Dữ đã đưa vào các câu chuyện của ông nhiều yếu tố hoang đường, huyền ảo. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, trước hết, có thể kể đến sự xuất hiện của các yếu tố kì ảo trong thế giới nhân vật như hồn ma tên tướng giặc phương Bắc, quỷ, quỷ Dạ Xoa, Thổ công, Diêm Vương, các phán quan. Tất cả các nhân vật này đều thuộc về cõi âm. Trong Truyền kỳ mạn lục, cái kỳ ảo được Nguyễn Dữ sử dụng một cách có ý thức như một thủ pháp nghệ thuật, còn cái hiện thực được hiểu là toàn bộ hiện thực muôn mặt của cuộc sống đời thường với biết bao cảnh đời đau khổ. Hai yếu tố hiện thực và kỳ ảo có mối quan hệ gắn bó. Ở hầu hết các truyện trong Truyền kỳ mạn lục, hai yếu tố đó đan xen vào nhau, tương tác nhau để cùng bộc lộ tư tưởng của tác giả và nội dung của tác phẩm. Yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện làm cho câu chuyện được kể thêm hấp dẫn, tăng tính chất lãng mạn, trữ tình.
Nếu nhìn trong sự vận động của yếu tố kì ảo trong văn học, ta nhận thấy yếu tố kì ảo trong truyền kì có sự kế tục cả hai thể loại văn học dân gian nêu trên trong việc phản ánh quan niệm, phản ánh ước mơ và tư duy siêu hình. Bên cạnh đó thể loại văn học này đã thể hiện điểm mới trong quan niệm của tầng lớp trí thức phong kiến mang tinh thần dân tộc. Trong truyền kì dấu ấn cá nhân ( của tác giả và tầng lớp trí thức ) được bộc lộ.
Từ những cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI), Đoàn Thị Điểm (thế kỉ XVIII) khi viết những tác phẩm truyền kì đã hư cấu chúng thành những câu chuyện hoàn chỉnh vừa có yếu tố lãng mạn, vừa có tính tư tưởng nhân văn sâu sắc, vừa có giá trị nghệ thuật cao. Kho tàng truyện kể dân gian không chỉ có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của các thể loại tự sự văn xuôi, mà còn có vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển các thể loại tự sự văn vần của văn học thời trung đại.
( Lê Thị Nghĩa- GV Ngữ văn, Tổ trưởng CM- Trường THPT Dương Xá)
Yếu Tố Thần Kì Trong Truyện Cổ Tích Nhật Bản
1. Mở đầu Khảo sát 63 truyện cổ tích Nhật Bản 2. Nhân vật thần kì Nhân vật thần kì trong truyện cổ tích Nhật Bản, nhìn một cách khái quát cũng mang những đặc điểm “đồng dạng” với nhân vật thần kì trong truyện cổ tích của nhiều quốc gia trong khu vực Đông Á và trên thế giới. Có thể thấy, với tư duy thần thoại và trí tưởng tượng bay bổng, tác giả dân gian đã xây dựng nên hệ thống nhân vật siêu nhiên đầy “huyễn hoặc”, kì ảo nhưng cũng rất đời thường. Đó là thần Myojin – vị thần hộ mệnh (Định mệnh của cuộc sống, Nàng công chúa và người bán than), là thần đền Jizo (Cuộc đời của một người hành khất), là thần cây long não (Truyện cổ về cây long não), là nữ thần nhân từ (Con suối Tazawa xinh đẹp)… Những vị thần này luôn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật của người dân khi họ khẩn cầu và bằng cách này hay cách khác đã đem đến cho họ những cơ hội thay đổi bất ngờ trong cuộc sống. Cô gái trong truyện Con suối Tazawa xinh đẹp, một hôm nhìn người mẹ có tuổi của mình, giật mình lo sợ một ngày nào đó mình cũng trở nên già nua như mẹ, cô quyết định lên đường tìm gặp nữ thần và cầu xin nữ thần cho mình giữ được sắc đẹp vĩnh cửu. Mặc cho nữ thần khuyên can và cảnh báo đó là “hi vọng hão huyền” nhưng cô gái một mực quả quyết: “Con sẽ làm bất cứ điều gì để có thể đạt được điều đó”. Nữ thần chỉ cho cô gái đường đi đến dòng suối vàng lấp lánh, uống nước ở dòng suối và ước mơ của cô sẽ thành hiện thực. Nhưng kết cục do “nước suối mùa xuân rất ngọt, vì vậy cô còn uống nhiều hơn cả cơn khát đòi hỏi”, cô đã biến thành con rồng. Khi người mẹ tìm thấy cô ở nơi này, cô đã nói: “Nữ thần của lòng nhân từ đã ban cho con vẻ đẹp và sự trẻ trung vĩnh viễn. Và bây giờ con như thế này đây, con không buồn đâu mẹ ạ”. Kết thúc này, có thể đem đến sự tiếc nuối cho người nghe về một cái kết có hậu trọn vẹn song nhìn nhận một cách khách quan, đây vẫn là sự “trọn vẹn” trong khát khao vươn tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ tuyệt đối của con người. Trong truyện kể Chàng câu cá Ichiemon, nhân vật thần kì là con quỷ nước Kappa. Con quỷ hiện ra trước mắt chàng câu cá với hình hài “một người nào đó đang treo mình trước mũi thuyền của anh trên mặt nước” và khi được hỏi: “Mày là quỷ nước Kappa phải không? Mày từ đâu đến đây và mày muốn gì?” con quỷ đã ngay lập tức trả lời: “Đúng, tôi chính là Kappa. Inchiemon, anh hãy đưa cho tôi chỗ rượu Sakê của anh đi”. Và sau khi bị từ chối, con quỷ đã rình cho anh chàng đánh cá say rượu ngủ quên, uống sạch bình rượu của anh. Tỉnh giấc, thấy bình rượu đã hết, anh tức giận nhưng con quỷ đã đền bù cho anh bằng cách “giúp anh có thật nhiều cá như anh muốn. Cá mẹ cá con sẽ thi nhau nhảy vào thuyền của anh mà chẳng cần anh giật dây câu”. Trong trường hợp này, nhân vật thần kì vẫn phát huy được vai trò của nhân vật “tặng thưởng” – một kiểu nhân vật đặc trưng của truyện cổ tích thần kì. Ở một câu chuyện khác – Con ma của đền Kogienji, nhân vật thần kì là con ma xuất hiện với diện mạo của một người phụ nữ trẻ đẹp với “mái tóc lưa thưa”, “mặc một cái áo Kimônô rất trắng, đứng một mình trong bóng tối mờ mờ”. Vẻ đẹp liêu trai ấy khiến cho người chủ quán khi nhìn thấy đã “rùng mình ớn lạnh”. Cô gái đến tìm chủ quán để mua kẹo trong 6 đêm liên tiếp, rồi “biến nhẹ nhàng vào đêm tối”. Vào đêm thứ 7, cô đến và cầu khẩn: “Đêm nay tôi không có tiền, nhưng bằng tấm lòng nhân từ của bụt chí tôn, xin ông hãy cho tôi mấy chiếc kẹo”. Hành tung bí ẩn của cô khiến cho người chủ quán thấy nghi ngờ và quyết tâm tìm cho ra sự thật. Sự thật được phát giác khi ông cùng nhóm thanh niên ưa mạo hiểm bám theo cô gái và nhìn thấy cô chui vào một nấm mồ. Khi tấm đá đậy trên mộ phần được đẩy ra họ nhìn thấy cô nằm trong quan tài với một đứa bé sơ sinh. Một câu chuyện tình yêu đau buồn sau đó được một vị sư trưởng hé lộ, đã khiến cho ai nấy đều cảm thương cho số phận bất hạnh của một cô gái. Ở một số trường hợp cụ thể, nhân vật chính nhận “phương tiện thần kì” mà không cần phải trải qua sự thử thách của người tặng. Trong Truyện cổ về cây long não, chàng thợ săn vào rừng săn thú và trong lúc trú mưa dưới gốc cây long não, anh ta đã nghe được câu chuyện của hai vị thần. Câu chuyện đó, thật tình cờ lại nhắc đến cái chết của đứa con trai mới sinh của anh ta sau 7 năm nữa. Cũng vì biết trước số phận của con mình nên chàng thợ săn đã nghĩ ra cách đối phó với quỷ biển để cứu con mình thoát khỏi cái chết đã được tiên đoán. Ở đây người thợ săn nhận được “phương tiện thần kì” một cách hoàn toàn tình cờ, ngẫu nhiên. Nhân vật thần kì còn gắn với chức năng gây ác, đem đến tai họa bất ngờ cho người dân lương thiện. Con quỷ trong truyện Tiếng cười của quỷ đã biến thành đám mây đen cuốn theo một cô dâu trong đám cưới. Bà mẹ đã lên đường đi tìm và may mắn nhờ một vị đạo cô (ngôi mộ đá) bày cách nên đã cứu được con gái trở về. Hoặc trong truyện Con quỷ và ba đứa trẻ, Ba lá bùa may mắn cũng xuất hiện con quỷ/mụ quỷ già độc ác, chuyên tìm mọi cách ăn thịt người… Kiểu nhân vật này khá giống với nhân vật yêu tinh trong truyện cổ tích của Việt Nam. Cũng có khi nhân vật thần kì đứng ở vị trí trung gian, như trong truyện Hai ông già và cục bướu. Hai nhân vật với những đặc điểm ngoại hình giống nhau, nhưng tính cách hoàn toàn khác nhau – ông lão “vô tư” và ông lão “cục cằn”. Cả hai lần lượt vào rừng, gặp lũ quỷ nhưng cách hành xử của họ khác nhau. Ông lão “vô tư” với bản tính vui vẻ, hòa đồng thấy lũ quỷ nhảy múa nên hào hứng vừa nhảy vừa hát cùng với chúng, nên khi cần giữ lại một vật làm tin để mong ông quay lại, lũ quỷ đã nhấc cục bướu ra khỏi mặt của ông lão. Còn ông lão “cáu kỉnh”, đúng như tên gọi của mình thấy lũ quỷ xúm xít vây quanh vừa bực bội vừa sợ hãi đã làm lũ quỷ thất vọng và kết cục thật thảm hại khi lão phải hứng chịu hai cục bướu xấu xí trên mặt. Có thể thấy, hai nhân vật được đặt trước tình huống thử thách giống nhau nhưng cách xử lí tình huống khác nhau, nên kết cục số phận của họ hoàn toàn trái ngược. Nhân vật thần kì ở đây, chỉ đóng vai trò “đòn bẩy” cho hai nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Tính chất nhân – quả thể hiện rõ qua việc: số phận mỗi người như thế nào là do hành động, tính cách của anh ta quy định. Rất dễ nhận thấy trong truyện cổ tích Nhật Bản, lực lượng thần kì thường phổ biến ở các dạng như “thần”, “ma”, “quỷ”, “tinh”. Chúng xuất hiện ở mỗi tình huống với những đặc điểm hành trạng khác nhau nhưng đều tham gia trực tiếp vào thế giới của con người. Sự có mặt của nhân vật thần kì, dù với bất kì vai trò nào cũng đều có ý nghĩa tạo nên tính chất khác thường, kì lạ của câu chuyện. 3. Con vật, đồ vật thần kì Tính chất thần kì biểu hiện ở chỗ những con vật, đồ vật vật thể biết nói, biết nghe và hiểu được tiếng người. Các con vật như: loài chim (chim trĩ, chim sẻ, chim hạc…), loài cá, cua, loài thú hoang dã (cáo, chó sói…), vật nuôi (ngựa, chó, mèo, gà, vịt…)… Chúng tham gia vào cốt truyện với vai trò nhân vật phụ song lại có ý nghĩa rất lớn trong toàn bộ diễn biến câu chuyện. Cũng giống như truyện cổ tích của nhiều quốc gia trên thế giới, sự có mặt của các con vật trong truyện cổ tích Nhật Bản được xem như “vật di sản màu nhiệm” đem lại may mắn, giàu có cho nhân vật chính. Tuy nhiên ở một vài truyện cụ thể, tính chất “mầu nhiệm” có phần khác biệt. Truyện Con cáo và ông lão kể về một ông lão lương thiện, sống đơn độc trong một ngôi làng nhỏ. Ông lão rất yêu thích công việc làm vườn, một hôm nhặt được một hạt đậu bé xíu liền mang về trồng trong mảnh vườn nhỏ của mình. Hạt đậu nảy mầm và lớn rất nhanh. Cây đậu ra quả sai trĩu nhưng có một con cáo đến ăn trộm những hạt đậu. Trước sự tức giận của ông lão, con cáo cầu xin tha tội và hứa: “Cháu sẽ làm cho ông trở thành người giàu có”. Giữ đúng lời hứa, con cáo biến thành con ngựa chiến, con bò sữa cho ông lão bán đi, kiếm rất nhiều tiền. Tuy nhiên, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đây. Lần thứ ba, con cáo biến thành cái ấm trà xinh xắn và ông lão lại mang cái ấm ra chợ bán. Một ông khách đã cho cái ấm lên bếp lửa đun để kiểm tra độ bền của nó. Cuối cùng cái ấm phồng lên, nổ tung và kết cục là “con cáo tội nghiệp mình sũng nước nằm chết nhe răng. Còn ông lão thì bị bỏng nặng vì nước nóng ở cái ấm nổ bắn ra”. Kết thúc này không đi theo chiều hướng lí tưởng hóa – một biểu hiện cho thấy tinh thần thực tế rất đậm nét trong truyện cổ tích Nhật Bản. Ở một số truyện cổ khác, ta lại bắt gặp một lối tư duy rất gần với truyện cổ tích Việt Nam. Đó là sự “mầu nhiệm” mà con vật thần kì đem đến cho những con người bất hạnh, hiền lành tốt bụng. Nhân vật Mamichigane trong truyện Cậu bé đầu bếp, là con của một vị lãnh chúa trong vùng Omura. Cậu bé mồ côi mẹ từ lúc ba tuổi, sống cùng người mẹ kế ích kỉ, độc ác, phải chịu đựng nhiều nỗi oan ức, khổ cực. Một lần mụ vu oan cho cậu bé làm mụ bị thương, cha cậu đã đuổi cậu ra khỏi nhà cùng với một con ngựa. Trên đường đi, cậu gặp một con sông lớn, một dãy núi hiểm trở song nhờ con ngựa cậu vượt qua những chướng ngại này một cách dễ dàng. Sau này, nhờ con ngựa biết nhảy múa, cậu còn được kết hôn với cô gái xinh đẹp của phú ông; Sự đền đáp của con vật đối với ân nhân, có thể thấy qua truyện Con chim sẻ bị cắt lưỡi. Một ông lão cứu giúp con chim nhỏ gặp nạn nhưng không nhận được sự đồng tình từ bà vợ. Ông lão yêu quý con chim bao nhiêu thì bà vợ lại ghẻ lạnh, ghê tởm nó bấy nhiêu. Cuối cùng, ông lão nhân hậu được đền đáp một chiếc hòm nhỏ, trong chứa đầy vàng bạc châu báu, còn bà vợ tham lam đòi chiếc hòm lớn hơn, trong chứa đầy ma, quỷ và những sinh vật hung ác; Hay trong truyện Urashima Taro, chàng trai Urashima Taro vốn là người hiền lành, tốt bụng và dễ tính, cứu con rùa nhỏ khỏi sự hành hạ của bọn trẻ nên đã được rùa trả ơn bằng cách đưa xuống cung điện của Long Vương, chung sống với nàng công chúa Otto xinh đẹp… Những con vật thần kì trong những truyện kể trên gắn với vai trò “người tặng thưởng” và phần thưởng được trao tặng khi nhân vật chính trải qua một thử thách nào đó, và ở đây là thử thách về tình thương, lòng trắc ẩn. Những đồ vật, vật thể như cái cối, cái thùng, cái bình, cái hũ gạo, cái áo, cái ấm… cũng được xem như những sinh thể sống động với đặc điểm, thuộc tính như con người. Chúng có thể “can dự” vào diễn biến cuộc đời của các nhân vật, chi phối tới kết cục số phận của họ. Trong truyện Vì sao nước biển lại mặn, người em nghèo khổ đến vay gạo của người anh nhưng bị từ chối. Trên đường lang thang vô định, anh đã gặp một ông lão và được bày cho cách đến tìm những người tí hon để “xin họ một vật bằng đá có thể chuyển động được”. Điều duy nhất mà anh phải làm là “quay cái tay nắm về phía bên phải và nói điều mong ước của mình” và “nếu muốn làm cho cái cối dừng lại phải quay nó về phía tay trái”. Cái cối thần kì đã làm người em toại nguyện với cuộc sống đủ đầy. Người anh trai tham lam, rắp tâm ăn trộm cái cối và kết cục là anh ta bị nhấn chìm xuống đáy biển. Đây là một trong số những truyện tương đồng với truyện của Việt Nam, với dạng kết cấu đồng quy rất đặc trưng. Cái cối thần kì trong câu chuyện này, đã phát huy tính màu nhiệm của nó và sự màu nhiệm này có ý nghĩa “trợ lực” cho nhân vật chính diện. Là đồ vật, song chúng luôn bộc lộ các trạng thái cảm xúc giống như con người, biết phân biệt tốt – xấu, thiện – ác… Trong truyện cổ tích cổ tích Nhật Bản, ta còn bắt gặp những đồ vật thần kì như thùng rượu Sakê uống hết lại đầy, cái nồi chỉ cần cho một nhúm gạo có thể biến thành nồi cơm đầy ắp (Con yêu tinh mũi dài thích rượu), cái khăn quàng cổ mà nhờ nó có thể nghe tiếng nói của loài vật (Cái khăn thần kì), cái áo, khi mặc vào có thể bay lên trời (Nữ thần nhà trời)… Sự hư cấu này không chỉ có ý nghĩa tạo nên những cốt truyện li kì mà còn thỏa mãn ước mơ cháy bỏng của con người. 4. Sự biến hóa thần kì Một biểu hiện của yếu tố thần kì khá đậm nét trong truyện cổ tích Nhật Bản, chính là sự biến hóa. Những dạng thức biến hóa thường thấy là từ vật thành người, từ người thành vật. Ở dạng biến hóa từ vật thành người, có truyện Phú ông Ốc Sên. Đây cũng là truyện có nhiều nét tương đồng với truyện cùng kiểu của Việt Nam như Sọ Dừa, Chàng cóc, Chàng rùa… Truyện kể về một đôi vợ chồng nghèo, đã nhiều tuổi mà không có con. Họ ao ước cháy bỏng về một đứa con. Mang niềm mong mỏi ấy, họ đến đền thờ thần nước và khẩn cầu: “Hỡi thần nước anh linh! Hãy cho con một đứa con, cho dù nó chỉ là một con ốc sên trên cánh đồng này”. Nghe thấu lời cầu nguyện, thần nước đã ban tặng cho họ một đứa con – một con ốc sên nhỏ xíu. Trong hình hài của con ốc sên, nhân vật mang lốt đã bộc lộ những đặc điểm phẩm chất vô cùng tốt đẹp: tài giỏi, hiếu thuận. Chàng ốc sên được phú ông hứa gả cho một cô con gái và cũng giống với truyện về nhân vật đội lốt xấu xí của Việt Nam, đến một thời điểm nhất định sau khi kết hôn, đã trút bỏ lốt vật để trở thành một chàng trai đẹp đẽ. Sự biến hóa từ vật thành người, không chỉ tạo ra tính chất li kì của câu chuyện mà hơn hết, nó chứa đựng khát vọng vươn tới một cái đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ của con người ở bất kì nơi nào trên thế gian này. Đẹp về phẩm chất thôi chưa đủ, nhân vật truyện cổ tích còn phải đẹp cả về hình thức. Đó mới là tiêu chí đánh giá cái đẹp đầy đủ nhất, trọn vẹn nhất theo quan niệm dân gian. Truyện Chú bé trái đào – Momotaro lại đề cập đến dạng biến hóa từ vật thành người. Một trái đào lớn trôi theo dòng nước đến tay của một bà lão. Bà mang trái đào về nhà định bổ thì bất chợt nghe thấy tiếng nói của một đứa trẻ từ quả đào và chỉ trong khoảnh khắc, trái đào tách làm đôi và một chú bé tí xíu nhảy ra; Hay như trong truyện Công chúa Kaguga, một cô bé tí hon được hóa thân từ một cây tre; Ba chàng trai biến thành “những con ngựa cày khỏe mạnh, đẹp đẽ” trong Ba chàng trai ngựa… Sự thay đổi bất ngờ về diện mạo, hình hài cũng là một dạng biến hóa độc đáo làm nên màu sắc kì ảo trong truyện cổ tích Nhật Bản. Truyện Bà lão hài nhi là một ví dụ sinh động. Trong truyện, ông lão uống nước trong một con suối đã biến thành một chàng trai trẻ với “những nếp nhăn trên mặt đã biến mất, mái tóc bạc đã trở lại đen bóng”. Còn bà lão vợ ông, thấy chồng trở nên trẻ đẹp bất ngờ nên cũng quyết định tìm đường đến “dòng suối mùa xuân”, nhưng do uống quá nhiều nước suối nên đã biến thành một đứa trẻ. Ở đây, ta bắt gặp một mô típ rất đặc trưng của truyện cổ tích nói chung – mô típ “bắt chước thất bại”. Cùng thực hiện một việc làm nào đó, nhân vật A thực hiện thành công, còn nhân vật B thất bại. Sự thất bại của nhân vật B thường là do làm trái thông lệ hoặc vi phạm điều cấm kị… Bà lão trong câu chuyện này vì cũng muốn trẻ trung như ông chồng nên đã uống quá nhiều thứ nước thần tiên và kết cục bị biến thành một hài nhi khờ khạo, yếu ớt. Câu chuyện kết thúc với tâm trạng ngổn ngang của ông lão: “Từ nay trở đi, ta phải chăm sóc bà vợ hài nhi của ta như thế nào đây?”. Việc “vô tình” vi phạm điều cấm kị của nhân vật bà lão trong câu chuyện, vừa có yếu tố bi kịch nhưng cũng không kém phần hài hước. Sự can thiệp của yếu tố thần kì trong trường hợp này không hướng đến một cái kết: người tốt được thưởng, kẻ xấu bị trừng phạt giống như công thức truyền thống trong truyện cổ tích Việt Nam, mà có lẽ mang một ý nghĩa biểu đạt khác. Đó là những quy tắc mà con người cần tuân thủ trong cuộc sống. Vi phạm quy tắc, tất yếu sẽ có hậu quả. Sự rạch ròi ấy phần nào đã nói lên tính cách của người Nhật. Trong truyện, tác giả dân gian còn đề cập đến một thứ nước trường sinh. Ẩn chứa sau câu chuyện là ước mơ trường sinh bất tử, khát vọng kéo dài tuổi thọ của con người. Cũng nói về một thứ nước thần tiên, truyện Nàng công chúa và người bán than kể về một nàng công chúa bất hạnh, sau một trận ốm thập tử nhất sinh, bị các vết chàm phủ kín cơ thể. Một lần tình cờ bắt gặp một cái vũng nhỏ sủi bọt, nước nóng ấm, nàng nhúng tay vào đó, lập tức thấy “người nhẹ bẫng, dễ chịu, những vết chàm xấu xí trên tay nàng bỗng nhiên biến mất hết. Nàng sung sướng lội xuống nước tắm, thế là tất cả những vết đen trên mình nàng cũng được nước nóng rửa sạch”. Sự thay hình đổi dạng của nhân vật, tạo nên cái kết vô cùng mĩ mãn, làm thỏa mãn trí tưởng tượng bay bổng của tác giả dân gian. Ở đây, yếu tố thần kì được sử dụng như một phương tiện nghệ thuật, tạo tiền đề cho cái kết thúc có hậu của câu chuyện. 5. Kết luận Khảo sát yếu tố thần kì trong truyện cổ tích Nhật Bản, có thể thấy những biểu hiện độc đáo của nó qua hệ thống nhân vật thần kì, các con vật đồ vật thần kì, sự biến hóa thần kì. Thực chất những dấu hiệu này không chỉ hiện diện trong truyện cổ tích Nhật Bản mà còn phổ biến trong truyện cổ tích của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên ở truyện cổ tích Nhật Bản ta vẫn có thể nhận ra những nét đặc trưng riêng biệt về hình thức và nội dung biểu đạt của yếu tố thần kì. Trong mỗi cốt truyện cụ thể, yếu tố thần kì được sử dụng với mục đích sáng tác khác nhau và vì thế, vai trò của nó cũng được nhìn nhận ở những mức độ đậm nhạt khác nhau. Song dù được biểu hiện dưới dạng thức nào, yếu tố thần kì trong truyện cổ tích Nhật Bản cũng đã làm tốt “nhiệm vụ” của nó trong việc tạo ra một “thế giới cổ tích” đầy rẫy sự hoang đường, kì ảo mà không hề viển vông, xa rời thực tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Bích Hà (2005), Truyện cổ tích Nhật Bản, Nxb. Thanh niên 2. Tăng Kim Ngân (1996), Cổ tích thần kì người Việt đặc điểm cấu tạo cốt truyện, Nxb. Giáo dục 3. Nôvicôva, A.M (1983), Sáng tác thơ ca dân gian Nga, tập 1, (Người dịch: Đỗ Hồng Chung – Chu Xuân Diên), Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp 4. Propp, chúng tôi (2003), Tuyển tập V.Ia.Propp, tập 1, Nxb Văn hóa dân tộc. 5. Đỗ Bình Trị (2002), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian, Nxb. Giáo dục
Phân Định Giữa Truyện Truyền Kì Với Truyện Cổ Tích Thế Tục
Truyện truyền kì là một loại hình tự sự bằng văn xuôi, thuộc văn học viết. Theo Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Trần Đình Sử, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 293), thì truyện truyền kì Trung Quốc thường có bố cục gồm ba phần: a) Mở đầu: giới thiệu nhân vật (tên họ, quê quán, tính tình phẩm hạnh); b) Kể chuyện: kể các chuyện kì ngộ, lạ lùng; c) Kết thúc: nêu lí do kể chuyện. Các tác giả Việt Nam theo truyền thống truyền kì Trung Quốc, nhưng lại có một quá trình hình thành và phát triển gắn liền với nền văn hóa và văn học dân tộc, đặc biệt là với văn học dân gian và văn xuôi lịch sử.
Về một số đặc điểm khác của truyện truyền kì, tài liệu vừa nêu (tr. 295- 296), viết (lược ghi):
– Truyện có cốt truyện hoàn chỉnh như những tác phẩm nghệ thuật, có thắt nút, phát triển và mở nút.
– Truyện có thể kết thúc có hậu hay không.
– Truyện chú trọng vào việc hơn là chú trọng vào người, lấy việc mà biểu hiện người, răn người.
Truyện cổ tích thế tục(1) là một trong ba tiểu thể loại của truyện cổ tích (truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế tục, và truyện cổ tích loài vật). Truyện cổ tích thế tục được phân biệt với hai tiểu loại kia:
– So với tiểu loại truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế tục không có yếu tố thần kì(2), truyện phát triển chủ yếu theo logic thực tại, gồm hoàn cảnh, tính cách của nhân vật.
– So với tiểu loại truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích thế tục không có nhân vật chính là các con vật nhằm phản ánh sinh hoạt, đặc điểm của chúng, cả việc giải thích nguồn gốc các hình dạng bề ngoài mà chúng hiện có.
2. Phân định giữa truyện truyền kì với truyện cổ tích thế tục
2.1. Xét 262 mẩu truyện truyền kì được chọn vào Truyện truyền kì Việt Nam (Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên), Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, 3 quyển – viết tắt: [TTK])(3), có thể thấy khái niệm “truyện truyền kì” không chỉ giới hạn vào thời trung đại, mà còn mở rộng đến các tác giả thời hiện đại: Nhất Linh, Thế Lữ, Tchya, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển,… Điều đặt ra ở đây, là có khá nhiều mẩu truyện được chép ở tài liệu này, đồng thời, cũng được nhiều bộ sưu tập truyện cổ tích ghi nhận, một số chúng là truyện cổ tích thần kì, số khác là truyện cổ tích thế tục.
TT
Tên truyện
Tài liệu gốc của [TTK/II]
Số thứ tự và số trang ở [TTK/II]
Tài liệu sưu tập truyện cổ tích (hay truyện cổ dân gian) có chép truyện này
1
“Ác báo”; “Tiếc gà chôn mẹ”; “Sự tích thằng trời trồng”
Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề)
57/ tr. 46-47
a) Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 398-399); b) Nghìn năm bia miệng, tập I (Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 65-67)
2
“Sống lại”; “Anh chàng họ Đào”
Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)
81/ tr. 108- 109
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (sđd., tr. 1336-1339)
3
“Chứa ác tự hại”; “Bò béo, bò gầy”; “Làng cướp”
Sơn cư tạp thuật (Khuyết danh)
115/ tr. 182- 183
a) Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (sđd., tr. 302- 305); b) Truyện cổ Hoa Lư (Phạm Vĩnh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993, tr. 63-70).
4
“Tiết phụ hai chồng”
Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục)
158/ tr. 495- 497
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (sđd., tr. 424-426)
2.2. Vấn đề đặt ra là giữa truyện truyền kì và truyện cổ tích nói chung, cổ tích thế tục nói riêng, có quan hệ ra sao, mà lại có nhiều truyện nằm ở phần giao(4) của hai loại như thế? Câu trả lời, là do có khá nhiều truyện truyền kì xuất phát từ truyện kể dân gian, trước khi được các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, và sự thiếu nhất quán về khái niệm “truyện truyền kì” ở các bộ sách được cho là có tập hợp loại truyện này, của người đời sau.
2.2.1. Với ý thứ nhất, giả sử có một truyện A lưu truyền trong dân gian, thì các sự việc, tình tiết của nó thường phiếm chỉ. Tức tên tuổi, quê quán của nhân vật, nếu có, hay bị lược đi. Bởi có thế thì nó mới dễ dàng được kể một cách rộng khắp ở nhiều giới, nhiều hạng người, và các địa bàn khác nhau. Trong lúc, một nhà văn muốn sử dụng A để chế tác thành truyện truyền kì, thì lại theo hướng ngược lại: nhà văn này sẽ cá thể hóa, cụ thể hóa các nhân vật, sự việc. Bấy giờ, họ tên, xã huyện, thời đại xuất hiện. Điều này thường được giải thích do phong cách của mỗi bên.
(1) TIẾT PHỤ HAI CHỒNG qua một công trình sưu tập truyện cổ tích.
Ngày xưa, nhà nọ có người con gái xinh xắn, nết na. Lúc nàng lớn lên, một người học trò nghèo họ Đỗ đưa trầu cau đến hỏi làm vợ. Chàng là một tay văn hay chữ tốt, tính nết rất hiền lành. Thấy thế, người cha cô gái vui lòng hứa hôn, cô gái sung sướng được người chồng tử tế. Lễ cưới vừa xong thì cha nàng nhuốm bệnh qua đời.
Cô gái về nhà chồng một niềm trinh thuận. Chồng cô là người mồ côi cha mẹ. Gia tài chỉ có một đám vườn nhỏ với mấy quyển sách, nhưng họ sống trong bầu không khí hòa nhã, yêu thương. Chồng đọc sách, vợ quay tơ, thú gia đình tưởng không ai hơn được.
Ít lâu sau, đột nhiên người chồng mắc bệnh hủi. Người vợ lo lắng tìm thầy chạy thuốc. Phải bán luôn nữ trang của mình, bán cả đám vườn đang ở để dùng vào việc chữa chạy cho chồng. Nhưng bệnh mỗi ngày một nặng, cho đến lúc hết phương điều trị. Duy chỉ có người vợ ngày ngày hầu hạ chu tất không chút quản ngại. Thấy thế, anh chàng thương vợ quá. Chàng cho phép vợ li dị để mặc mình với số phận. Nhưng người vợ nhất định không nghe, nàng nói:
– Vợ chồng là nghĩa lâu dài, còn bệnh tật của chàng chẳng qua là sự không may. Thiếp xin cùng chung số phận với chàng, không đi đâu cả.
Nhưng bệnh của người chồng ngày một đáng sợ hơn. Anh chồng luôn cố khuyên vợ trở về với mẹ đẻ, để khỏi vì mình mà khổ thân, tuy vậy vợ vẫn kiên quyết ở lại. Một hôm, để cho vợ khỏi chịu thiệt thòi, chồng cất bước lẻn đi, để lại cho vợ một phong thư, nói rằng mình sẽ không bao giờ trở về nhà nữa, và cho phép vợ tự do đi lấy chồng khác.
Sau khi chồng đi biệt, người vợ chảy không biết bao nhiêu là nước mắt. Mẹ đẻ của nàng khuyên con đi lấy chồng khác, nhưng nàng không chịu. Ba năm trôi qua, tin tức chồng vắng bặt. Nhiều người đoán rằng chàng đã quyên sinh cho khỏi đau khổ. Rồi người vợ trả nhà cửa cho họ hàng nhà chồng, trở về với mẹ đẻ, lập bàn thờ, coi như chồng đã chết. Người mẹ nàng luôn luôn bảo rằng:
– Con thủ tiết với chồng như thế là trọn đạo. Không nên bỏ phí xuân xanh một đời.
Thấy nàng xinh đẹp lại có đức hạnh, nhiều người muốn hỏi làm vợ, trong đó có người học trò họ Nguyễn. Tin qua mối lại xôn xao làm cho nàng không tự chủ được. Cuối cùng, nàng đành nhận lời đi bước nữa cùng với anh chàng họ Nguyễn. Về với chồng mới được ba năm, nàng sinh được hai người con trai. Hai vợ chồng rất tương đắc. Người học trò họ Nguyễn sau đó thi đậu tiến sĩ và được bổ làm án sát Sơn Tây.
Năm nọ ở Sơn Tây và các trấn lân cận mất mùa to, giá thóc gạo cao lên vùn vụt. Khắp mọi nơi đều có người chết. Đường sá, chợ búa đầy những đoàn người đói khổ đi kiếm miếng ăn. Quan án được lệnh đi phát gạo cho người đói.
Lại nói, chuyện anh chàng họ Đỗ từ khi trốn vợ ra đi, nhất quyết không trở về quê nữa. Chàng không muốn vì mình mà khổ đời một người đàn bà. Chàng cứ đi lang thang nay đây mai đó, sống bằng nghề bị gậy. Cứ như thế sau năm năm, bệnh của chàng vẫn như cũ, và chàng vẫn sống một cuộc đời đơn độc và đau khổ. Hôm ấy, nghe tin có cuộc phát chẩn, chàng lần mò tìm tới, nhập vào đội quân lĩnh chẩn.
Đến phiên được lĩnh, chàng kêu lên: “Tôi là học trò yếu đuối, tàn tật, không rá không mủng, không nồi không niêu, nên không muốn xin gạo, chỉ muốn xin ít tiền cho tiện…”. Nghe thế, quan án cho gọi chàng tới, hỏi mấy câu về văn chương, quả nhiên, anh chàng bề ngoài tuy rách rưới, tiều tụy, nhưng đối đáp rất trôi chảy, thơ phú, điển tích cũng phong phú. Sẵn có lòng yêu người tài giỏi, ông bèn đặc biệt lấy tiền ra cho, lại có phần hậu hơn những kẻ khác.
Khi về dinh, quan án thuật lại chuyện vừa rồi cho vợ nghe. Thấy tả hình dáng, người đàn bà ngờ rằng đó là người chồng cũ. Nàng ra chợ tìm cách đứng nấp để xem mặt, thì đúng là người chồng ngày xưa. Tự nhiên lòng thương chồng cũ nay lại bừng bừng bốc lên. Nàng phải nuốt thầm những giọt nước mắt, vì mình đang ở vào một tình thế khó xử. Suy đi nghĩ lại mãi, cuối cùng nàng dùng lời nói khéo cố khuyên người chồng mới đưa “người học trò khó mà có tài” đó về dinh, cho ở một gian lều sau trại. Như thế vừa làm được một việc nghĩa, vừa có người làm bạn văn chương. Được người chồng mới ưng thuận, nàng sung sướng vô hạn. Từ đó, ngầm sai người hầu chu cấp, chăm nom tử tế. Có điều, nàng không bao giờ để lộ một hành động gì cho chồng biết, và cũng không bao giờ cho người chồng cũ thấy mặt.
Người chồng cũ, hôm nọ đau bụng đi tả, vào giữa đêm khuya bị khát quá, bèn lần ra một cái chum gần trại múc nước uống. Hôm sau, chàng mới biết là mình uống nhầm phải một thứ nước trong đó có một con rắn trắng chết. Nhưng thật không ngờ, một thời gian sau những mụn hủi lở chốc bay hết, và dần dần bệnh tự nhiên lành hẳn; da thịt của chàng trở lại trắng trẻo như xưa. Rồi chàng ôn luyện kinh sử. Và nhờ sự giúp đỡ tận tình của quan án, chàng lại quẩy lều chõng đi thi.
Tất cả những việc đó xảy ra làm cho người đàn bà vừa vui mừng vừa đau khổ. Nàng thấy mình không thể chịu đựng âm thầm mãi như vậy được. Khi nghe tin người chồng cũ đậu tiến sĩ, sắp sửa vinh quy, nàng viết một bức thư rất dài kể hết nỗi lòng của mình cho người chồng mới biết. Nàng xin chồng tha lỗi về sự giấu giếm của mình từ bấy lâu nay. Có hai đứa con trai, nàng xin một đứa cho làm con nuôi ông nghè mới. Đoạn nàng trốn chồng con, bỏ đi biệt.
(Nguồn: Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, sđd., tr. 424-426)
(2) TIẾT PHỤ HAI CHỒNG qua một công trình về truyện truyền kì.
Đời nhà Lí, ở xã nọ thuộc huyện Nam Chân, có một nhà sinh được người con gái, từ lúc tóc còn tết bím đã thông minh không mấy người đọ nổi, lại biết chữ nghĩa và không hay buông thả nói cười. Cha nàng lấy làm lạ, lúc sắp mất dặn lại vợ rằng:
– Con gái ta lớn lên, thế nào cũng phải gả về anh nho sinh Mỗ làng nọ.
Rồi ông quay sang nói với con:
– Con hãy nhớ lấy lời cha, đừng gá nghĩa với ai khác.
Nói xong, ông tắt nghỉ.
Về sau, chàng nho sinh Mỗ nghe tin, bèn đến xin hỏi cô gái làm vợ. Vợ chồng rất tương đắc. Nhưng chỉ được ít lâu, chàng bỗng mắc bệnh hủi, không ai dám tới gần, mọi việc đều cậy nhờ vào vợ. Vợ một niềm kính yêu săn sóc, không chút nề hà. Đám trai trẻ tinh quái trong làng gặp nàng giữa đường, thường nhại bài thơ của Bạch Cư Dị để giễu:
Lưu Cương dữ phụ cộng thăng tiên Lộng Ngọc tùy phu diệc thướng thiên Hà tự nhi gia phu phụ hảo Hà cô Lí lão hợp sàng miên.
(Lưu Cương cùng vợ lên tiên Theo chồng, Lộng Ngọc cũng lên cõi trời Ai như nhà chị tốt đôi Cô Hà lão Lí cùng ngơi một giường)(5)
Người chồng biết chuyện, thẹn mình mắc chứng bệnh lạ lùng làm lụy đến vợ, bèn cho phép vợ cải giá. Nàng khóc lóc mà nói:
– Còn lời cha trăng trối đấy thì sao? Chẳng lẽ khi lành lặn thì ở với nhau, gặp lúc ốm đau lại chia lìa, thần nào chứng cho!
Rồi nàng nhất quyết không nghe. Chồng bèn thừa cơ trốn đi. Cả nhà tìm khắp, nhưng biệt tăm chẳng còn tung tích. Dẫu thế, nàng vẫn thề không đổi tiết. Mẹ đẻ nàng rất bực, nói dỗi:
– Chồng mày bị tàn tật, mà nay cũng còn đâu nữa. Mày định làm bà vãi ư? Thì tao biết nương tựa vai ai bây giờ?
Vừa lúc ấy, có anh học trò cũng người trong quận đến xin hỏi, bà mẹ bắt ép nàng phải nhận lời. Được vài năm, nàng sinh hai con trai, rồi người chồng lại thi đỗ, trải thăng đến chức đề hình tỉnh Sơn Tây.
Gặp năm đói kém, quan đề hình phụng mệnh vua đi phát chẩn cho dân. Bấy giờ, người ăn xin tụ tập đông như quạ, cả người học trò bị bệnh hủi kia cũng có mặt ở đấy. Khi phát gạo cho anh, anh không nhận, nói:
– Tôi ốm yếu đã lâu, không nấu nướng được, và cũng không có nồi, lấy gạo làm gì?
Đề hình nghe, lấy làm lạ, gọi anh đến hỏi:
– Anh là học trò ư? Là học trò hẳn cũng biết, người xưa những ai từng phải đi ăn xin chứ?
Chàng hủi lần lượt kể tên các ông Ngũ Viên, Đào Tiềm, Vương Bá(6),…, để đáp lại, lời lẽ rất trôi chảy. Quan lại càng lấy làm lạ, cấp cho một ít tiền, và sau khi về dinh rồi, vẫn còn than thở mãi. Thấy thế, phu nhân gạn hỏi lí do, ông nói:
– Vừa rồi, tôi đi phát chẩn, có người ăn xin là học trò, lại bị bệnh hủi, tôi đặt mấy câu hỏi khó, anh ta đều ứng đối được cả. Tội nghiệp con người như thế mà sao lại mắc bệnh hiểm nghèo thế chẳng biết!
Nàng nghe, ngờ là chồng cũ của mình, bèn lựa lời bảo chồng:
– Chí thành là đức của người danh sĩ. Ông tiếc gì một chút công khó, nỡ để cho người có học phải lụy với kiếp trong trần ư?
Quan thấy thế, liền cho gọi anh học trò hủi đến. Nàng dòm trộm thì quả là chồng cũ của mình, bèn khuyên ông cho anh ở nhờ trong nhà, và chu cấp rất hậu. Từ đó, bao giờ nàng cũng bận quần lót, thắt dây lưng thật chặt, và không chịu chung chăn gối với chồng nữa, chẳng ai hiểu là vì duyên cớ gì.
Một đêm kia, chàng hủi bỗng mắc bệnh đau bụng tháo dạ, mình nóng miệng khát, phải lần mò ra sân vục xuống uống nước trong một cái ang. Thế rồi, sáng hôm sau, bệnh hủi bỗng biến đâu mất. Xem lại, thì ra trong ang có con rắn trắng chết nằm trong ấy. Quan đề hình biết lấy làm mừng lắm, khuyên anh dự kì thi hương. Khoa ấy, anh đỗ hiếu liêm(7), rồi mùa xuân năm sau, lại đỗ luôn tiến sĩ.
Tin mừng về đến dinh, phu nhân bỗng ăn mặc chỉnh tề, bước ra nhà ngoài, lạy chồng mà nói:
– Thiếp là người không giữ tiết, chẳng đáng sống nữa làm gì; may được hầu khăn lược, đã có hai con trai, nay con lớn để lại thờ chàng, xin để đứa con thứ hai cho quan nghè mới, được thế, thiếp không còn ân hận gì nữa.
Dứt lời, nàng nuốt liều thuốc độc chết ngay. Chồng rất đỗi kinh ngạc. Đến khi vị tân khoa tiến sĩ vinh quy về tới nhà, nói chuyện với nhau, mới rõ nguồn cơn, bèn đem việc ấy tâu lên triều đình. Vua bèn ban cờ biển đề mấy chữ Lưỡng phu trinh tiết, nghĩa là tiết phụ hai chồng.
Vân Sử thị bàn rằng: Đã lấy hai chồng sao lại được gọi là trinh tiết? Vì có lấy hai chồng mới rõ tiết tháo của nàng. Nếu lấy anh chồng hủi mà trọn đời hài hòa cầm sắt thì cũng chỉ là cặp vợ chồng tốt mà thôi, chứ sao rõ ra được là người trinh tiết? Ta thấy người đời được lụa quên sồi, có mới nới cũ, có người lại còn ôm tả ấp hữu, ngủ đông ăn tây, đĩ già hoàn lương mà chồng còn cho là trinh. Đời mạt, ít có người hoàn toàn, thì gọi là “tiết phụ hai chồng” cũng được.
(Nguồn: Phạm Đình Dục, Vân nang tiểu sử, Nguyễn Đức Vân dịch – dẫn lại, theo: [TTK/II, 495-497])
So sánh hai văn bản vừa dẫn, ngoài những sự khác biệt như đã nêu, còn nhận ra:
– Nếu truyện cổ tích nhằm hướng tới những người bình thường (ngày trước, đa số là không biết chữ), thì truyện truyền kì nhằm vào lớp người có học và giới quan lại. Có thể thấy điều này, khi ở truyện truyền kì, tên các học vị, chức vụ chuẩn xác, câu hỏi của quan đề hình và lời đáp của anh học trò bị hủi khá bài bản, đặc biệt là bài thơ giễu đầy ắp các nhân vật trong sách vở Trung Hoa xưa, là những điều khó gặp ở truyện cổ tích – chưa nói đến chất giọng, quan niệm của người kể chuyện, một mực hướng về, hay bảo vệ tầng lớp nho sĩ.
Ở bài “Thể loại giai thoại” (in trong: Văn học dân gian người Việt – Góc nhìn thể loại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr. 423), Kiều Thu Hoạch viết: “Riêng trong các sách Hán Nôm, thì những mẩu chuyện mang nội dung giai thoại được ghi chép khá phong phú, rải rác từ thời Lê đến thời Nguyễn. Trong đó, sách Công dư tiệp kí chẳng hạn, ghi chép khá nhiều giai thoại xung quanh các nho sĩ”.
Điều này cho thấy, đã có sự thiếu nhất quán về quan niệm truyện truyền kì chẳng những ở các bộ sách được cho là có tập hợp loại truyện này, mà còn ở sự nhìn nhận về nó của các nhà nghiên cứu hiện nay. Sự thiếu nhất quán này đã khiến một số truyện được [TTK] chọn tuyển, là truyện cổ tích (như đã dẫn), giai thoại (như “Giữa đồng ép cuộc mây mưa” [TTK/II, 524-526](8)),…
3. Kết luận
Điều quan trọng là tránh đồng nhất hay coi giữa chúng có “đường biên”, bởi với hai thực thể riêng biệt thuộc hai lĩnh vực khác loại, đó là điều không thể. Nói cách khác, cái gọi là phần giao đã nói chỉ là một sự tương ứng về sự việc được đề cập hay phản ánh (chứ không phải cùng đường biên mà có).
T.N (TCSH330/08-2023)
——————– 1. Khái niệm “Truyện cổ tích thế tục” ở đây, tương ứng với “truyện cổ tích sinh hoạt”, “truyện cổ tích sinh hoạt xã hội”, “truyện cổ tích thế sự”,… Đồng thời, nó là một dạng viết tắt của “Truyện cổ tích thế tục Việt Nam”, bao gồm truyện cổ tích thế tục của người Kinh, và truyện cổ tích thế tục của người thiểu số.
2. Yếu tố thần kì gồm ba dạng cơ bản và một dạng kết hợp, như sau:
– Dạng 1:Các đối tượng siêu nhiên và chỗ trú ngụ của họ: Bụt, thần tiên, ma quỷ,…; thiên đình, thủy cung, địa phủ,… – Dạng 2:Các con vật, cây cối có tài phép: trăn tinh; đại bàng; con vật biết nói năng, hành động như người; cây chặt không đứt;… – Dạng 3:Các đồ vật có phép lạ: cây đàn thần; búa thần; gậy thần;… – Dạng 4:Sự kết hợp: a) Kết hợp giữa ba dạng 1, 2 và 3 với nhau: thần tiên biến thành con vật, cây cối và ngược lại; đồ vật biến thành con vật, cây cối và ngược lại;… b) Kết hợp giữa con người với ba dạng 1, 2 và 3: người được sinh đẻ và trưởng thành bất thường; người có tài phép như thần tiên, ma quỷ; người lấy thần tiên, ma quỷ; người mang lốt con vật, cây quả; người hóa thành con vật, cây cối, đồ vật;… Đã là truyện cổ tích thần kì thì phải có yếu tố thần kì, còn truyện cổ tích thế tục thì không có yếu tố ấy.
3. Tài liệu này chọn truyện từ 21 tập truyện chữ Hán (như: Công dư tiếp kí – Vũ Phương Đề; Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh; Vân nang tiểu sử -Phạm Đình Dục;…); 11 tập truyện quốc ngữ (như: Trại Bồ Tùng Linh -Thế Lữ; Báo oán – Nguyễn Tuân; Nằm vạ – Bùi Hiển;…).
4. Giao là một khái niệm được dùng khi tìm hiểu về tập hợp (giao của A và B là một tập hợp, gồm những phần tử thuộc cả A và B); ở đây, được mượn dùng.
5. Theo nguyên chú, bài thơ của Bạch Cư Dị (772-846) chỉ khác hai câu sau: “Hà dĩ Sa Kha lĩnh Thôi tẩu/ Bích du chàng dẫn hướng Tần Xuyên” (Sao lại như Sa Kha đưa chị họ Thôi đi/ Cờ biếc dẫn tới đất Tần Xuyên). Các tên Lưu Cương, Lộng Ngọc, Hà cô, Lí lão trong bài thơ phóng tác, đều là nhân vật thần tiên.
6. Ngũ Viên (?-484 tr. CN), người đời Xuân Thu; Đào Tiềm (khoảng 365-427), người đời Tấn; Vương Bá, người đời Đường. Cả ba đều là người hiền tài gặp vận đen, phải tạm ăn nhờ người khác.
7. Hiếu liêm: chỉ học vị cử nhân (đời Minh và đời Thanh, Trung Quốc, gọi người đỗ cử nhân là hiếu liêm).
8. Kể việc Nguyễn Công Trứ thuở chưa gặp thời, rất thích một nàng ca kĩ. Ông quảy gánh đi theo phục vụ việc ca hát của nàng ấy ở khắp nơi. Một hôm, khi nàng ca kĩ cùng ông và một chú bé mang đàn theo hầu đi ngang qua một cách đồng vắng vẻ, ông vờ bảo quên mang theo dây đàn, khiến chú bé phải chạy về lấy. Bấy giờ, ông ép nàng vào cuộc mây mưa. Nàng không chống cự nổi đành phải để mặc ông làm gì thì làm. Lúc ông hành sự, nàng có rên mấy tiếng “ứ hự”, vẻ nửa miễn cưỡng, nửa bằng lòng. Sau đó, ông tìm đường lỉnh đi. Về sau, Nguyễn Công Trứ đỗ đạt, ra làm quan. Một lần, nhân ngày sinh nhật của mình, ông triệu các con hát nổi tiếng ở nhiều nơi đến giúp vui. Nàng ca kĩ ngày xưa cũng đến dự. Nàng nhận ra ông quan chính là anh đầy tớ ngày nào, bèn hát rằng: “Giang sơn một gánh giữa đồng/ Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ không?”. Nghe nhắc lại chuyện xưa, ông nhớ ra, bèn bỏ ra nghìn vàng, cưới nàng làm vợ lẽ. Truyện này được chép ở nhiều tài liệu sưu tập giai thoại, như: a) Trương Chính, Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb. Văn học, 1983, tr. 163 (mục giai thoại); b) Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch, Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000, tr. 190-192; c) Ninh Viết Giao, Văn hóa dân gian xứ Nghệ – Tập 3: Truyện cười và giai thoại, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2012, tr. 537-538;…
Thuyết Minh Về Ngày Tết Cổ Truyền
Đề bài: Thuyết minh về ngày Tết cổ truyền
Việt Nam nổi tiếng với những nét văn hóa độc đáo và sâu sắc. Du khách đến với Việt Nam rất mong muốn được thưởng thức những bề dày văn hóa ấy. Đặc sắc văn hóa Việt là lễ hội. Các lễ hội lúc nào cũng đông người và tấp nập. Nhắc đến lễ hội là nhắc đến thế giới tâm linh của người Việt. Mà nói đến tâm linh, không thể không nhắc đến ngày tết cổ truyền.
Thuyết minh về ngày Tết cổ truyền
Ngày tết cổ truyền là dịp lễ quan trọng và lớn nhất của Việt Nam. Cũng giống như các nước phương tây theo đạo Thiên chúa thì lễ giáng sinh là ngày lễ thiêng liêng và quan trọng thì ngày tết cổ truyền được coi là lễ giáng sinh của Việt Nam. Ngày Tết cổ truyền gọi là tết nguyên đán hay tết âm lịch. Tết cổ truyền là thời khắc quan trọng của một năm. Bắt đầu vào ngày mùng 1 tháng 1 âm lịch của năm mới. Tết nguyên đán có thể rơi vào giữa tháng hai dương lịch của một năm. Thông thường ở Việt Nam, mỗi dịp chuẩn bị đến tết nguyên đán thì mọi người dù làm việc hay đi học đều có lịch nghỉ lễ. Thường sẽ được nghỉ lễ hơn một tuần và được nghỉ trước ngày 30 tháng chạp từ hai đến ba ngày. Để chuẩn bị cho ngày tết quan trọng của năm này, mọi nhà đều khá bận rộn. Điều được coi là công phu va tỉ mỉ nhất để chuẩn bị cho tết này chính là mâm cơm thờ cúng ông bà tổ tiên. Mâm cơm ngày tết ở mỗi địa phương lại có những nét đặc sắc riêng. Nhưng đều có một điểm chung đó là gà, xôi chè, bánh chưng và các món mặn ăn chung với cơm. Khác với mâm cơm thường ngày, mâm cơm ngày tết thịnh soạn và nhiều chất dinh dưỡng hơn, có hàm lượng chất béo và protein, đạm cao hơn so với những bữa ăn hàng ngày. Do đó mà nhiều ngày ăn chế độ như vậy dễ dẫn đến đầy bụng, khó tiêu. Đó là mâm cơm ngày tết được các bà các mẹ các chị chuẩn bị rất kĩ lưỡng trước ngày tết. Gia đình Việt sẽ cúng ông bà tổ tiên vào thời khắc thiêng liên nhất của một năm đó là lúc đồng hồ điểm 00 h đêm ngày 30 Tết. Sau đó sẽ cúng cả ngày mùng 1,2,3 Tết. Trên bàn thờ gia tiên ngoài mâm cơm còn có mâm ngũ quả, bánh kẹo, nước ngọt, bia lon, hoa cắm lọ. Hoa cắm lọ cũng được lựa chọn rất khắt khe, thường có màu sắc rực rỡ để đem lại may mắn cho năm mới. Ngoài ra, cắm cành đào cành mai trên bàn thờ gia tiên cũng là cách mà nhiều gia đình lựa chọn. Cũng tương tự như lọ hoa cắm thờ, màu sắc của những vật khác trên bàn thờ gia tiên cũng rực rỡ, tươi sáng, được bày biện đẹp mắt. Người miền Bắc đến nhà nhau vào dịp tết thường quan sát bàn thờ của gia chủ. Bàn thờ sẽ phản ánh sự sung túc đủ đầy của gia chủ trong năm vừa qua. Đó là về phong tục thờ cúng. Chưa hết, ngày tết cổ truyền còn có một phong tục là thăm hỏi gia đình người thân, bạn bè, hàng xóm vào dịp năm mới. Mỗi lần đến nhà thăm hỏi, những người chủ gia đình sẽ lì xì cho trẻ con và người lớn tuổi và dành cho nhau những lời chúc vào đầu năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự như ý. Đây không chỉ là phong tục mà còn là nét đẹp văn hóa của người Việt, quan tâm, mong cho mọi người có một cuộc sống đủ đầy và bình an.
Nhắc đến tết, không thể không nhắc đến những hoạt động khác được tổ chức xung quanh ngày tết như các trò chơi dân gian, những phiên chợ tết, phiên chợ ngắm hoa. Các trò chơi dân gian được tổ chức chủ yếu như là đập niêu, nhảy bao bố, kéo co, nhảy dây… Được tổ chức nhằm khuấy động không khí ngày tết thêm rộn ràng hơn. Các phiên chợ tết, chợ ngắm hoa cũng được tổ chức ra hàng năm để tăng thêm sự rộn ràng và sức nhiệp của ngày tết. Thêm vào đó là sự đông đúc từng lớp người lên đình chùa để cầu mong một năm mới với hi vọng mới và niềm vui mới. Đây là điều thể hiện sự tâm linh của người Việt. Từ người gia đến người trẻ cùng nhau lên chùa để mong có một năm mới thuận lợi hơn. Ngày tết có rất nhiều hoạt động bên lề được chờ đón. Những đêm văn nghệ chào mừng năm mới luôn là điều khiến không khí ngày tết “nóng” hơn, những tiếng cười của gia đình người thân được đoàn tụ về với gia đình, gương mặt rạng rỡ của trẻ nhỏ khi nhận được phong bao lì xì đỏ thắm, cành đào cành mai khoe sắc, nồi bánh chưng bập bùng ánh lửa. Đó là những hình ảnh đẹp không thể nào quên của ngày tết. Tết là ngày sum vầy đoàn tụ, là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Những người xa quê ngày tết không có điều kiện để trở về thèm lắm bữa cơm ngày tết cùng gia đình. Vài ba câu đối đỏ đã trở thành hình ảnh quen thuộc của ngày tết quê hương, Thích nhất là cảnh gói bánh chưng, trông nồi luộc bánh chưng. Tết về, các bà các mẹ lại quây quần bên nhau gói những chiếc bánh chưng thật đẹp thật vuông vắn. Mấy đứa trẻ con cũng nhao nhao đòi gói đòi buộc làm cho không khí góc bếp càng rộn ràng hơn. Rồi không khí trông nồi bánh chưng chín để chờ đến thời khắc giao thừa thiêng liêng ngắm pháo hoa và nhận lì xì từ bố mẹ. Đó là cái khoảnh khắc không thể nào quên của một đời người.
Ngày tết cổ truyền đã là biểu tượng văn hóa, ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người Việt. Ngoài là dịp để con cháu quây quần bên gia đình, đoàn tụ với người thân. Không khí đầm ấm của ngày tết là điều mà không ai có thể quên được.
Thống kê tìm kiếm
thuyết minh về tết cổ truyền
thuyết minh về têt nguyên đán
thuyết minh về ngày tết cổ truyền
thuyết minh về ngày tết
thuyet minh ve tet co truyen viet nam
thuyết minh về ngày tết quê em
Nghe Đọc Truyện Cổ Tích: Truyền Thuyết Ngưu Lang Chức Nữ
TRUYỀN THUYẾT NGƯU LANG CHỨC NỮ Đọc Truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ
Chức Nữ là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, và cô rất khéo léo trong việc dệt nên các mẫu vải đẹp và đầy màu sắc. Khi các bạn nhìn thấy những khung trời sáng lạn và những cầu vồng bảy sắc, nó hẳn là từ đôi tay khéo léo của nàng Chức Nữ.
Ngưu Lang là một chàng chăn bò vốn sinh ra trong một gia đình nghèo ở miền nam Trung Quốc. Cha mẹ của anh đã mất khi anh còn rất trẻ, và anh lớn lên với nhiều khổ cực. Anh sống cô độc và chăn bò để kiếm sống. Anh rất trung thực, tử tế và siêng năng, nhưng vì nghèo, anh không thể nào tìm được một người phụ nữ để kết hôn.
Một ngày, khi đang chăn bò trên đồng cỏ, Ngưu Lang trông thấy chín tiên nữ hạ xuống bên bờ sông. Anh ẩn nấp phía sau những cái cây và quan sát. Những nàng tiên nữ này trút bỏ xiêm y sặc sỡ của họ, bỏ chúng lại bên bờ sông, và bất đầu chơi đùa trong nước. Ngưu Lang sửng sốt trước vẻ đẹp của họ, đặc biết là nhan sắc của cô trẻ nhất, người đã thu hút cặp mắt của anh.
Một con bò mà anh đã chăm sóc trong nhiều năm đột nhiết cất giọng nói với Ngưu Lang, “Cô ấy là tiên nữ trên thiên đàng. Nếu anh giấu đi xiêm y của cô ấy, cô ấy sẽ không thể nào trở về được – cô ấy sẽ ở lại và cưới anh.” Con bò bảo anh cái bộ xiêm y nào là thuộc về Chức Nữ.
Một lúc sau, khi những nàng tiên chuẩn bị rời đi, Chức Nữ bị tụt lại phía sau. Không thể tìm thấy xiêm y của mình, nàng không thể bay về trời. Ngưu Lang đi ra từ sau những cái cây. Anh đưa trả cho Chức Nữ quần áo. Nhưng lúc đó, thời khắc trở về của nàng đã trôi qua.
Ngưu Lang hỏi cưới Chức Nữ. Trong khi không vui vì anh đã giấu quần áo của mình, nàng thấy rằng Ngưu Lang là một người đàn ông tốt, do vậy nàng đã đồng ý cưới anh.
Ngưu Lang và Chức Nữ đã sống một cuộc sống hạnh phúc với nhau. Họ yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, và cả hai đều làm việc rất chăm chỉ. Đôi tay khéo léo của Chức Nữ đã biến túp lều đơn giản của Ngưu Lang thành một căn nhà đẹp và ấm cúng.
Hai năm trôi qua thật nhanh, và Chức Nữ đã sinh hạ được hai đứa trẻ, một trai và một gái.
Hai năm trên mặt đất chỉ là một thoáng trên thiên đàng. Ngay khi những người chị của Chức Nữ trở về thiên đàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế đã phát hiện ra cô con gái út của ông vắng mặt. Ông sau đó nhìn thấy rằng cô đã cưới một thường nhân ở hạ giới. Ông đã nổi giận, và ra lệnh cho Vương Mẫu dẫn một đội thiên binh để mang Chức Nữ trở về.
Ở hạ giới, bầu trời đột nhiên trở nên tối đen và gió bắt đầu gào thét. Một lát sau, các thiên binh đã tới và mang Chức Nữ đi.
Cho dù lo lắng rằng ngày này có thể tới, Ngưu Lang vẫn bị bất ngờ, và sau đó anh trở nên liều lĩnh. Cho mỗi đứa con vào một cái thúng và gánh hai cái thúng trên vai, Ngưu Lang bắt đầu chạy theo những người đã bắt vợ của mình. Khi những thiên binh hạ bay lên thiên đàng, Ngưu Lang cũng phát hiện ra anh đã bay cùng với họ. Anh vội vào nhào tới và khoảng cách giữa anh với người vợ dường như đang thu hẹp lại.
Vào khoảnh khắc đó, Vương Mẫu đã quẳng chiếc trâm cài đầu bằng vàng xuống trước mặt Ngưu Lang. Cái trâm trở thành một dòng sông bất tận, chia cắt anh với người vợ của mình. Dòng sông này sau đó được biết đến như là dải Ngân Hà.
Ngưu Lang và nàng tiên nữ nhìn nhau qua dòng sông thần rộng mênh mông; nước mắt ngập tràn, họ đã mong mỏi được sang bờ kia cùng nhau. Cảm động trước tình yêu vĩ đại của họ, những con quạ đã tạo thành một cây cầu bằng thân thể của chúng để bắc qua con sông thần.
Vương Mẫu nhìn thấy tình yêu mà Chức Nữ và Ngưu Lang giành cho nhau. Bà cho phép họ được gặp nhau một lần mỗi năm, vào buổi tối của cuộc chia ly bắt buộc của họ, ngày mồng 7 tháng 7.
Trong đêm ngày mồng 7 tháng 7, bạn sẽ thấy rất ít quạ, vì hầu hết chúng đã bay lên để làm nên chiếc cầu thần thánh. Nếu gió lặng và bạn lắng nghe cẩn thận, bạn có thể nghe thấy tiếng thì thầm của Ngưu Lang và Chức Nữ đang biểu lộ tình yêu và nỗi khắc khoải với nhau.
HẾT
Đọc cho bé nghe những câu chuyện cổ tích Việt nam và cổ tích thể giới hay nhất
Thế Giới Truyện Cổ Tích Kì Lạ Của Tôi
Một cái mười một hai tuổi tiểu loli, dám truy con thỏ tinh, nhận thức cái đại nam nhân còn không đến nửa ngày, thế nhưng khiến cho hôn nàng, Âu Châu tiểu loli thật sự là có đủ gan lớn cùng dũng cảm, dương nghị thực kinh ngạc, quay đầu ngượng ngập nói: “Chúng ta vừa mới nhận thức, này như thế nào không biết xấu hổ!”
Xoay đầu mới phát hiện hắn tự mình đa tình, tiểu loli chỉ vào ba điều chân trên bàn một cái pha lê bình nhỏ, ở cái kia bình nhỏ mặt trên, đoan đoan chính chính viết hai cái chữ Hán, uống ta! Thế nhưng vẫn là chữ giản thể, dương nghị nhịn không được phiên cái đại đại xem thường, thật đúng là cùng hắn nhớ rõ cốt truyện phát triển giống nhau.
Alice oai oai đầu nhìn dương nghị nói: “Cám ơn ngươi quan tâm, ta sẽ không loạn uống, ta biết có người uống lên không sạch sẽ thủy, sẽ tiêu chảy, nhà của chúng ta đối diện kiệt khắc, chính là bởi vì uống lên không sạch sẽ thủy, suốt sinh bệnh hơn phân nửa tháng, người đều gầy một vòng, ta nếu là uống lên không sạch sẽ thủy, khẳng định cũng sẽ giống hắn giống nhau, cho nên ta sẽ thực cẩn thận…… Di, bình nhỏ thủy thực sạch sẽ ai!”
Lẩm bẩm xong, giơ lên bên miệng uống một ngụm, tốc độ cực nhanh, dương nghị căn bản vô pháp ngăn cản, Alice phía trước nói một đống lớn nàng như thế nào cẩn thận nói, nghe đi lên là cái thực cẩn thận tiểu nha đầu, ai có thể nghĩ đến nói uống liền uống a, dương nghị ngốc bức nhìn hung hãn tiểu loli, Alice lại liếm liếm môi nói: “Uống ngon thật, nó hỗn có điểm anh đào hương vị, giống như còn có chút dứa, bơ linh tinh hương vị, ân ân, thật sự khá tốt uống, ngươi muốn hay không cũng uống thượng một ngụm……”
Lảm nhảm Alice vẫn như cũ là vô nghĩa hết bài này đến bài khác, dương nghị lại kinh ngạc nhìn Alice từ một thước năm tả hữu, nhanh chóng bắt đầu thu nhỏ lại, thu nhỏ lại tới rồi cái bàn phía dưới, thu nhỏ lại tới rồi mười tấc Anh tả hữu, dương nghị chỉ có nằm bò mới có thể cùng Alice nói chuyện, càng làm cho dương nghị không thể tưởng được chính là, Alice không những không có sợ hãi, ngược lại cao hứng mặt mày hớn hở, hoan hô thanh nói: “Ta trở nên như vậy tiểu, liền có thể đi vào những cái đó môn đi.”
Vui sướng chạy hướng kia mấy phiến đóng lại gắt gao cửa nhỏ, dương nghị trợn mắt há hốc mồm, đứa nhỏ này thiếu tâm nhãn đi? Ngay sau đó hắn liền đem ánh mắt nhìn về phía ba điều chân trên bàn, trên bàn phóng một phen kim sắc chìa khóa, một cái pha lê bình nhỏ, bên trong có chất lỏng trong suốt, hiển nhiên Alice chính là uống lên cái chai nước thuốc thu nhỏ.
Quả nhiên có có thể thu nhỏ nước thuốc, đây chính là cái thứ tốt, dương nghị không chút khách khí cất vào trong túi, ngay sau đó cầm lấy chìa khóa đi xem Alice, lại phát hiện Alice khóc lóc chạy trở về, đối hắn la to nói: “Ta quên lấy chìa khóa, ta còn là ra không được.” Một bên khóc kêu, một bên bắt lấy cái bàn chân hướng về phía trước bò, lại như thế nào cũng bò không được, một bò vừa ra lưu, một bò vừa ra lưu……
Dương nghị hít một hơi thật sâu, nói cho chính mình nhất định phải bình tĩnh, trước mắt tình hình đã sớm vượt qua hắn có khả năng lý giải phạm trù, liền nơi này là cái địa phương quỷ quái gì cũng không biết, muốn từ thụ động bò đi ra ngoài, thụ động nghiêng góc độ cùng chiều dài, tuyệt đối là thiên phương dạ đàm, nhưng là hắn biết Alice cuối cùng là đi ra con thỏ động, nói cách khác, ở cái này hoang đường trong thế giới, Alice mới là vai chính.
Chỉ cần đi theo Alice hỗn, cuối cùng sẽ bình bình an an, như vậy hắn liền cần thiết bất quá nhiều can thiệp Alice, tuy rằng nha đầu này có điểm nhị, dương nghị nhớ tới tốt nghiệp đại học thời điểm, chủ nhiệm lớp cho hắn nhắn lại, chiến lược: Nước chảy bèo trôi, chiến thuật: Tùy cơ ứng biến, hắn hiện tại cần phải làm là tùy cơ ứng biến.
Dương nghị là cái yên vui phái, vẫn là cái hành động phái, suy nghĩ cẩn thận liền sẽ không ở do dự, ngồi xổm xuống nhìn còn ở nỗ lực bò cái bàn chân Alice nói: “Ngươi đừng có gấp, ta cầm chìa khóa đi mở cửa.”
Làm vai phụ liền phải có đương vai phụ giác ngộ, dương nghị không thể nghi ngờ là thực thức thời một người, cầm lấy kim sắc chìa khóa đi mở cửa, khai nửa ngày, trung gian một phiến môn đột nhiên bị mở ra, dương nghị tức khắc hoan hô một tiếng, nhưng bị mở ra môn thật sự là quá nhỏ, tiểu nhân hắn chỉ có thể vươn cái đầu, dương nghị vươn đầu nhìn nhìn, không đợi có điều phát hiện, bả vai đột nhiên bị chụp một chút, dương nghị đột nhiên lùi về đầu, xoay người lại, lại phát hiện Alice có hai mét rất cao, trừng mắt đôi mắt nhìn hắn, hơn nữa còn ở tiếp tục trường cao.
Dương nghị cau mày, la lớn: “Ngươi lại ăn cái gì?”
Alice đã so Diêu minh đều cao, chỉ chỉ ngầm, dương nghị cúi đầu tìm tìm, ở cái bàn phía dưới phát hiện một hộp nho nhỏ bánh bích quy, hộp mặt trên viết hai chữ, ăn ta! Alice khẳng định là ăn bánh bích quy mới biến đại, ngọa tào, bánh bích quy còn có như vậy công hiệu đâu? Nếu là chỉnh đi ra bên ngoài, nghiên cứu bánh bích quy trung thành phần, kia đã có thể phát đại tài.
Những cái đó trường không cao người, chỉ cần ăn bánh bích quy, những cái đó đinh đinh tiểu nhân, nếu là mạt điểm bánh bích quy tra…… Tưởng không thành thổ hào đều khó a, bản chất chính là gian thương dương nghị đôi mắt ứa ra nhân dân tệ, nhìn nho nhỏ bánh bích quy hộp, dương nghị nhịn xuống muốn ăn chút khát vọng, hắn nhớ tới Alice bắt đầu khóc chuyện sau đó, Alice nước mắt thành hà, bị hướng đi rồi.
Như vậy nguy hiểm sự, vẫn là thiếu phát sinh tuyệt vời, huống chi môn đều bị mở ra, dương nghị vội vàng trước đem bánh bích quy cất vào trong túi, lại từ móc ra cái kia nho nhỏ bình thủy tinh, đối Alice nói: “Uống một chút, chỉ có thể uống một chút.”
Alice đều trường đến nóc nhà, cùng cái người khổng lồ giống nhau, nhưng thật ra nghe lời, vươn bàn tay to tiếp nhận dương nghị trong tay bình nhỏ, vừa muốn ngưỡng cổ uống, dương nghị đột nhiên hô to một tiếng: “Đừng uống, dùng liếm, một chút liếm, ôn nhu liếm.”
Alice bị dương nghị kêu có điểm lăng, trên cao nhìn xuống nhìn hắn một cái, kia mắt to so với hắn đầu đều đại…… Dương nghị vội vàng nói: “Liếm, mới có thể khống chế thân cao, ngươi không nghĩ đột nhiên trở nên cùng con kiến giống nhau tiểu đi?”
Alice gật gật đầu, bang bang! Đâm nóc nhà thẳng lắc lư, chỉnh dương nghị cũng là kinh hồn táng đảm, cũng may Alice nghe nàng lời nói, bắt đầu một chút liếm trong tay bình nhỏ khẩu, liếm một chút lùn một chút, liếm một chút lùn một chút…… Thực mau khôi phục tới rồi nguyên lai thân cao, dương nghị tinh thần rung lên, làm Alice tiếp tục liếm, ít nhất đến thu nhỏ lại đến có thể đi vào môn đi a.
Thực mau Alice liền thu nhỏ lại đến cùng môn giống nhau lớn nhỏ, dương nghị xem chuẩn thời cơ, một phen đoạt lấy Alice trong tay tiểu bình thủy tinh, hiện tại hắn cần phải làm là cùng Alice giống nhau, liếm bình khẩu nước thuốc, trở nên có thể từ môn đi ra ngoài, chính là bình khẩu bị Alice liếm tràn đầy nước miếng, cũng quá ghê tởm……
Dương nghị dùng quần áo xoa xoa bình khẩu thượng nước miếng, vừa muốn liếm, liền nghe Alice hoan hô một tiếng nói: “Ta trước đi ra ngoài nhìn xem.”
Nói xong, phong giống nhau từ môn chui đi ra ngoài, nhìn Alice biến mất bóng dáng, dương nghị âm thầm cảm thán, thật là cái phong giống nhau loli, thật không phải giống nhau nhị, đó là thật nhị, nhị kính vừa lên tới, cái gì đều không quan tâm, nhanh chân liền chạy, dương nghị thật vất vả suy nghĩ cẩn thận đương vai phụ, vai chính chạy, kia trận này diễn còn có thể hay không diễn đi xuống? Dương nghị vội vàng hô: “Từ từ ta!”
Alice đã theo cửa nhỏ chạy đi ra ngoài, dương nghị cũng bất chấp ghê tởm, vội vàng đi liếm bình nhỏ, liếm một chút tiểu một chút, liếm một chút tiểu một chút, thực mau cũng thu nhỏ lại tới rồi có thể qua môn, dương nghị không dám chậm trễ, ôm dược bình đuổi theo.
Dương nghị thu nhỏ lại sau, phát hiện một vấn đề, đó chính là bình thủy tinh vô pháp thu nhỏ lại, phía trước cầm rất nhỏ, nhưng hiện tại lại cơ hồ có hắn giống nhau độ cao, hơn nữa biến trầm, muốn ném xuống, lại có chút luyến tiếc, ai biết về sau dùng không cần thượng bình nhỏ nước thuốc? Quá đặc mẹ thần kỳ, cần phải không ném, ôm bình thủy tinh, cũng liền chạy hai bước, đệ tam bước liền chạy bất động.
Chạy quá môn là cực hạn, dương nghị đều không rảnh lo xem bốn phía là cái tình huống như thế nào, hắn đầu tiên cân nhắc chính là, giải quyết như thế nào cái này tiểu bình thủy tinh? Bình thủy tinh nước thuốc bôi trên bình thủy tinh mặt ngoài, có thể hay không thu nhỏ? Thu nhỏ sau, nước thuốc có thể hay không thu nhỏ? Cũng không kịp nghĩ nhiều, dương nghị vội vàng đem bình thủy tinh nước thuốc nghiêng đảo ra tới điểm, hắn không dám dùng tay đi sờ nước thuốc, sợ tay thu nhỏ, đem nội y xé xuống tới một khối, dính điểm cái chai nước thuốc.
Kỳ dị sự tình đã xảy ra, nước thuốc nổi lên tác dụng, bình thủy tinh thu nhỏ, lau vài cái, trở nên cùng nước hoa bình như vậy đại, có thể cất vào trong túi, dương nghị nhịn không được hoan hô một tiếng, vội vàng dùng trong tay bố đem cái chai khẩu tắc trụ, cất vào trong lòng ngực, cùng lúc đó toát ra cái ý niệm, nếu là ở bình thủy tinh rải điểm có thể biến đại bánh bích quy mạt, cái chai có thể hay không vẫn luôn biến đại?
Thật muốn là như vậy, hắn liền có sử không xong thu nhỏ lại nước thuốc, hắn thực vừa lòng chính mình chỉ số thông minh, cao hứng hạ, ngẩng đầu đi tìm Alice, lại là đột nhiên sửng sốt, môn bên này là một cái ngũ thải ban lan thế giới, nơi này đóa hoa so với hắn đầu đều đại, tiểu thảo như là cây cối, chân trời có đủ mọi màu sắc đám mây, lại nhìn không tới thái dương, toàn bộ thế giới thực sáng ngời.
Không thể hiểu được sáng ngời, Alice lại đã sớm không có bóng dáng, dương nghị ngốc bức hạ, mơ hồ trung phía trước có lượng lệ quang mang phát ra, ẩn ẩn truyền đến tiếng ca, này tiếng ca tựa như ảo mộng, phảng phất ở triệu hoán hắn, làm hắn đến chính mình bên người tới.
Có tiếng ca địa phương liền nhất định sẽ có người, nghĩ đến đây dương nghị nhịn không được trong lòng kinh hỉ, bước nhanh hướng rừng cây chỗ sâu trong đi đến, tiếng ca càng ngày càng rõ ràng, hắn nghe được ra đây là một cái nữ tử tiếng ca, một cái thoáng như tiếng trời thanh âm, hắn sống đến lớn như vậy, còn chưa bao giờ nghe được quá như vậy êm tai tiếng ca.
Gần, càng ngày càng gần, rốt cuộc tới rồi thất thải quang mang sở tại, lâm đi xa gần mới thấy rõ ràng, lúc trước nhìn đến thất thải quang mang thế nhưng là mấy chục cây thật lớn đóa hoa phát ra quang mang, thật lớn đóa hoa mỗi một đóa đều không giống nhau, phảng phất là trong suốt, lại tản mát ra xích cam lam lục thanh hồng tím bất đồng quang mang, tiếng ca chính là từ này mấy chục cây thật lớn đóa hoa quay chung quanh hạ truyền ra tới.
Sở hữu đóa hoa đều ở rất nhỏ lay động, phảng phất ở vì tiếng ca bạn nhảy. Mà theo đóa hoa nhẹ vũ từng đợt thơm mát thanh nhã mùi hoa xông vào mũi, cái này địa phương mỹ lệ thế nhưng giống như tiên cảnh giống nhau. Dương nghị không có tâm tư đi ngắm phong cảnh, mà là sốt ruột hướng phía trước mà đi, lột ra so với hắn còn cao đóa hoa muốn tìm được người, mà khi hắn chen vào hướng đi trước vừa thấy, lại ngây ra một lúc ngốc đứng ở tại chỗ.
Cập nhật thông tin chi tiết về Vài Nét Tìm Hiểu Về Vai Trò Của Yếu Tố Kì Ảo Trong Truyền Thuyết, Truyện Cổ Tích Và Truyền Kì trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!