Bạn đang xem bài viết Truyền Thuyết Ông Hoàng Mười; Ông Hoàng Bảy được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1.1. Theo sưu tầm của Quách Văn
Trong số Thập vị Quan Hoàng, chỉ có Thánh ôngở Việt Nam Hoàng Mười và Thánh ông Hoàng Bảy là hay về ngự đồng. Khi ngự đồng, Thánh ông Hoàng Mười thường diện long phục, thêu chữ “thọ”, đầu đội khăn xếp, thắt dây vàng, trâm cài tóc màu vàng. Khi ngự đồng, có khi ông lấy quạt làm sách, lấy bút làm trâm, vừa đi vừa ngâm thơ hoặc giả động tác của dân lao động…
Trong số Thập vị quan Hoàng, Thánh ông Hoàng Mười là một trong những vị tồn tại nhiều dị bản về thân thế. Nhưng khác với truyền thuyết về ông Hoàng Bảy, Thánh ông Hoàng Mười được gắn với các nhân vật có thật trong sử sách. Tuy nhiên, đáng tiếc là đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa thể bóc tách từng giả thuyết để trả lời cho câu hỏi. Ông Hoàng Mười là ai?
Truyền thuyết ông Hoàng Mười:
– Ông Hoàng Mười là con của Đức vua cha Bát Hải Động Đình(*)
Một số câu chuyện ghi lại rằng: Thánh ông Hoàng Mười là con của Đức vua cha Bát Hải Động Đình đầu thai thành vị tướng tên Lê Khôi dưới triều Lê, giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh. Khi đất nước thái bình, theo lệnh vua cha, ông hóa thân về trời. Từ đó, người dân vùng Nghệ An gọi ông là “Đức thánh minh”, lập nên đền thờ để hậu thế đời đời tưởng nhớ.
Trong sách “Đạo mẫu Việt Nam”, GS Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nhà nghiên cứu Phạm Văn Khiêm cũng đã liệt kê được trên 80 câu thơ về nhân vật lịch sử này. Đây cũng đồng thời là bài hát khi hầu giá ông Hoàng Mười. Điểm đặc biệt trong nội dung lời hầu giá lại chính là lai lịch, sở thích của vị tướng quân có công giết giặc giữ nước trùng với giả thuyết cho rằng, ông Hoàng Mười thực ra là vị tướng Lê Khôi.
Lời hầu giá rằng: “Cánh hồng thấp thoáng trăng thanh/ Nghệ An có đức thánh minh ra đời (Hoàng Mười)/ Gươm thiêng chống đất chỉ trời/ Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung/ Thanh xuân một đấng anh hùng/ Tài danh nổi tiếng khắp vùng trời Nam”… Nội dung bài hầu giá ngoài việc ca ngợi vị tướng Lê Khôi, tức đức thánh minh không chỉ có tài kiếm cung, thao lược mà ông cũng rất phong lưu, đào hoa. Khi rảnh rỗi, ông thường cưỡi ngựa đi ngắm cảnh, làm thơ, bên cạnh lúc nào cũng năm, ba thiếu nữ theo hầu…
Lời hát khi hầu giá ông Hoàng Mười mà Nhà nghiên cứu Phạm Văn Khiêm đưa vào sách “Đạo Mẫu Việt Nam” chỉ là một trong số nhiều bài hát hầu giá khác cùng tồn tại. Điều đó nói lên sự phức tạp và có nhiều dị bản khác nhau về ông Hoàng Mười.
(*) Chú thích: Vua cha Bát Hải Động Đình là ai?
Tục truyền, vào đời Vua Hùng Vương thứ 18, nước nhà bị ngoại bang xâm lấn, Long Cung Hoàng Thái Tử (Giao Long – con của Lạc Long Quân và người thiếp Ngọc Nữ) đầu thai vào một gia đình vùng cửa sông Vĩnh thuộc Trang Hoa Đào, đất Việt (An Lễ, Quỳnh Phụ bây giờ), giúp vua đánh giặc. Ngài cùng 2 em, 10 tướng (Quan Lớn thượng, Quan Đệ Tam, Quan Đệ Tứ…Quan Điều Thất (Hoàng Mười ), quân sư quê ở Nuồi (Tứ Kỳ – Hải Dương), 28 vị nội tướng và binh sĩ, chỉ trong 3 ngày xuất quân đã đánh tan giặc trên 8 cửa biển nước Nam. Từ đó, ngài có tên là Vĩnh Công (Trọng nhân phát tích trên sông Vĩnh).
Sau chiến thắng, Hùng Duệ Vương triệu Vĩnh Công về triều phong là “Vĩnh Công Nhạc phủ Thượng đẳng thần”. Ngài xin về quê trông nom thân mẫu, khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, giúp vua Hùng giữ yên 8 cửa biển Lạc Việt. 10 tướng theo Ngài về Hoa Đào Trang. Riêng Quan Điều Thất về trời ngay sau khi thắng giặc. Vĩnh Công thương xót cho lập bàn thờ ngay tại Dinh Công Đồng là nơi ngài cùng chư tướng bàn việc (đó chính là Đền thờ quan Điều Thất ngày nay, thường gọi là Đền Công Đồng). Quan lớn Đệ Tam được phân công giữ yên vùng duyên hải từ sông Cái lên hết biên giới phía Bắc Lạc Việt. Quan lớn Đệ thập được tỵ nhậm tại Cửu Chân, Quan Đệ tứ được phân công khai khẩn vùng Bắc Sơn Nam…
Có 5 vị nội tướng được Vĩnh Công sai khai khẩn chăn dân, lập ấp tại Hoa Đào trang (sau chính là 5 vị thành hoàng nổi tiếng linh ứng, đã có công âm phù Trưng Vương đánh thắng quân Tô Định)…Vua Hùng trao Vĩnh Công quản lý miền duyên hải Lạc Việt lấy tên là Tây Đô. Định kỳ hàng năm, nhân ngày đại thắng quân phương Bắc trên 8 cửa biển, Vĩnh công triệu chư tướng về tề tựu tại Hoa Đào trang (đất An Lễ bây giờ) tổ chức thi đấu vật, thi võ, bơi thuyền, giữa đội thuyền bản hạt và thuyền của các tướng, thuyền của quân sư Nuồi, để ôn lại chiến thắng, tập dượt phòng thủ và luyện quân sẵn sàng ứng phó mọi biến cố… (lệ thi bơi trải có từ đó).
Ngày 25 tháng 8 âm lịch, năm Bính Dần, Vĩnh Công thác về trời. Để ghi nhớ công ơn ngài, người dân trong vùng tôn ngài là “Vua cha – Bát Hải Đại Vương”, coi ngài như cha mẹ của dân. Vua Hùng thương xót, ban phong mỹ hiệu: “Trấn Tây An Tam kỳ linh ứng Đại Vương” cho tu sửa dinh thất của Vĩnh công thành miếu điện thờ tự hương hoả cho Vĩnh công mãi mãi… Từ đó, nhân ngày giỗ Vĩnh Công, các tướng lại tề tựu tại Hoa Đào trang, dâng hương và tổ chức các hình thức kỷ niệm ngày đại thắng như trước đây … Lâu dần thành lệ Hội tháng 8 âm lịch mà truyền đến ngày nay.
Các tướng của Vĩnh Công sau khi mất đều được lập đền thờ, được các triều đại sau sắc phong tôn vinh, kính trọng. Tại đất Đào Động có Đền thờ Quan lớn Thượng, Quan lớn đệ Nhị, Quan lớn Đệ Tam, Quan lớn Điều Thất, Quan lớn Đệ Bát, tĩnh Quan lớn Thượng, tĩnh Quan Đệ Tứ, đều được tái tạo dựng trên nền cổ tự. Quan Đệ Ngũ thờ tại Đình Giới Phúc, tĩnh Quan Đệ Lục (Miếu Giáp Nhị) đã bị thực dân Pháp phá huỷ. Quan Đệ Tam còn được thờ ở Đền Lảnh Giang (Hưng Yên), Quan Đệ Tứ đền thờ chính ở Vĩnh Bảo – Hải Phòng. Quan Đệ Ngũ có đền thờ ở bến đò Chanh – Hải Dương, Quan Điều Thất có Đền ở Bảo Hà – Lào Cai. Quan Đệ Cửu xưa có Đền ở Thanh Hoá, Quan Đệ Thập (Hoàng Mười) có đền ở Nghệ An …
Đền thờ Vĩnh công Đại Vương Bát Hải Động Đình từ xa xưa đã nổi tiếng linh ứng. Các triều đại sau này như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn… đều tái sắc phong cho ngài. Vĩnh Công được coi là Thượng Đẳng Thần của đất Lạc Việt, Hội tháng 8 âm lịch tại Đền, hội tụ muôn phương dân Việt về chiêm bái lễ cầu. Câu thành ngữ dân gian: Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ chính là để chỉ Hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng. Đây được coi là nơi “đi trình về tạ” của các bản Hội tín ngưỡng trong toàn quốc từ xa xưa.
– Ông Hoàng Mười chính là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang
Giả thuyết thứ hai cho rằng rằng: Ông Hoàng Mười chính là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai của Lý Công Uẩn, cai quản châu Nghệ An. Tuy nhiên, cho đến nay giới nghiên cứu vẫn chưa tìm ra tư liệu hay bằng chứng nào để chứng minh cho giả thuyết này. Nhưng dẫu sao thì truyền thuyết vẫn tồn tại trong một bộ phận dân chúng, người ta vẫn coi ông Hoàng Mười là con trai đức vua cha Bát Hải Động Đình và dĩ nhiên, trong bài hầu giá của mình, người ta vẫn coi ông là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.
Trong nhiều truyền thuyết về xuất thân Thánh ông Hoàng Mười, nhiều người nghiêng về giả thuyết, ông Hoàng Mười chính là Nguyễn Xí, sống ở thời Hậu Lê.
Nguyễn Xí xuất thân tại xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An ngày nay. Ông là bậc đại công thần, là võ tướng, chính trị gia lỗi lạc giúp Lê Lợi chiến đấu chống giặc Minh xâm lược. Nguyễn Xí là vị quan phò tá qua 4 đời vua Lê gồm. Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Hiến Tông và Lê Túc Tông. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhà Lê. Sự hưng thịnh đã đi vào ca dao rằng: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Lúa chất đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”, hay “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Con bế, con dắt, con bồng, con mang”…
Sinh thời, Nguyễn Xí không chỉ là một bậc quan khai quốc công thần, tài hoa lỗi lạc mà ông còn giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo. Sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, ông được Lê Lợi phân công cai quản đất Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại đây, ông đã dạy dân trồng lúa nước, đắp đê ngăn lũ, thủy lợi nội đồng… Tương truyền, trong một lần gió lớn, mưa to, nhà cửa, cây cối của người dân bị bẻ sập, Nguyễn Xí đốc thúc quân lính và đích thân lên rừng đốn gỗ về dựng lại nhà cửa cho dân, sai người mở kho lương thực cứu tế kịp thời. Nhờ đó mà nhiều người đã thoát khỏi đói rét, chết chóc vì bão lũ… Vì vậy được dân chúng khắp nơi tôn sùng, coi như hiền thánh. Sự hưng thịnh của các đời vua Lê có dấu ấn quan trọng của Nguyễn Xí và bộ máy quan đại thần hạ triều.
Sự hóa thân từ bậc khai Quốc công thần đến Thánh Hoàng Mười cũng thật ly kỳ. Chuyện kể rằng: Một lần Nguyễn Xí dạo thuyền trên sông Lam, đoạn qua núi Hồng Lĩnh thì bỗng có đợt sóng to, gió lớn nổi lên, thuyền của ông bị thủy triều, phong ba cuốn đi mất. Dân chúng biết tin liền đến bên đôi bờ Lam giang mà tỏ lòng thương tiếc, người người khóc thương vị quan hết lòng vì dân. Đúng lúc đó, bầu trời đang cuồng phong bão táp bỗng tan biến, bầu trời nổi áng mây vàng, thi thể của ông nổi lên mặt nước, sắc mặt hồng hào như người nằm ngủ. Khi dạt vào bờ, đất xung quanh bỗng bao bọc lấy di quan. Cùng lúc, trên nền trời bỗng xuất hiện mây ngũ sắc, kết thành xích mã và thiên binh đưa ông về trời.
Sau khi ông mất, người dân Nghệ An lập đền thờ ông. Bách tính suy tôn ông là Thánh ông Hoàng Mười. Việc suy tôn này mang ý nghĩa ông là con của Đức vua cha Long Hải Đại Đình đầu thai vào Nguyễn Xí mà giúp dân dẹp giặc, xây dựng cuộc sống phồn vinh…
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu văn hóa thì giả thuyết ông Hoàng Mười chính là Nguyễn Xí có sức nặng hơn cả. Bởi xét về lịch sử ngôi đền được xây dựng vào năm 1634, tức cùng thời của Nguyễn Xí. Hơn nữa, Nguyễn Xí lại là quan đại thần, là bậc khai Quốc công thần dưới thời Lê, có công phò vua đánh tan giặc Minh xâm lược, khi thiên hạ thái bình, ông lại cùng ăn, cùng ở với dân, giúp bách tính vượt qua khổ ải vươn đến phú quý, hưng thịnh. Xét trên công lao đó, dân chúng chí tôn ông là Thánh Hoàng Mười là điều hiển nhiên và cũng hợp với ý nguyện của muôn dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh.
1.2. Theo sưu tầm của Giang Anh
Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An. ngoài ra còn có sự tích ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời vua Lê Thái Tổ.
Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời.
Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).
Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.
Theo một số đền thờ vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam. Nơi nào có điện thờ mẫu là nơi đó có tượng hoặc bàn thờ ông Hoàng Mười.
Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.
Ngôi đền được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê trên diện tích hơn 1 ha ở làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay, đền có 3 toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện, nhân vật chính được thờ là Bình chương quân quốc trọng sự Thái uý Vị Quốc công (Lê Khôi); Phúc Quận công; Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân (Nguyễn Duy Lạc); Song Đồng Ngọc Nữ.
Đền cả, còn gọi là Dinh Đô Quan Hoàng Mười: theo sắc phong bảo lưu thì Dinh Đô được xây dựng vào năm 1060 thời nhà Lý (Sắc phong của vua Lý Thánh Tông).
Về sau được trùng tu bởi thời nhà Lê bởi (Sắc phong vua Lê Ý Tông 1726) và đến triều nhà Nguyễn 1427 trùng tu toạ lạc vùng Mỏ Hạc Linh Từ, là ngã ba giao nhau giữa sông Minh Giang (xưa là kênh nhà Lê),sông La và sông Lam.
Dinh Đô Quan Hoàng Mười hiện nay gần như bị phế tích hoàn toàn ‘Đền Cả – Dinh đô Quan Hoàng Mười (tại tỉnh Hà Tĩnh) còn có tên gọi là Mỏ Hạc Linh Từ; đền có niên đại khá sớm, quy mô kiến trúc đồ sộ. Vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười. Hiện nay, ngôi mộ (ý niệm mộ vọng) của ông Hoàng Mười nằm trong quần thể di tích của đền. (Ông là một bậc Thiên Thần hiển linh tái thế Nhân thần theo truyền thuyết nên không có mộ). Đền ông Hoàng Mười là ngôi đền thờ vọng theo ý niệm sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân nổi tiếng ở Nghệ An thờ đạo Mẫu Tứ phủ, vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười, con thá mười của Vua cha Bát Hải Động Đình (theo truyền thuyết dân gian là một vị thiên thần).
Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay khảo sát thần tích gần 50 đền thờ cho rằng ông giáng xuống trần thành Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai Vua Lý Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An, thời Lý.
Hàng năm cứ vào dịp tháng 9, tháng 10 âm lịch, nhân dân, du khách thập phương trong Nam, ngoài Bắc lại nô nức về lễ đền Ông Hoàng Mười xã Hưng Thịnh – Hưng Nguyên. Đây được coi là mùa tạ lễ quan trọng nhất trong năm.
Ông Hoàng Mười là một “Đức Thánh Minh” trong hàng các ông quan Hoàng của tín ngưỡng Đạo Mẫu, được nhiều người ngưỡng mộ và được thờ ở nhiều địa phương trong nước. Ông được giao cai quản về tâm linh trấn giữ một vùng non nước dọc sông Lam, nên những nơi thờ Tứ Phủ theo Đạo mẫu Nghệ An đều thờ ông, nhưng chỉ là phối thờ. Còn đền thờ chính Ông Hoàng Mười ở xã Hưng Thịnh – Hưng Nguyên, đền có tên là đền Xuân Am (theo địa danh làng Xuân Am) hay Mỏ Hạc Linh Từ (theo địa hình thế đất núi sông của thuyết phong thủy).
Đền nằm ở vị trí cảnh quan đẹp với phong cảnh non xanh nước biếc thật hữu tình. Trước mặt đền (hướng Nam) là dòng Lam giang như một dải lụa xanh trải rộng, thuyền bè tấp nập ngược xuôi sông Cồn Mộc quanh co, uốn khúc ôm ấp quanh đền, đôi bờ là những đồng lúa bát ngát, xanh tươi. Phía sau, bên kia sông Cồn Mộc là núi Kỳ Lân, núi Dũng Quyết và Phượng Hoàng Trung Đô với những dấu tích lịch sử, những rừng thông, bạch đàn bạt ngàn tươi tốt. Ngoài cảnh đẹp kỳ thú, từ lâu, đền đã nổi tiếng linh thiêng vì ở đây ngoài thờ Quan Hoàng Mười theo tín ngưỡng Đạo Mẫu, còn phối thờ các vị Song Đồng Ngọc Nữ, vị Quốc Công Thái Bảo Phúc Quận Công, Phụ Quốc Thượng Tướng quân Nguyễn Duy Lạc.
Lễ hội đền Ông Hoàng Mười diễn ra từ mùng 8 đến 10/10 ÂL, nhưng trước đó, trong suốt tháng 9, tháng 10 ÂL, trung bình mỗi ngày đền đã đón khoảng hàng trăm lượt du khách về làm lễ. Đông nhất vẫn là khách đến từ các tỉnh phía Bắc như Hà Nội, Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Bình… Nhiều du khách do ở xa chờ làm lễ nên phải thuê phòng trọ ngay trước đền.
Lễ hội đền Ông Hoàng Mười gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm lễ khai quang, lễ rước bài vị, đạo sắc từ làng Xuân Am về đền, lễ yết cáo, lễ đại tế và cuối cùng là lễ tạ. Phần hội gồm các trò chơi dân gian diễn ra trong hai ngày mùng 9 và mùng 10 thu hút nhân dân trong huyện Hưng Nguyên tham gia như giải bóng chuyền các xã, trò chơi nhảy bao bố, kéo co, chọi gà, giao lưu văn nghệ …
Đền Bảo Hà, hay còn gọi là đền Hoàng Bảy thuộc xã Bảo Hà, Bảo Yên, Lào Cai. Khu di tích lịch sử văn hóa quốc gia cổ kính, hoành tráng này nằm dưới chân đồi Cấm, ngay cạnh dòng sông Hồng cuộn đỏ. Nhìn từ xa, đền Bảo Hà rất uy nghi, tĩnh mặc. Phong cảnh trên bến, dưới thuyền, núi rừng bao bọc xanh ngắt, thâm u.
Truyền thuyết chính thống nhất được sử dụng kể về ông Hoàng Bảy như sau: Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Bảo Hà có một vị trí quan trọng phòng thủ biên giới, là cửa trạm của phòng tuyến sông Hồng phía Tây Bắc.
Từ đời nhà Trần đã đặt hai cửa trấn ải là cửa quan Bảo Thắng và Bảo Hà, trong đó Bảo Hà là hậu cứ của Bảo Thắng. Tại đây có đài hỏa hiệu, trạm liên lạc thông tin cho các châu huyện phía dưới.
Giữa niên hiệu Cảnh Hưng, Bảo Hà là trung tâm Châu Văn Bàn. Trong thời Cảnh Hưng (1740 – 1786), bọn giặc phương Bắc thường hay tràn sang quấy nhiễu, cướp bóc. Xã Khấu Bàn, châu Văn Bàn đã phải xây dựng các thành luỹ chống giặc.
Trước cảnh đau thương tang tóc, lại có nguy cơ bị xâm lược, tướng Nguyễn Hoàng Bảy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải.
Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Tại đây, danh tướng đã tổ chức các thổ ty, tù trưởng luyện tập binh sỹ… Sau đó thống lĩnh quân thủy và quân bộ tiến đánh giặc ở Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hóa (Yên Bái, Lào Cai ngày nay).
Quân giặc phương Bắc do tên tướng Tả Tủ Vàng Pẹt đưa quân sang xâm lược bờ cõi, danh tướng Hoàng Bảy lại dẫn quân lên tham chiến. Song, do trận chiến không cân sức, ông đã anh dũng hy sinh. Giặc vứt xác ông xuống sông Hồng, và trôi đến Bảo Hà. Nhân dân trong vùng do ông Lư Văn Cù đứng ra tổ chức vớt xác ông lên chôn cất và lập miếu thờ.
Để ghi nhớ công lao của ông, các vua triều Nguyễn như Minh Mệnh, Thiệu Trị đã tặng ông danh hiệu “Trấn an hiển liệt” và đền thờ ông cũng được các vua triều Nguyễn cấp sắc phong là “Thần Vệ Quốc”. Còn đồng bào các dân tộc Kinh, Tày, Dao… thì tôn thờ ông là vị nhân thần. Ông đi vào cõi tâm linh các dân tộc và hiện thân trong các lễ hội xuống đồng vào ngày Thìn tháng giêng.
Đền Bảo Hà – khu di tích lịch sử văn hóa quốc gia, được xây dựng dưới chân đồi Cấm, bên cạnh dòng sông Hồng chảy vào miền đất Việt, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; cách Tp. Lào Cai khoảng 60km về phía nam; cách ga xe lửa Bảo Hà khoảng 800m. Đền thờ thần vệ quốc Hoàng Bảy, một anh hùng miền sơn cước đánh giặc phương Bắc bảo vệ bản làng. Đây là địa chỉ thu hút du khách thập phương đông nhất của huyện Bảo Yên.
Nhìn từ xa, đền Bảo Hà rất uy nghi, tĩnh mặc. Phong cảnh thiên nhiên nơi đây cũng thật hữu tình: trên bến, dưới thuyền, xung quanh là núi rừng bao la, rộng lớn xanh mướt một màu.
Đền Bảo Hà có lưng tựa vào núi, mặt hướng theo dòng nước sông Hồng và nơi đây còn có sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên với kiến trúc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam theo thuyết phong thủy.
Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào triều Lê Cảnh Hưng, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử ông, dọc theo sông Hồng, lên đánh đuổi quân giặc và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp. Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội. Sau này khi hiển linh ông được giao quyền cho trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn rất ăn chơi, phong lưu: khi thanh nhàn ông ngả bàn đèn, uống trà mạn Long Tỉnh, ngồi chơi tổ tôm, tam cúc, xóc đĩa… lúc nào cũng có thập nhị tiên nàng hầu cận, ông cũng luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc – Ông Hoàng Bảy Bảo Hà”.
Ông Bảy là Ông Hoàng hay ngự về đồng nhất, cũng bởi vì trong hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, ông rất hay chấm lính bắt đồng (có quan niệm cho rằng, những người nào mà sát căn Ông Bảy thì thường thích uống trà tàu, hay đánh tổ tôm, xóc đĩa…). Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng. Đến giá Ông Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi thuốc lá có tẩm thuốc phiện.
Đền thờ Ông Hoàng Bảy được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại là Đền Bảo Hà, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai (Vì thú chơi phong lưu của ông nên nơi ông ngự còn được mệnh danh là Trái Hút Bảo Hà). Ngày tiệc chính của ông là ngày 17/7 âm lịch, vào ngày này, ở đền ông tập nập du khách thập phương đến dâng ông ngựa xám, bàn đèn, thuốc cống, kẹo xìu (kẹo lạc)… để cầu tài cầu lộc. Khi thỉnh ông về ngự, văn thường hát rằng:
“Bảo Hà đất ấy phong quang Thỉnh Ông Hoàng Bảy xe loan ngự về […] Bắc Nam đôi sứ vào ra Đồn rằng Ông Bảy Bảo Hà tối linh” Khi nói về sự tích của ông, văn hát: “Con ngôi Thượng Đế Đức Vua Cha Giáng tại Sơn Lâm, trấn Bảo Hà Diện mạo hồng hào so vẻ ngọc Dung nghi tươi tốt khác nhường hoa” Hay khi ông ngự vui, văn thường hát để ông ban thưởng: “Ai lên Trái Hút Bảo Hà Nếm mùi phong nguyệt ấy là cảnh tiên […] Cỏ cây hoa lá tần ngần Hoa đào năm ngoái mười phần kém xa […] Ba gian tòa đá phủ rêu Ai người có phúc được theo Ông Hoàng […] Dang tay mở khóa động đào Ai người dày phúc đưa vào quần tiên […] Lâng lâng rũ sạch bụi trần Một ngày bắc ghế nên duyên nợ nhiều” Hay có cả những đoạn rất hay, độc đáo nói về các thú ăn chơi của Ông Bảy như xóc đĩa, tam cúc, tổ tôm…: “Đĩa vàng bát ngọc bày ra Bạn tiên trải chiếu long hoa tức thì Phàm tâm tả hữu hồ kì Ông Bảy xóc đĩa bốn bề xôn xao” “Khi thanh nhàn Ông Hoàng giá ngự Ngự về đồng dự hội tổ tôm Màn hoa chắn gió đông nồm Hiên loan bóng quế chiều hôm đánh bài Ông Bảy ngồi khoan thai cách điệu Sập công đồng trải chiếu long lân Hương xông gấm vóc áo quần Dang tay châu báu kim ngân đánh bài” “Cuộc cờ xóa xóa bày bày Ván bài tam cúc xưa nay tức cười […] Pháo kia nổi hiệu lôi oanh Tốt không bảo vệ giữ mình được sao Người nay đợi lệnh Thiên tào Giữ xe pháo mã điều vào giáp công […] Xưa nay việc nước việc nhà Giữ bền sĩ tốt ấy là thành công” Và có hẳn một đoạn nói về thập nhị tiên nàng hầu cận ông: “Lệnh sai thập nhị tiên nàng Cô nào việc ấy sửa sang đứng hầu Cô Cả pha nước trà tàu Nhấp vào vừa ý gật đầu ban khen Cô Đôi dâng bộ khay đèn Xe ngà diện sứ móc tiêm nạm vàng […] Cô Mười Hai trải chiếu chia bài Tổ tôm chắn cạ nào ai dám bì […] Thoi xanh vượt suối băng ngàn Mười hai tiên nữ rước hoàng về dinh”.
Quách Văn, http://kienthuc.net.vn/tham-cung/di-tim-su-tich-thanh-ong-hoang-muoi-642437.html
Giang Anh, https://gianganh.net/quan-hoang-muoi-la-ai-327.html
VTC News, http://vietnamnet.vn/vn/doi-song/di-tim-su-that-quai-go-o-den-ong-hoang-bay-163284.html
CHIA SẺ BÀI VIẾT
Đền Ông Hoàng Bảy Ở Đâu? Sự Tích Và Cách Dâng Lễ Quan Hoàng Bảy
Ông Hoàng Bảy hay Quan Hoàng Bảy Bảo Hà là vị thánh thuộc hàng vị thứ 7 trong Thập vị Quan Hoàng Tứ Phủ. Hằng năm cứ vào dịp tháng 7 (âm lịch), đất Bảo Hà, Lào Cai lại đông nghịt khách thập phương tiến về đền để chấp lễ, chấp bái nhà ngài.
Ông Hoàng Bảy là ai, lịch sử ông Hoàng Bảy như thế nào vẫn là câu chuyện có nhiều dị bản chưa được kiểm chứng chính xác. Dựa vào những tài liệu lịch sử đáng tin cậy thì ông là con Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh Vua Cha, cuối thời Lê, ông giáng trần làm con trai thứ Bảy trong dòng họ Nguyễn.
Khi giặc phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược địa phận phủ Quy Hóa (nay là Yên Bái và Lào Cai) tình hình trong nước vô cùng hỗn loạn. Danh tướng thứ Bảy nhà họ Nguyễn được vua cử đi đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ông đã giải phóng và xây dựng Bảo Hà thành khu căn cứ lớn để tổ chức các thổ ty và luyện tập quân sĩ. Khi lực lượng lớn mạnh, ông đã cho tập hợp quân tiến đánh giặc tại Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hóa.
– Ông Hoàng Bơ được thờ ở đâu – Sắm lễ dâng Ông Hoàng Bơ – Sự tích Ông Hoàng Mười giáng thế cứu nhân gian – nguồn gốc cái tên “Ông Mười Củi”
Chưa dừng lại ở đó, giặc Trung tiếp tục tràn qua nước ta qua biên giới phía Bắc để cướp bóc, đốt phá. Nhận lệnh Triều Đình, ông cầm quân đánh giặc dọc theo bờ sông Hồng, trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Đồng thời, để củng cố sức mạnh nội bộ, ông đã chiêu dụ các thổ hào, thổ ty, mời người Dao, người Thổ lên khấn điền lập ấp. Bảo Hà lập tức trở thành căn cứ quân sự vững chắc trấn giữ nơi biên giới Tổ Quốc.
Tuy nhiên vào một trận đánh sau này, ông đã bị giặc bắt và tra khảo dã man. Tướng Nguyễn Hoàng Bảy nhất quyết không chịu khuất phục dưới tay giặc. Danh tướng nhà Nguyễn đã bị chúng sát hại rồi ném xuống sông. Di quan ông theo dòng sông Hồng trôi đến Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Nhân dân đã an táng và lập đền thờ mang tên Bảo Hà ở nơi đây để tưởng nhớ công ơn của ngài. Sau này ông được các triều vua và nhân dân phong danh “Thần Vệ Quốc”.
Sau khi hiển linh, Quan Hoàng Bảy không những nổi tiếng về giỏi kiếm cung mà còn rất phong lưu. Khi an nhàn ông thường ngả bàn đèn, ngồi chơi tổ tôm, xóc đĩa,… Vậy nên rất nhiều người nghĩ ông là vị thánh nghiện thuốc, nghiện cờ bạc,… và lan truyền những thông tin sai lệch làm hạ thấp hình ảnh cao đẹp của ông.
– Đấu hiệu nhận biết những người có căn Cô Chín – Sự tích về Cô Chín – Những người có căn Cô Bơ thường có tính cách như thế nào – Đền thờ và sẵm lễ dâng Cô Bơ
Lý do để giải thích cho việc này là để thu phục các thổ hào, tù trưởng đoàn kết lại với nhau, ông đã chủ động hòa mình vào cuộc sống của họ như uống rượu, đánh bạc, hút thuốc phiện,… Đây là cách tiếp cận và chiêu dụ họ bằng nhân tâm chứ không phải bằng biện pháp quân sự. Sau này, ông cũng chỉ giá ngự về đánh đàn, chơi tổ tôm vào những lúc an nhàn như một thú vui giải trí chứ không hề nghiện ngập. Ngài vẫn luôn là vị tướng có tài và cũng luôn răn dạy nhân dân phải tu tâm, giữ gìn phúc đức về sau.
Do đó, người ta cũng quan niệm rằng, những người có căn Ông Hoàng Bảy có đặc điểm rất rõ là hào hoa phong nhã. Bên cạnh đó, họ cũng sớm giác ngộ tâm linh, lấy đức độ người, khéo cầm kỳ văn xướng, khéo động lòng trắc ẩn, coi tiền danh phù du, xả thân trượng nghĩa….
Ông Hoàng Bảy là vị thần hay chấm lính bắt đồng cũng như ngự về đồng nhất trong hệ thống Thập Vị Ông Hoàng. Khi ngự về đồng, ông mặc áo tím chàm hoặc xanh lam, đầu đội khăn xếp thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc. Lúc ngự đồng, ông về tấu hương, khai hoang và cưỡi ngựa đi chấm đồng, trên tay cầm đôi hèo. Nếu ông chấm ai ông sẽ thảy cây hèo vào người đó. Cùng với ông khi đó đồng là Ngài ngự đồng. Ngài là một trong tứ vị Khâm sai, sẽ ngự tọa phán truyền và ban lộc phát tài cho người dâng lễ. Không sử dụng thuốc phiện để hầu ghế ông mà chỉ cần dâng 3 tuần trà ô long và thuốc lá khi ông giá ngự.
Đền thờ ông Hoàng Bảy – vị trí và cách di chuyển đến đền
Năm 1977, đền Bảo Hà được chứng nhận là di tích lịch sử quốc gia. Ngôi đền ngự tại chân đồi Cấm, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Nơi đây nằm cách thành phố Lào Cai 60km và cách ga xe lửa Bảo Hà 900m. Hiện ngôi đền đã được tu sửa khang trang để tạo thuận lợi cho du khách hành hương.
Phong cảnh nơi đền thiêng vô cùng thơ mộng, bình yên, rừng núi bao quanh xanh một màu. Đối diện với dòng sông Hồng, lưng tựa vào núi, ngôi đền được cho là mang phong thái ung dung đĩnh đạc của quan Hoàng Bảy, là minh chứng cho sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc văn hóa truyền thống và khung cảnh thiên nhiên vĩ đại.
Ngày 17/7 hằng năm là ngày chính tiệc ông Hoàng Bảy. Vào ngày này, con hương lại nô nức sắm sửa đồ lễ dâng bái để cầu tài lộc, may mắn và bình an nơi cửa đền.
Nếu bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu về lộ trình tới đền Ông Hoàng Bảy Bảo Hà, chúng tôi xin được cung cấp một số thông tin sau:
Từ bến xe Mỹ Đình tại Hà Nội, quý khách có thể bắt được xe khách đến thẳng Đền Bảo Hà. hoặc gọi thêm hotline đặt xe theo yêu cầu với giá vé dao động 180.000 đến 200.000đ/người. Thời gian di chuyển dự kiến 4h.
Hoặc bạn cũng có thể mua vé tàu chặng Ga Hà Nội – Lào Cai để xuống bến xe lửa Bảo Hà cách đền khoảng gần 1km. Thời gian di chuyển dự kiến là 6h.
Lộ trình di chuyển đến đền Bảo Hà bằng ô tô – thời gian di chuyển dự kiến là 3h30:
Cầu Nhật Tân rẽ vào QL2A – ĐCT131(các biển báo dành cho Thái Nguyên) – ĐCT05 (Phí cầu đường) – QL279(phí cầu đường) – Đền Bảo Hà.
Đồ lễ của ông Bảy mang sắc xanh lam hoặc tím chàm. Đây cũng là màu áo của ông khi ngự về đồng. Điều này sẽ thể hiện tấm lòng thành kính của con hương tới ông Bảy, mọi mong muốn sẽ cầu được ước thấy.
Ngoài hương, nhang, rượu hay hoa quả, thì những quanh oản là phẩm lễ được con hương đệ tử lựa chọn nhiều nhất. Vì khác với hương hoa trà quả, Oản Tài Lộc là vật phẩm cầu kỳ tỉ mĩ thường được, lưu lại rất lâu trên ban thờ. Vì đẹp và lưu được lâu nên nhiều con hương còn được tiến dâng thẳng vào cung cấm nhà ngài. Những quanh oản đẹp như vậy bạn có thể tìm mua tại Oản Cô Tâm. Tại đây, những mẫu oản Tứ Phủ, đặc biệt là lễ Ông Hoàng Bảy đều được làm ra sự nghiên cứu kỹ lưỡng về hệ thống tâm linh.
Ngoài ra, để tưởng nhớ và báo đáp lại công ơn của ông, người ta cũng thường sắm sửa vật lễ là điếu cày, kẹo lạc,… để ông thưởng thức.
Gió nam thoảng đưa hương bay ngào ngạt
Bóng ác tà đã gác non tây
Trăng in mặt nước vơi đầy
Bảo Hà có tích xưa nay còn truyền
Quan Hoàng Bảy trần miền Băc địa
Hợp binh hùng lục thuỷ Thao Giang
Quân cơ mưu lược luận bàn
Doang trung thường có hai hoàng vào ra
Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà chính vị
Cùng tướng công đệ nhị Hoàng Hai
Can qua dâu bể biến dời
Anh hùng xưa đã ra người cung tiên
Nhớ công đức lập đền phụng sự
Thổ, Mán, Nùng tiên nữ dâng hoa
Thú vui điếu khách bàn trà
Phong lưu thuốc cống Bảo Hà dâng ông
Hoàng hoa tửu khăn hồng gối xếp
Ngự tính tình phong nguyệt hoạ ca
Nhắn ai lên đất Bảo Hà
Nếm mùi phong nguyệt ấy là thần tiên
Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích
Quan Bảo Hà thực đích trung quân
Sinh thời làm tướng trung thần
Tấc lòng yêu nước thương dân hãy còn
Dẫu bể cạn non mòn cũng quyết
Thử ra tài cho biết oai danh
Bao phen lẫm liệt tung hoành
Định an xã tắc đề binh cõi ngoài
Đất Lào Cai là nơi dụng võ
Quyết ra tay đội ngũ tiến công
Biên cương súng nổ đùng đùng
Sa trường sương núi máu sông chẳng nề
Đem quân về Thất Khê phòng thủ
Đền Bảo Hà lạc thú huê viên
Mãn tuần chiếu hạc hồi thiên
Tấm thân thoát lánh nghiệp duyên cõi trần
Bỗng một trận sầu vân ám kết
Hiện chân hình dạo Bắc hết Nam
Vui cùng nước biếc trăng ngàn
Tốt tươi quả lạ trăng vàng đìu hiu
Độ dân xã ngày Nghiêu tháng Thuấn
Cõi Việt Nam Bắc trấn oai danh
Từ bi cải dữ làm lành
Chọn ngươi nữ tú nam thanh chấm đồng
Kẻ xuôi ngược dưới sông trên bộ
Ai khẩn cầu tế độ thì qua
Hoàng về trắc giáng điện toà
Hộ trì đệ tử vinh hoa thọ trường.
Ai lên Trái Hút Bảo Hà
Đền thờ ông Bảy ấy là cảnh tiên
Trước cửa đền thiên nhiên tạo dựng
Núi xếp tâng vách đứng cheo leo
Suối trong uốn lượn qua đèo
Sông sâu nước chảy thác reo quanh đồi
Đất Lao Cai chung linh dục tú
Huyện Bảo Yên mọi thú mọi xinh
Quan Bảy Hoàng tối tú anh linh
Sử xanh ghi chép lưu danh muôn đời
Khắp muôn nơi ơn nhờ đức cả
Vâng mệnh trời giáng hạ trần gian
Quan Hoàng vâng lệnh thiên nhan
Bách tiên chư tướng tiễn Hoàng xuất cung
Năm Cảnh Hưng hậu Lê lưu tích
Giặc Bắc phương đạo nghịch bất dung
Quan Bảy Hoàng đội lệnh tiên phong
Khởi binh dẹp loạn lên công hàng đầu
Vùng Quy Hóa ai hầu dễ biết
Châu Văn Bàn lập địa thành sơn
Gió mưa trăm trận chẳng sờn
Mưu cao kế hiểm biết hơn liệu đường
Gương trung chính cương thường hiếu nghĩa
Định thiên cơ trận địa chẳng sai
Thất nguyệt,chính nhật,nhật lai
Điện minh phụng bệ long ngai hiển thần
Nổi một trận phong vân gió thét
Mới hiển thần khắp hết đâu đâu
Bốn phương nam bắc khẩn cầu
Bảo Hà thắng tích nhiệm mầu còn ghi
Quan Hoàng Bảy độ trì ban phước
Thượng đẳng thần đã được sắc phong
Quyền cai tam phủ công đồng
Quyền Hoàng cai quản thanh đồng bốn phương
Khi nhàn hạ bàn đèn điếu thuốc
Chén rượu quỳnh càng chuốc càng say
Trà sen trà cúc thơm bay
Ô Long tiên tửu vơi đầy đầy vơi
Nay đệ tử văn mời giáng hạ
Thỉnh đức Hoàng xa giá ngự lên
Hoàng về trắc giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường.
Thơ(ngâm trước khi chuốc trà ngự thuốc…)
Khi vui hiến tửu nhậm trà
Ô long nha phiến yên hà rất sang
Diên tẩu thiết nhĩ đồng đen
Khay tầm hổ phách lạng nguyên vàng mười
Đầu xe bít ngọc tam khôi
Tiêm vàng móc bạc có chuôi bằng ngà
Khay tầm giát những vàng hoa
Chụp đèn ngọc thạch in hoa tứ bình
Hộp trầu ông khảm tứ linh
Bên trong long phượng đua tranh đôi đầu
Thuốc răm chính cống bên tàu
Mười hai tiên nữ tiêm hầu Hoàng xơi
Khói bay ngát bốn phương trời
Hút dăm ba điếu ngự vui thanh nhàn
Cô dâng nghiên mực bằng vàng
Cô dâng bút ngọc Quan Hoàng đề thơ
Thơ phú trong văn ông Bảy
Trần ai tri kỷ
Khách tài tình hồ dễ mấy ai hay
Cõi nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày
Say cũng luỵ không say thời cũng tục
Khoảng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Trái càn khôn hun đúc vững bền tay
Kho vô tận không xoay mà vẫn đủ
Giáo trăm trận xông pha ngoài huyệt hổ
Khách tài tình còn nợ thú phong lưu
Bóng hoa đăng soi tỏ mặt anh hào
Dẫu khanh tướng cũng siêu siêu mùi thế vị
Ai đã biết trần ai tri kỉ
Có hay lòng tráng sĩ lúc đêm xuân
Sáo vi vu gió đục mây vần
Cho bõ lúc tang bồng non với nước
Gió xuân thổi hương bay ngào ngạt
Vẳng cung đàn khúc hát gợi hồn xuân
Tài tình hỡi khách thi nhân
Vậy có thơ rằng:
Trù hoạch quân cơ tạm đắc nhàn
Nung gan thành sắt luyện tiên đan
Vi vu sáo trúc trời mây khói
Kỳ cục thâu canh đất nổi hoàng
Tuệ nhật sáng soi lòng dũng kiệt
Cương thường nặng gánh dạ sắt son
Ấy mùi phong nguyệt là thế thế
Giục ả phù dung Cuốc gọi hồn
Đượm mùi phong nguyệt nước non non
Đê mê quốc tuý quốc hồn xưa nay
Phù dung hồn hiện đau đây
Dường như ngọn cỏ cành cây la đà
Hay còn đắm nguyệt say hoa
Mau ra tiêm thuốc pha trà Quan Hoàng Bảy xơi
Con Vua Thượng Đế Đức Vua cha
Giáng tại sơn lâm trấn Bảo Hà
Diện mạo hồng hào tươi vẻ ngọc
Dung nghi tươi tốt khác nào hoa
Khi vui cung kiếm khi đàn hát
Nhã thú nhã yên lúc ẩm trà
Say thơ say phú say câu hát
Say nợ tang bồng tỉnh lại say
Say tình non nước câu kim cổ
Say với non sông chuyện tháng ngày
Khách trần hồ dễ ai hay
Tang bồng hồ thỉ hẹn ngày vinh hoa
Tuyết trắng trăng trong ,hoa thơm gió mát
Mượn cung đàn câu hát,diễn hồn thơ
Man mác không gian ,hương đưa khói toả
Chí tang bồng muôn ngả khắp mọi nơi
Trong vũ trụ rộng không thế giới
Giấc mơ màng cõi ấy bồng lai
Cảnh u nhàn tùng cúc trúc mai
Nơi tĩnh mịch thú riêng người biết thú
Nâng chén rượu ngâm câu thơ cổ
Phải chăng hồn Lý, Đỗ còn đây
Rượu bồ đào,nhấp cạn chưa say
Trà long tỉnh ,hương bay thoang thoảng
Hát nhịp một:
Nhắn ai lên đất Bảo Hà
Nếm mùi phong nguyệt đó là cảnh tiên (Xáng u xáng u lưu phàn)
Hỏi rằng mói gặp đào nguyên
Yên hà mới gặp cảnh tiên nơi phàm trần (Xáng u xáng u lưu phàn)
Cỏ cây hoa lá tần ngần
Hoa đào năm ngoái mười phần kém xa (Xáng u xáng u lưu phàn)
Phàm trần phút gặp người tiên
Lạ thay Lưu,Nguyễn cũng duyên tình cờ (Xáng u xáng u lưu phàn)
Cung trăng ai hẹn bao giờ
Vì đường đi hái thuốc tình cờ gặp tiên (Xáng u xáng u lưu phàn)
Lâng lâng rũ sạch ba nghìn
Một ngày đệ tử cũng duyên nợ nhiều (Xáng u xáng u lưu phàn)
Giang tay mở khoá động đào
Rẽ mây cho tỏ lối vào Bảo Hà Sơn (Xáng u xáng u lưu phàn)
Non xanh ai đúc nên bầu
Trần gian ai dễ được hầu mà theo (Xáng u xáng u lưu phàn)
Xanh xanh toà đá phủ rêu
Ai người có phúc được theo Ông Bảy Bảo Hà (Xáng u xáng u lưu phàn)
Lệnh sai thập nhị tiên nàng
Cô nào việc ấy sửa sang ra hầu
Cô Cả pha nước trà tàu
Sơn lâm vừa ý gật đầu ban khen
Cô Đôi dâng bộ khay đèn
Xe ngà tẩu sứ móc tiêm nạm vàng
Cô Ba dâng hộp thuốc ngang
Thế là vừa ý ông Hoàng sơn lâm
Cô Tư đốt đỉnh nhang trầm
Ngọn đèn khêu tỏ tay cầm móc tiêm
Cô Năm dâng hộp bánh nguyên
Kẹo lạc thuốc cống, cảnh tiên ai bì
Cô Sáu tính nết nhu mì
Dâng con tuấn mã, Hoàng đi chấm đồng
Cô Bảy nảy khúc đàn thông
Miệng ca tay múa năm cung nõn nà
Cô Tám dâng chiếc lược ngà
Hai tay chải chuốt thật là khéo thay
Cô Chín yểu điệu ai tày
Ngày ngày dâng một đôi giày hầu ông
Cô Mười thắt đáy lưng ong
Canh ba giờ tí lồng đèn bước ra
Cô Mười Một quạt nước pha trà
Ấm tiên bình ngọc,tay ngà dâng lên
Cô Mười Hai múa lượn sênh tiền
Mười hai tố nữ đôi bên rõ ràng về trắc giáng bản đền
Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường
Cảnh thanh nhàn Ông về giá ngự
Ngự về Đồng ông dự hội Tổ tôm
Màn loan chắn gió Đông nồm
Tiên Rồng bóng quế chiều hôm đánh bài.
Bóng ông hoàng khoan thai cách điệu,
Sập Công đồng trải chiếu Long vân.
Hương xông tỏa ngát xa gần
Giang tay châu báu kim ngân xoay bài.
Tiên Tứ cố Tam khôi Nhất Kính.
Tứ Thập Hồng, Bạch định, chi chi.
Tôm, lèo bạch thủ gà ly
Bí Tứ xuyên lục, nước gò Hoàng cũng chơi
Thất Văn đen xạm đen xì
Cùng cây tam sách cho vào đĩa tô
Hồi đầu bạch thủ ù chi
Hai lèo, tám đỏ lại thêm cửa trì.
Các cô mừng rỡ hò reo .
Hồi sau thông Bạch định, cả Chì cả tôm.
Nhắn ai lên tới chợ Cầu Nôm.
Hỏi chàng Cửu vạn chiều hôm đợi chờ.
Sông sâu nước chẩy lững lờ.
Cửu Vạn, Bát Sách còn chờ Chi Chi
Lúc thanh nhàn còn gì thú vị
Chơi ván bài so trí thấp cao
Ông Hoàng còn thú thanh tao
Bộ bài một trăm hai mươi nước các cô trao cho Hoàng
Tay tiên bắt các tiên nàng
Tam vạn tam sách có chàng thất văn
Ông cho hưởng lộc làm ăn
Buôn may bán tốt quanh năm lộc tài
Hồi sau chéo cánh xoay bài.
Xuống hai dịch một ai nào dám chơi
Trước Điện Tiên mua vui vào hội.
Dâng đào tiên đỏ ối điểm tâm.
Xoay bài chuyển nhạc bát âm.
Đàn thông nhạc vũ hòa cùng phụng minh
Lên Thiên đình vui cùng Tiên nữ.
Về Trần gian phụng sự uy linh.
Thần thông biến hóa hiện hình.
Độ cho Đệ tử hiển vinh đời đời.
Lệnh truyền điếu ống đồi mồi
Thuôc lào Vĩnh Bảo hút chơi vài tuần
Khói thơm tỏa khắp xa gần
Hương bay ngào ngạt hương xuân trẻ già
Kêu ròn tựa thể pháo hoa
Thuốc lào Tiên Lãng gần xa tiếng đồn
Đượm mùi phong nguyệt nước non
Đê mê quốc túy quốc hồn xưa nay
Đố ai hút thuốc không say
Ông hoàng hút thuốc khói bay rợp trời
Hoa thơm quả ngọt tốt tươi
Lộc ban già trẻ mọi người bình an
Mấy khi giá ngự trần phàm
Văn hay tiền hết hoàng ban khăn hồng
Lệnh truyền xa giá hồi cung
Ghế đem tiền chuộc khăn hồng dâng lên
Cuộc cờ xoá xoá bày bày
Ván bài tam cúc xưa nay tức cười
Được thua ván kết mà thôi
Khi suy tướng sĩ cũng đi đời nhà ma
Khi bình địa, lúc phong ba
Hiếu trung giữ tốt ấy là tài danh
Pháo kia nổi hiệu lôi oanh
Tốt không bảo vệ giữ mình được sao
Người nay đợi lệnh Thiên tào
Giữ xe pháo mã điều vào giáp công
Tốt đều mở hội xung phong
Bắc cầu sĩ tượng xe hồng tiến ra
Xưa nay việc nước việc nhà
Giữ bền sĩ tốt ấy là thành công
Đĩa vàng bát ngọc bày ra
Bạn tiên trải chiếu bày ra tức thì
Phàm tâm tả hữu hồ kỳ
Ông Bảy ngồi xóc đĩa bốn bề xôn xao
Tiếng tiền trong đĩa rào rào
Ông Bảy bán chẵn ghế nào dám cân
May ai có phúc có phần
Mở ra một sấc mười phân vẹn mười
Một quan giam lại thành hai
Ván sau gấp bốn hoàng thắng hoài như không
Trần gian khát nước tứ tung
Bảo nhau đánh lẻ khắp trong một bàn
Tiền tiền bạc bạc dư muôn
Biết dâu đen đỏ thiệt hơn thế nào
Cơn đen như gió thổi ào
Năm canh hoàng trút cả vào trần gian
Những toan xe giá về ngàn
Vẳng nghe tiếng hát quan hoàng lại ngự vui.
Một Vài Cảm Nhận Về Tập Thơ “Tháng Bảy”* Của Hoàng Minh Đức
(QBĐT) – “Tháng bảy” là tập thơ đầu tay của tác giả Hoàng Minh Đức. Toàn tập gồm 103 bài. Trong đó có 43 bài Đường luật. Bài thứ 103 viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp – ứng với số tuổi của Đại tướng.
“Tháng bảy” chính là tinh chất cuộc đời được chắt lọc, chưng cất thành thơ. Tác giả Hoàng Minh Đức nguyên giáo viên dạy toán, là chiến sĩ binh chủng xe tăng – thiết giáp, từng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Anh tìm đến với thơ như tìm đến một người bạn, một thú vui tao nhã, một món ăn tinh thần không thể thiếu.
Càng từng trải, càng hiểu biết càng trọng ân nghĩa! Tác giả Hoàng Minh Đức đặc biệt nhắc nhiều đến công ơn của Đảng, của Bác bởi anh là người tận mắt chứng kiến sự đổi thay của quê hương, đất nước, của đời sống nhân dân.
Trong tập thơ “Tháng bảy”, ta bắt gặp các tiêu đề: Mừng đại hội Đảng, Mùa xuân có Đảng, Trọn đời theo Đảng, Hoa thơm dâng Bác, Mùa xuân nhớ Bác… Ở mảng đề tài này, tôi đặc biệt lưu ý bài “Đôi dép Bác Hồ”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.
Mươi năm lại đây có một hiện tượng hơi lạ. Đó là sự hồi sinh của thể loại thơ Đường luật – một thể thơ truyền thống, tưởng chừng đã mai một sau cuộc cách mạng thơ “long trời lở đất” thời 1930 – 1945. Đúng vào lúc trên văn đàn xuất hiện ngày càng nhiều những bài thơ tân hình thức, thơ không vần… thì đột nhiên phong trào làm thơ Đường luật được khơi dậy. Một số người hì hục tập làm thơ Đường luật rồi chép chuyền nhau, xướng hoạ với nhau như là sự đối nghịch, thách thức với thơ không vần, thơ tân hình thức. Càng ngày số người làm thơ Đường luật càng đông, lan rộng từ Nam chí Bắc. Phần lớn những người làm thơ Đường luật là những bậc cao niên. Các tuyển tập thơ Đường luật bề thế lần lượt ra đời, góp phần làm cho bộ mặt thơ ca nước nhà thêm phần đa dạng, phong phú. Cái chủ yếu là các cụ tìm được một hình thức thơ phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của mình.
Vì thế, tôi không hề ngạc nhiên khi thấy trong “Tháng bảy” có đến 43 bài thơ Đường luật. Điều khiến tôi ngạc nhiên là tác giả Hoàng Minh Đức chưa phải là bậc cao niên nhưng lại khá sành thể thơ thất ngôn bát cú. Mới đây, tôi có làm một bài theo thể thơ này mới biết làm thơ thất ngôn bát cú Đường luật khó đến mức nào. Trong 43 bài Đường luật của Hoàng Minh Đức, theo cảm nhận chủ quan của tôi thì bài “Đôi dép Bác Hồ” là trội hơn cả:
Ngày ấy ra đi cứu nước nhà Đạp bằng gian khó vượt phong ba Lên rừng xuống biển không hề nản Ra Bắc vào Nam chẳng nề hà Thống nhất non sông xây đất nước Giữ yên bờ cõi dựng sơn hà Mắt nhìn đôi dép cao su Bác Con cháu theo Người vững bước xa
Vì đang nói đến đôi dép của Bác nên tác giả dùng hình ảnh “đạp bằng gian khó” là rất phù hợp. Những câu thực và luận đối rất chỉnh. Với đôi dép đơn sơ ấy, Người đã từng “lên rừng xuống biển” “ra Bắc vào Nam”. Thông qua hình tượng đôi dép, Hoàng Minh Đức đã khái quát cả cuộc đời hoạt động cách mạng kiên trì, gian khổ vì nước vì dân của Bác. Câu kết Con cháu theo Người vững bước xa cũng rất phù hợp với nội dung toàn bài. Tứ thơ khá chặt, niêm luật khá chuẩn.
“Cây có cội, nước có nguồn”, tình yêu quê hương, đất nước vừa là truyền thống vừa là đạo lý của người Việt Nam. Hoàng Minh Đức hết sức tự hào về tổ tiên con Lạc cháu Hồng, về vùng đất Minh Lệ, Ba Đồn, Quảng Bình mà anh đang sinh sống. Tác giả “khoe” một cách hồn nhiên:
Minh Lệ quê tôi thật hữu tình Bốn mùa cảnh sắc đẹp lung linh Ba U sừng sững mây vờn núi Bốn Miếu cheo leo sóng vỗ ghềnh
Anh có bài thơ “Xóm nhỏ tôi yêu” cũng rất dễ thương:
Xóm nhỏ tôi yêu chín mươi mốt nóc nhà Năm bà mẹ anh hùng, ba mươi hai liệt sĩ Có đại tá, nhà thơ, Bí thư Tỉnh ủy Có cháu tật nguyền, cha nhiễm chất độc da cam
Cái xóm này quả là hết sức đặc biệt! Hai câu đầu là “những con số biết nói” về lịch sử bi hùng của dân tộc. Hai câu sau là sự đối lập giữa niềm tự hào và lòng xót thương. Đó là cách thể hiện súc tích, gợi nhiều liên tưởng.
Đọng lại trong tôi sau khi đọc xong tập thơ Tháng bảy của Hoàng Minh Đức là hình ảnh những người mẹ. Đầu tiên là nỗi đau của những người mẹ có những đứa con hy sinh trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ:
Tháng bảy về trắng sắc mưa ngâu Nắng cháy đỏ trên miền đất lửa Tháng bảy về mẹ ngồi bậu cửa Khắc khoải chờ con, đợi các anh về Tháng bảy về lòng mẹ tái tê Đầu khăn trắng, ruột đau quặn thắt Mẹ run rẩy đưa bàn tay dụi mắt Nơi cao xa có nghe tiếng gọi hồn…
Đọc bài thơ này, tôi hiểu vì sao Hoàng Minh Đức lấy Tháng bảy làm tiêu đề cho tập thơ. Phải chăng Tháng bảy là bài thơ anh tâm đắc nhất? Chỉ riêng hai khổ thơ đầu đã nói lên tất cả. Những thanh trắc: trắng, quặn thắt, dụi mắt đã phần nào diễn tả được nỗi lòng của những người mẹ ngồi bậu cửa đợi con mỗi năm tháng bảy về.
Còn đây là hình ảnh người mẹ ruột của anh:
Thương cha biền biệt mỏi mòn Đồng sâu mẹ lội, núi non mẹ trèo Miền Trung một dải đất nghèo Liêu xiêu mái rạ hanh heo gió lùa
Nỗi vất vả của mẹ được tác giả khái quát bằng một câu thơ giàu hình ảnh Đồng sâu mẹ lội, núi non mẹ trèo. Giá đổi núi non thành núi cao thì hợp với đồng sâu hơn chăng? Từ liêu xiêu được nhiều người dùng, nhưng liêu xiêu mái rạ là cách dùng khá mới mẻ. Riêng bài Nhớ mẹ cuối năm là một trong những bài thơ tôi yêu thích, bởi Hoàng Minh Đức đã gợi lại đúng như hình ảnh mẹ tôi mỗi khi tết đến, xuân về. Thế nên khi đọc những dòng sau đây tôi hết sức đồng cảm:
Ba mươi tất niên, ngày cuối năm Giàn mướp bâng khuâng, bướm vàng đến đậu Mẹ gói bánh chưng, lui cui mẹ nấu Tóc vương vương sợi khói lam chiều Xuân này mẹ tôi không về được nữa rồi Để lại khói hương buồn hiu hắt Mẹ nằm sâu dưới ba thước đất Mưa gió sụt sùi quặn thắt lòng tôi
Gấp lại “Tháng bảy”, tôi hơi tiêng tiếc: Nếu như tập thơ được tuyển chọn kĩ hơn, mạnh dạn loại bỏ một số bài đang còn dễ dãi với những đề tài quá ư quen thuộc. Tôi hy vọng những tập thơ sau của anh sẽ được chọn lọc kĩ hơn, đề tài đa dạng hơn, góc cạnh hơn, có chiều sâu nội tâm hơn.
Truyền Thuyết Con Rồng Cháu Tiên
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc Long Quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quâ n đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: “Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! “
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: “Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!”. Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: “Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này”.
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
– Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói:
– Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi , đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long
Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
Nguồn: Truyện cổ tích Tổng hợp.
Cập nhật thông tin chi tiết về Truyền Thuyết Ông Hoàng Mười; Ông Hoàng Bảy trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!