Bạn đang xem bài viết Truyền Thuyết Về Trái Đào được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Truyền thuyết về trái Đào
(Truyện cổ Trung Quốc)
Lâu lắm rồi ở miền Bắc Trung Quốc nọ có một làng nhỏ nằm heo hút trên một ngọn núi cao chỉ vài gia đình sống ở đó.Trong làng ấy có một chàng trai dũng cảm với trái tim tấm lòng nhân hậu tên là Đào tử. Mọi nguời trong làng đều rất yêu mến chàng. Cũng ở trong làng ấy có một cô gái tên là Tiểu Mỹ.
Tiểu Mỹ xinh đẹp, thông minh lại đàn hay hát giỏi. Đào Tử coi Tiểu Mỹ như em gái mình. Họ hay cùng nhau nói chuyện và ca hát, dần dần họ yêu nhau từ lúc nào cũng không hay. Tiểu Mỹ và Đào tử yêu nhau lắm nhưng khổ một nỗi Tiểu Mỹ lại là một nàng tiên và chẳng bao lâu nữa sẽ phải về trời. Do Tiểu Mỹ rất yêu Đào Tử nàng không muốn làm chàng đau khổ cho nên một hôm Tiểu Mỹ lạnh lùng nói với Đào Tử rằng:Thực ra người mà em yêu phải là người cực kỳ dũng cảm, nhưng anh lại không khống chế nổi tình cảm của em điều này cho thấy anh không phải là người dũng cảm nhất. Khi nào anh trở nên dũng cảm nhất em sẽ quay lai với anh.Thế rồi từ đó họ không gặp nhau nữa.
Lời nói của Tiểu Mỹ in sâu vào trong lòng Đào Tử.Chàng ở vào thế tiến thoái luỡng nan: Yêu Tiểu Mỹ nhưng nàng không yêu, cố quên nàng đi nhưng không quên nổi. Trái tim chàng lúc đập rộn ràng lúc thì băng giá. Khuôn mặt chàng đã mất dần màu máu, trái tim chàng đã bị cứng lại. Một hôm họ tình cờ gặp nhau Đào Tử nói cho Tiểu Mỹ nỗi đau khổ của mình, chàng nói với Tiểu Mỹ: ‘”Trái tim anh đã băng giá và khô cứng. Anh rất yêu em, anh yêu em bao nhiêu thì tim cứng bấy nhiêu. Anh không tin là em không yêu anh, anh chỉ muốn xem xem, trái tim em có phải vì Tình yêu mà cũng băng giá. “Sống trên cõi đời này không còn ý nghĩa gì đối với đôi trai gái này cho nên họ cùng móc trái tim của mình ra cho nhau xem và cùng chết. Nguời dân cùng làng vì cảm động trước mối tình của đôi trai gái cho nên đã chôn hai người cùng với nhau. Cùng đêm đó có một trận mưa lớn suốt đêm, dân làng nghe thấy có tiếng nói chuyện ở ngoài đường cái nhưng chẳng ai dám ra xem là có chuyện gi? Thế rồi sáng hôm sau, trên ngôi mộ của đôi trai gái mọc lêm một cái cây nhỏ, trên cây mọc đầy những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt. Hoá ra là xác của Đào Tử mọc thành cái cây .Dân làng vì để tưởng nhớ tới Đào Tử chàng trai dũng cảm đã lấy tên chàng đặt cho cái cây ấy. Còn về Tiểu Mỹ,nàng đã hoá thành nhũng bông hoa màu hồng ấy. Sau khi chết linh hồn của nàng bay về trời nhưng nàng vẫn còn lưu luyến với mối tình ở duới trần gian Vương mẫu nương nương cảm động trước tình cảm ấy đã phong cho nàng cái tên Đào hoa nương nương tượng trưng cho Tình yêu.
Hè năm đó, trên cái cây ấy kết đày những quả có có hình trái tim gắn liền với nhau.Những người biết câu chuyện này thường sợ cây Đào đau cho nên họ đợi cho quả Đào có màu đỏ và trở nên mềm thì mới ăn. Kỳ thứ trong quả Đào còn có một cái hạt cứng bảo vệ trái tim đã hoá đá. Từ năm đó trở đi nguời dân ở đây coi hoa Đào là loại hoa tượng trưng cho Tình yêu, gỗ của cây Đào dùng làm bùa tránh tà.
Thuyết Minh Về Ngày Tết Cổ Truyền
Đề bài: Thuyết minh về ngày Tết cổ truyền
Việt Nam nổi tiếng với những nét văn hóa độc đáo và sâu sắc. Du khách đến với Việt Nam rất mong muốn được thưởng thức những bề dày văn hóa ấy. Đặc sắc văn hóa Việt là lễ hội. Các lễ hội lúc nào cũng đông người và tấp nập. Nhắc đến lễ hội là nhắc đến thế giới tâm linh của người Việt. Mà nói đến tâm linh, không thể không nhắc đến ngày tết cổ truyền.
Thuyết minh về ngày Tết cổ truyền
Ngày tết cổ truyền là dịp lễ quan trọng và lớn nhất của Việt Nam. Cũng giống như các nước phương tây theo đạo Thiên chúa thì lễ giáng sinh là ngày lễ thiêng liêng và quan trọng thì ngày tết cổ truyền được coi là lễ giáng sinh của Việt Nam. Ngày Tết cổ truyền gọi là tết nguyên đán hay tết âm lịch. Tết cổ truyền là thời khắc quan trọng của một năm. Bắt đầu vào ngày mùng 1 tháng 1 âm lịch của năm mới. Tết nguyên đán có thể rơi vào giữa tháng hai dương lịch của một năm. Thông thường ở Việt Nam, mỗi dịp chuẩn bị đến tết nguyên đán thì mọi người dù làm việc hay đi học đều có lịch nghỉ lễ. Thường sẽ được nghỉ lễ hơn một tuần và được nghỉ trước ngày 30 tháng chạp từ hai đến ba ngày. Để chuẩn bị cho ngày tết quan trọng của năm này, mọi nhà đều khá bận rộn. Điều được coi là công phu va tỉ mỉ nhất để chuẩn bị cho tết này chính là mâm cơm thờ cúng ông bà tổ tiên. Mâm cơm ngày tết ở mỗi địa phương lại có những nét đặc sắc riêng. Nhưng đều có một điểm chung đó là gà, xôi chè, bánh chưng và các món mặn ăn chung với cơm. Khác với mâm cơm thường ngày, mâm cơm ngày tết thịnh soạn và nhiều chất dinh dưỡng hơn, có hàm lượng chất béo và protein, đạm cao hơn so với những bữa ăn hàng ngày. Do đó mà nhiều ngày ăn chế độ như vậy dễ dẫn đến đầy bụng, khó tiêu. Đó là mâm cơm ngày tết được các bà các mẹ các chị chuẩn bị rất kĩ lưỡng trước ngày tết. Gia đình Việt sẽ cúng ông bà tổ tiên vào thời khắc thiêng liên nhất của một năm đó là lúc đồng hồ điểm 00 h đêm ngày 30 Tết. Sau đó sẽ cúng cả ngày mùng 1,2,3 Tết. Trên bàn thờ gia tiên ngoài mâm cơm còn có mâm ngũ quả, bánh kẹo, nước ngọt, bia lon, hoa cắm lọ. Hoa cắm lọ cũng được lựa chọn rất khắt khe, thường có màu sắc rực rỡ để đem lại may mắn cho năm mới. Ngoài ra, cắm cành đào cành mai trên bàn thờ gia tiên cũng là cách mà nhiều gia đình lựa chọn. Cũng tương tự như lọ hoa cắm thờ, màu sắc của những vật khác trên bàn thờ gia tiên cũng rực rỡ, tươi sáng, được bày biện đẹp mắt. Người miền Bắc đến nhà nhau vào dịp tết thường quan sát bàn thờ của gia chủ. Bàn thờ sẽ phản ánh sự sung túc đủ đầy của gia chủ trong năm vừa qua. Đó là về phong tục thờ cúng. Chưa hết, ngày tết cổ truyền còn có một phong tục là thăm hỏi gia đình người thân, bạn bè, hàng xóm vào dịp năm mới. Mỗi lần đến nhà thăm hỏi, những người chủ gia đình sẽ lì xì cho trẻ con và người lớn tuổi và dành cho nhau những lời chúc vào đầu năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự như ý. Đây không chỉ là phong tục mà còn là nét đẹp văn hóa của người Việt, quan tâm, mong cho mọi người có một cuộc sống đủ đầy và bình an.
Nhắc đến tết, không thể không nhắc đến những hoạt động khác được tổ chức xung quanh ngày tết như các trò chơi dân gian, những phiên chợ tết, phiên chợ ngắm hoa. Các trò chơi dân gian được tổ chức chủ yếu như là đập niêu, nhảy bao bố, kéo co, nhảy dây… Được tổ chức nhằm khuấy động không khí ngày tết thêm rộn ràng hơn. Các phiên chợ tết, chợ ngắm hoa cũng được tổ chức ra hàng năm để tăng thêm sự rộn ràng và sức nhiệp của ngày tết. Thêm vào đó là sự đông đúc từng lớp người lên đình chùa để cầu mong một năm mới với hi vọng mới và niềm vui mới. Đây là điều thể hiện sự tâm linh của người Việt. Từ người gia đến người trẻ cùng nhau lên chùa để mong có một năm mới thuận lợi hơn. Ngày tết có rất nhiều hoạt động bên lề được chờ đón. Những đêm văn nghệ chào mừng năm mới luôn là điều khiến không khí ngày tết “nóng” hơn, những tiếng cười của gia đình người thân được đoàn tụ về với gia đình, gương mặt rạng rỡ của trẻ nhỏ khi nhận được phong bao lì xì đỏ thắm, cành đào cành mai khoe sắc, nồi bánh chưng bập bùng ánh lửa. Đó là những hình ảnh đẹp không thể nào quên của ngày tết. Tết là ngày sum vầy đoàn tụ, là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Những người xa quê ngày tết không có điều kiện để trở về thèm lắm bữa cơm ngày tết cùng gia đình. Vài ba câu đối đỏ đã trở thành hình ảnh quen thuộc của ngày tết quê hương, Thích nhất là cảnh gói bánh chưng, trông nồi luộc bánh chưng. Tết về, các bà các mẹ lại quây quần bên nhau gói những chiếc bánh chưng thật đẹp thật vuông vắn. Mấy đứa trẻ con cũng nhao nhao đòi gói đòi buộc làm cho không khí góc bếp càng rộn ràng hơn. Rồi không khí trông nồi bánh chưng chín để chờ đến thời khắc giao thừa thiêng liêng ngắm pháo hoa và nhận lì xì từ bố mẹ. Đó là cái khoảnh khắc không thể nào quên của một đời người.
Ngày tết cổ truyền đã là biểu tượng văn hóa, ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người Việt. Ngoài là dịp để con cháu quây quần bên gia đình, đoàn tụ với người thân. Không khí đầm ấm của ngày tết là điều mà không ai có thể quên được.
Thống kê tìm kiếm
thuyết minh về tết cổ truyền
thuyết minh về têt nguyên đán
thuyết minh về ngày tết cổ truyền
thuyết minh về ngày tết
thuyet minh ve tet co truyen viet nam
thuyết minh về ngày tết quê em
Truyền Thuyết Mai An Tiêm
Truyền thuyết Mai An Tiêm – Sự tích dưa hấu
Nhiều năm về trước, vào thời Hùng Vương, đất nước ta rất trù phú và rộng lớn với những ngọn núi cao tới 9 tầng mây, những con sông rộng mênh mông và những khu rừng bạt ngàn với rất nhiều các loài cây và muông thú.
Ở thời đó ruộng đồng vẫn còn rất thưa thớt và các loại cây cho trái ngon, quả ngọt chưa được phong phú như thời bây giờ vì mọi người vẫn chưa khám phá ra hết để mang về trồng.
Vua Hùng Vương thứ 17 có nuôi một người con nuôi tên là Mai An Tiêm. An Tiêm rất tháo vát và đặc biệt là có trí thông minh hơn người. Vua Hùng rất yêu quý An Tiêm nên khi có của ngon vật quý là vua hay ban cho An Tiêm.
An Tiêm rất thẳng tính, và chính sự thẳng tính đó đã gây nguy hại tới chàng. Theo thói đời thì vua thường rất thích nịnh, khi các quan trong triều được nhà vua ban thưởng cho một chút bổng lộc nào đó thì tấm tắc khen vua hết lời này đến lời khác. Nhưng An Tiêm lại khác, nhận được bổng lộc vua ban thì An Tiêm thường bảo: “Của được biếu là của phải lo, của được cho là của phải nợ” và xem thường những thứ đó. Không ngờ câu nói đó của An Tiêm lọt đến tai Vua.
Vua khi biết đã nổi giận lôi đình và ra lệnh cho quân lính đầy cả gia đình Mai An Tiêm ra đảo hoang ở ngoài biển khơi. An Tiêm và vợ con của chàng được áp tải xuống một chiếc thuyền buồm và bị đầy ra ngoài biển khơi trong khi không có một chút hành lí mà chỉ được mang theo một chiếc gươm nhỏ để phòng thân. Con thuyền xa dần xa dần bờ và chồng chềnh giữa biển khơi mênh mông.
Đến ngày hôm sau, con thuyền cập bến vào một hòn đảo hoang không một bóng người. Quân lính đưa cho gia đình An Tiêm số lương thực chỉ đủ dùng cho 5 ngày, và một chiếc nồi nhỏ để nấu cơm. Sau đó quân lính quay thuyền trở về bờ và bỏ lại gia đình của An Tiêm trên hòn đảo hoang. Nàng Ba, người vợ của An Tiêm bế đứa con nhỏ trên tay, mắt hướng theo chiếc thuyền càng ngày càng khuất dần và mất hẳn. Nàng khóc và sợ, sợ rằng sẽ sống ra sao trên hòn đảo hoang này khi 5 ngày nữa là lượng lương thực sẽ hết và khi đó sẽ không còn gì để ăn, không còn gì để uống.
An Tiêm an ủi vợ và dắt vợ con tìm một hốc đá để ở tạm. Sau đó chàng lên đường với chiếc gươm nhỏ đi xung quanh hòn đảo hoang để thăm dò.
Quả thật hòn đảo này rất hoang vu và không có một bóng người, chắc chưa từng có người nào đặt chân lên hòn đảo. Trên đảo chỉ có chút cây cỏ mọc lơ thơ và vài loài chim biển sinh sống. Chàng tìm kiếm mãi mới tìm được chút quả dại chua chát và chút rau dại để ăn tạm qua ngày.
Kể từ khi đó, hàng ngày An Tiêm đi khắp con đảo tìm những loại rau rừng để trồng, kiếm quả rừng để ăn. Nàng Ba, vợ An Tiêm thì ra biển kiếm ngao kiếm ốc. Đứa con lớn được chàng dạy cho cách làm bẫy bắt chim, nhưng rồi dần dần lũ chim cũng đề phòng nên có những ngày thằng bé không bẫy được con chim nào.
Mặc dù cá rất nhiều nhưng An Tiêm không có lưới để bắt, quả thì cũng có mùa. Chính vì vậy cả gia đình An Tiêm vẫn chủ yếu sống qua ngày đoạn tháng bằng những thứ rau dại mang về trồng trong vườn. Cuộc đời của cả 4 người rất khốn khó và lao đao. Tuy muôn vàn khó nhọc nhưng An Tiêm vẫn nuôi trong mình một hy vọng rồi sẽ có ngày cuộc sống sẽ khấm khá lên.
Một hôm đang trong lúc đi kiếm rau rừng thì An Tiêm thấy một con chim đang ăn một quả gì đó, thấy An Tiêm nó sợ nên đã vội vã bay đi, để lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì đó là một quả dưa rất lạ chưa từng thấy bao giờ, nó to bằng hai ngón tay người. Chàng nghĩ thầm trong bụng: “Chim ăn được thì chắc người cũng sẽ ăn được”. Chàng nếm thử một chút thì thấy có vị ngọt ngọt rất dịu. Chàng ăn hết miếng dưa cho đỡ khát rồi gom toàn bộ số hạt lại để mang về gieo trồng.
Ít ngày sau, hạt dưa đã trồi mầm đâm lá, thân dây dưa tỏa ra bò khắp một khoảnh vườn. Nàng Ba vợ An Tiêm cũng phụ giúp chồng ngày ngày chăm sóc giống dưa lạ. Vợ chồng An Tiêm hồi hộp trông thấy vài bông hoa đầu hé nở, một thời gian sau hoa kết trái. Lúc đầu quả chỉ bằng ngón tay út nhưng mấy ngày hôm sau nó đã to như con chuột, một thời gian ngắn sau nó đã vổng như con lợn con. Thấy nó cứ lớn cứ lớn nên An Tiêm cũng không rõ khi nào có thể hái quả vì đây là giống dưa lạ chàng chưa thấy bao giờ.
Một sớm tinh mơ, khi đang trong giấc ngủ thì nàng Ba nghe thấy tiếng quạ kêu ngoài vườn. Nàng thấy sự lạ nên đã gọi chồng dậy và bảo:
– Ở đây là nơi hoang vắng, sao lũ quạ lại tụ họp ở đây nhỉ, chắc có chuyện gì ngoài kia, anh ra xem sự thể có chuyện gì!
An Tiêm ra đến vườn thì đàn quạ bay đi, chúng bỏ lại một quả dưa mà chúng đang ăn dở bị mổ thủng lỗ trỗ. An Tiêm thấy vậy bèn lấy dao cắt dưa mang về. Khi bổ dưa ra, cả nhà ngạc nhiên vì màu đỏ tươi của ruột dưa, lẫn trong đó là những hạt đen nhánh như hạt huyền. Bọc ngoài là một lớp vỏ trắng viền xanh. Để cẩn thận vì là giống dưa lạ, An Tiêm cắt thử cho mỗi người một mảnh nhỏ để ăn thử, lũ trẻ ăn xong khen ngợi quả rất ngọt, vị ngọt thanh mát, mùi thơm rất dịu của quả lạ, ăn vào thấy đỡ khát và còn khỏe hẳn ra. Thấy quả ăn được, An Tiêm mạnh dạn bổ nốt số dưa còn lại cho cả nhà ngồi ăn.
Cũng nhờ lũ quạ mà An Tiêm mới biết đến khi nào thì có thể thu hoạch quả, cả nhà mừng rỡ rồng rắn nhau ra vường để hái dưa đem về. Còn lại những qua chưa chín thì cả nhà thay phiên nhau canh quả, tránh cho lũ quạ lại tới ăn.
Với tài năng chăm bón của mình, vườn dưa nhà An Tiêm càng ngày càng sai trái, thịt quả càng thêm dày, vỏ mỏng dần đi, vị ngọt càng thanh và dịu hơn. Cứ mỗi lần hái trái, An Tiêm lại khắc đánh dấu lên quả rồi thả ra biển mong chờ có một ngày có một chiếc thuyền buôn gặp được dưa trôi thì An Tiêm sẽ dùng dưa để đổi lấy thức ăn và lúa gạo.
Quả nhiên, một hôm có một chiếc thuyền buôn đi ngang qua, thấy giống dưa lạ ăn rất ngon. Chủ thuyền ngỏ ý muốn mua dưa đem bán trên đất liền. Kể từ đó, gia đình nhà An Tiêm đã có thêm thức ăn lương thực, cuộc sống cũng đã khấm khá hơn trước kia.
Về phần Vua Hùng, từ ngày đầy cả gia đình An Tiêm ra đảo hoang, vua luôn nghĩ rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ tới vua cũng bùi ngùi thương xót. Cho đến một ngày, được thị thần dâng lên quả dưa lạ, vua ăn thấy rất ngon miệng bèn hỏi xem ai đã trồng ra giống dưa này. Biết được An Tiêm trồng, vua rất vui mừng cho quan lính đem thuyền ra đón cả gia đình An Tiêm trở về nhà. An Tiêm rất mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín đem về tặng cho bà con lối xóm. Còn một số quả An Tiêm giữ lại lấy hạt để gieo trồng. Đó chính là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta vẫn ăn ngày nay.
Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, vì nơi ấy xa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.
Thuyết Minh Cây Hoa Đào Ngày Tết
Đề bài: Thuyết minh cây hoa đào ngày Tết
Bàn về ngày lễ ở Việt Nam, không thể quên nhắc đến Tết. Nhắc đến Tết không thể quên nồi bánh chưng và cành mai, cành đào. Hình ảnh hoa đào, hoa mai đã trở thành linh hồn của ngày Tết. Nói đến mai là miền Nam rực rỡ sắc vàng, còn đào lại là sắc hồng thắm của miền Bắc. Hoa đào đã trở thành nét riêng của miền Bắc Việt Nam.
Trước hết, có thể lí giải vì sao hoa đào là nét riêng của miền Bắc. Miền Bắc có khí hậu khá khác so với miền Nam. Miền Bắc vào mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc tràn về nên có nền nhiệt thấp, lạnh. Khi sang xuân, thời tiết ấm áp dễ chịu. Xuân sang cũng là lúc đào nở rộ. Cây đào rất kén nhiệt và nơi sinh sống. Đào không chịu được nhiệt độ quá lạnh, cũng không chịu được quá nóng. Đào cần được trồng ở những nơi nhiều ánh nắng và thông thoáng gió. Ở nhiệt độ quá lạnh, đào sẽ không thể nở hoa và phát triển. Chồi hoa bị chết ở nhiệt độ -15 đến -25 độ C. Sau khi hoa tàn, quả đào sẽ phát triển và chỉ chín được vào mùa hè với nhiệt độ lý tưởng là 20 đến 30 độ C. Quả đào là một loại trái cây được yêu thích. Đào có rất nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch… Nhưng phổ biến nhất vẫn là đào bích. Đào bích có nhiều cánh, cánh hoa màu đỏ thắm. Đào phai có màu sắc nhạt hơn, cánh hoa đã chuyển sang màu hồng. Đúng như tên gọi, đào bạch màu trắng, là loài hoa hiếm và khó trồng nhất. Hoa đào được trồng ở hấu hết các tỉnh miền Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Nội.. Được ưa chuộng nhất vẫn là đào Nhật Tân. Nhật Tân là vườn đào nổi tiếng ở Việt Nam. Nơi đây nằm ở vùng đất ven sông Hồng ở Hà Nội. Vườn đào này nổi tiếng không chỉ bởi quy mô mà còn cả chủng loại và chất lượng đào. Hoa đào rất thích hợp với loại đất ven sông nhiều phù sa nên chất lượng đào ở Nhật Tân được đánh giá cao là vì thế. Cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc, được lựa chọn và lai giống để có màu sắc tươi và rực rỡ hơn.
Thuyết minh cây hoa đào ngày Tết
Cây đào khá kén chăm sóc và tưới bón. Nếu không chăm sóc tốt, tưới tiêu phù hợp, đào sẽ không thể nở hoa đẹp hoặc nở đúng thời kỳ. Ngoài ra cũng còn dựa vào khí hậu thời tiết, đào sẽ ra hoa vào lúc nào. Cũng như mai, đào muốn nở hoa, người trồng đào phải tuốt lá trước khoảng hai tuần để nụ hoa đơm ra, hoa nở đúng mùa vụ. Mỗi năm, hoa đào chỉ nở một lần vào mỗi độ sang xuân. Vào hè quả đào sẽ chín. Quả đào thường có vị chua, là loại trái cây yêu thích của nhiều người. Lá đào không giống lá mai. Lá đào dài hơn, có vân là răng cưa, màu xanh lá nhạt không đậm, rì như lá cây mai. Cành đào cũng mảnh và mỏng hơn so với cây mai. Cánh đào tương tự cánh mai, mỏng, nhẹ. Hoa đào có nhiều cánh cứ đan xen vào nhau mang màu hồng thắm hoặc nhạt theo từng giống đào. Hoa đào nở rất nhanh, tàn cũng rất nhanh. Trung bình một bông hoa từ lúc thành nụ đến khi tàn là khoảng 2 đến 3 tuần. Khi đào nở bung chuẩn bị tàn, chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua, cánh hoa đào cũng sẽ rơi xuống hệt như hoa anh đào của Nhật Bản. Tùy theo chủng loại, tuổi đời và cách chăm bón, cây đào có nhiều kích thước khác nhau. Có thể rất nhỏ hoặc rất lớn. Rễ cây đào là rễ cọc, luôn có thân giữa cứng cáp to lớn làm trụ. Trung bình một cây đào cao khoảng 1 mét trở lên. Cây đào có nhiều cành, cành mềm dẻo dễ uốn nắn. Vì thể mà người trồng đào có thể uốn nắn theo từng hình dáng, tướng tá khác nhau. phù hợp với thị yếu của người mua.
Hoa đào mang rất nhiều ý nghĩa. Trước đây, hoa đào mang tinh thần đuổi ma quỷ trong nhà. Ngày nay, hoa đào mang lại sự ấm cúng cho gia đình, mang lại sự an khang thịnh vượng. Vẻ đẹp đằm thắm, hài hòa và kín đáo của hoa đào mang lại niềm vui, niềm hu vọng mới. Không chỉ thế, hoa đào còn đại diện cho tình bạn thân thiết, của lòng hướng về gia đình. Bởi vậy mà những người con miền Bắc xa quê, những người ban thân đến thăm nhau vào dịp tết thường chọn cành đào làm quà. Hoa đào ngày nay đã trở thành tinh thần ngày tết, hồn dân tộc Việt. Vì thế, nên những người Việt xa quê, đón Tết tại nơi xứ người, luôn muốn tìm một cành đào để trang trí trong nhà, để họ cảm thấy một cái tết Việt Nam. Sắc hồng thắm nhẹ nhàng của đào là hương vị không thể thiếu của người Việt Nam. Thiếu đào, cái hơi thở của Tết chưa thật sự đúng nghĩa. Hoa đào, hoa mai là hình ảnh của Tết, là linh hồn của ngày Tết quê hương.
Đào khoe sắc thắm báo hiệu một năm đã qua, năm mới lại về. Năm mới với những thử thách mới, hi vọng mới, niềm tin mới. Sắc đào rộ lên là lúc báo hiệu thời khắc thiêng liêng của một năm lại tới. Người người ai ai cũng quây quần đoàn tụ với gia đình. Dù ai đi ngược về xuôi vẫn nhớ đến gia đình quê hương mà tìm về vào dịp Tết không quên mang theo cành đào, cành mai về làm quà.
Thống kê tìm kiếm
thuyết minh về hoa đào
thuyết minh về cây hoa đào
thuyết minh về cây đào ngày tết
thuyet minh vê cay hoa dao
Thuyet minh ve cay hoa dao trong dip tet den o que huong em
thuyết minh về cây đào
Cập nhật thông tin chi tiết về Truyền Thuyết Về Trái Đào trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!