Xu Hướng 5/2023 # Truyện Cổ Tích Nhật Bản – “Urashima Tarou” # Top 12 View | Kovit.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Truyện Cổ Tích Nhật Bản – “Urashima Tarou” # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Truyện Cổ Tích Nhật Bản – “Urashima Tarou” được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Vì truyện cổ tích dành cho trẻ em luôn chứa đựng những lời răn dạy như một bài học sống, nên những mẩu truyện cổ tích của từng quốc gia chính là giáo trình phù hợp để tiếp xúc với nền văn hóa của đất nước đó.

Tuy nhiên trong số đó cũng có những mẩu truyện không chứa đựng bài học gì cả. Đó chính là “Urashima Tarou”.

Sơ lược truyện Urashima Tarou

Ngày xửa ngày xưa ở một vùng đất nọ, có một cậu ngư dân trẻ tên là Urashima Tarou. Một buổi sáng nọ, khi Tarou vừa định thả câu, thì lúc đó một con rùa lớn bị lũ trẻ bao vây và hùa nhau bắt nạt chú rùa.

Nàng công chúa xinh đẹp “Oto-hime”, cũng là chủ nhân của lâu đài Thủy cung đó, đã tiếp đãi với Tarou bằng bữa tiện thịnh soạn, những bài nhạc tươi vui và điệu múa đẹp. Tarou cũng vô thức quên mất rằng thời gian cứ thế dần trôi qua và cậu đã sống ở đó suốt 3 năm.

Urashima Tarou sau khi trở về đất liền thì khung cảnh cũng đã khác. Cha mẹ hay hàng xóm không còn sống nữa, những người quen biết cũng không còn một ai. Khoảng thời gian 3 năm Tarou sống ở Thủy Cung thì trên đất liền đã là 300 năm trôi qua rồi. Thứ duy nhất mà Tarou còn lại chỉ là chiếc hộp kỷ vật đã nhận được từ công chúa Oto-hime.

Tarou cứ đau khổ như thế và nghĩ rằng chắc sẽ có manh mối gì đó, nên đã lỡ mở chiếc hộp được dặn là tuyệt đối không được mở ra. Ngay lập tức, từ trong chiếc hộp có một làn khói trắng bay lên và che kín mặt Tarou. Chẳng mấy chốc khi làn khói biến mất, Tarou đã trở thành một ông lão.

Giải nghĩa truyện Urashima Tarou

Trong truyện cổ tích, theo lý thuyết là người làm việc tốt sẽ có kết thúc có hậu. Thế nhưng Urashima Tarou dù đã cứu giúp chú rùa, thế nhưng cuối cùng lại bị lấy mất thời gian và trở thành một cụ già trong một thế giới không ai biết gì về chàng cả.

Đã có nhiều luận văn hay câu chuyện khác nhau được đưa ra trên khắp nước Nhật xoay quanh việc giải nghĩa đoạn kết này. Có người giải nghĩa rằng “Chắc hẳn nghĩa đen trong câu chuyện đẹp này là dù chỉ cứu chú rùa có một chút thôi nhưng Tarou đã nhận sự tiếp đãi quá nhiều”, cũng có người cho rằng “Đó là sự trả thù của Oto-hime dành cho Urashima Tarou vì đã chỉ nghĩ đến bản thân và quyết lên mặt đất”,…

Còn bạn, bạn nghĩ như thế nào về cái kết trên?

Truyện Cổ Tích Nhật Bản – “Momotaro”

Ngày xửa ngày xưa, ở Nhật Bản có hai hai ông bà lão sống chung với nhau. Một ngày nọ, ông lão lên núi đốn củi, còn bà lão ra sông để giặt đồ.

Khi bà lão đang giặt đồ thì từ thượng nguồn có một quả đào lớn trôi đến và bà đã mang nó về nhà. Bà lão định sẽ ăn nó cùng với ông lão và đã cắt nó bằng một con dao làm bếp. Đột nhiên, họ phát hiện một em bé ở bên trong. Ông và bà đặt tên cho em bé là “Momotaro (Đào Thái Lang) sinh ra từ quả đào”.

Momotaro lớn nhanh như thổi và trở thành một chàng trai mạnh khỏe. Một ngày nọ, cậu nói rằng “Con sẽ đến Onigashima (đảo quỷ) để xua đuổi con quỷ!”. Thế là ông bà lão đã chuẩn bị hành trang và bánh dẻo Kibidango cho cậu.

Trên đường đến Onigashima, có một con chó bị đói bụng. Momotaro đã cho chú chó một cái bánh Kibidango và thu nạp nó làm bạn đồng hành. Tương tự như vậy, khỉ và chim trĩ cũng được cậu thu nạp.

Momotaro đã đến Onigashima cùng với những người bạn của mình và đánh bại con quỷ. Cậu mang về những kho báu mà quỷ đã cướp được và sống sung túc với ông bà lão. Họ sống hạnh phúc đến suốt đời.

Nguồn gốc của Momotaro

Momotaro chỉ là một câu chuyện cổ tích nhưng lại có nhiều “Quê hương của Momotaro” tại nhiều nơi ở Nhật Bản đấy! Nơi có truyền thuyết vững chắc nhất là tỉnh Okayama.

Tỉnh Okayama từ lâu đã được gọi là “vương quốc kibi” và có đặc sản là kibidango. Kibidango trong truyện Momotaro là một loại bánh là từ một loại thực vật họ lúa nhưng vì cùng có chữ “kibi” nên bánh ở tỉnh Okayama luôn được bán cùng với mối dây liên kết với truyện Momotaro.

Ngoài ra, tương truyền rằng ở tỉnh Okayama có một nhân vật thuộc gia đình hoàng gia cổ đại tên là Kibitsuhiko. Theo truyền thuyết thì con quỷ Ura (Ôn La) đã bị đánh bại bởi ông và ba người tùy tùng, nên ông được cho là đã trở thành hình mẫu của nhân vật Momotaro.

Vùng đất nơi truyền thuyết Momotaro còn sót lại ở tỉnh Okayama

Sự yêu mến dành cho Momotaro ở tỉnh Okayama rất mạnh mẽ. Tên sân bay Okayama được đặt là “Sân bay Momotaro” dựa trên ý kiến của người dân. Ngoài ra còn có một bức tượng Momotaro ở phía trước ga Okayama và nó chính là biểu tượng của thành phố.

Ngôi đền Kibitsu (nơi thờ Kibitsuhiko, người là hình mẫu của nhân vật Momotaro) là một công trình kiến trúc từ thế kỷ 14 và nơi đây là ngôi đền uy tín nhất ở tỉnh Okayama. Chính điện có kiến trúc rất hiếm thấy chỉ có ở đền Kibitsu và là một di sản quốc gia. Ngoài ra, khuôn viên đền cũng tận dụng rất nhiều những yếu tố tự nhiên cùng với các khu vực ngập tràn hoa theo mùa.

Tên địa điểm Đền Kibitsu (吉備津神社)

Trang web http://www.kibitujinja.com/

Số điện thoại 086-287-4111

Địa chỉ 931 Kibutsu, Kita-ku, thành phố Okayama, tỉnh Okayama

Bản đồ

Ngoài ra Kinojo (Thành của quỷ), nơi được cho là có quỷ Ura, là một tàn tích của lâu đài có thực từ thời cổ đại và phần còn lại của nó vẫn còn tồn tại. Mặc dù không có tên trong sử sách nhưng theo nghiên cứu thì nó có từ thế kỷ thứ 7. Nó trùng vào thời điểm thái tử Nakano Ooe quay trở lại Nhật Bản và xây dựng pháo đài phòng thủ từ khu vực Kyushu đến khu vực Kansai sau khi bị đánh bại tại trận Hakusukinoe diễn ra trên Bán đảo Triều Tiên.

Nơi đây có tầm nhìn biển rất tốt. Cổng và tường cũng được khôi phục. Nơi đây được chọn là một trong 100 lâu đài nổi tiếng của Nhật Bản. Khác với các lâu đài thời trung cổ, bạn có thể tận hưởng không khí của lâu đài thời cổ đại tại nơi này.

Tên địa điểm Visitor Center núi Kijouzan

Trang web http://www.city.soja.okayama.jp/bunka/ bunka_sport/hakubutu/kinojouzan_vc.html

Số điện thoại 0866-99-8566

Địa chỉ 1101−2 Kuroo, thành phố Soja, tỉnh Okayama

Bản đồ

Giờ mở cửa 9:00 ~ 17:00

Ngày nghỉ Mỗi thứ Hai (Nếu là ngày lễ thì nghỉ bù sau ngày lễ) Từ 29/12 đến 3/1

“Lời Hứa” Trong Truyện Cổ Tích Việt Nam Và Nhật Bản

1. Tỉ lệ những truyện cổ tích Việt Nam và Nhật Bản có đề cập đến lời hứa

Mỗi dân tộc khác nhau mang trong mình những tính cách khác nhau. Và những tính cách đó phần nào được thể hiện thông qua những câu chuyện cổ tích. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sử dụng các tài liệu trong hai cuốn: Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội – 1999) và Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam (phần truyện cổ tích người Việt) (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội – 2001). Thống kê tỉ lệ các truyện xuất hiện lời hứa trên tổng số các truyện tham khảo chúng tôi thu được kết quả như sau:

Từ những thống kê trên, ta cũng phần nào hiểu được về sự khác biệt giữa người Nhật và người Việt trong việc đề cập tới lời hứa. Với tỉ lệ cao như vậy, có thể đánh giá là lời hứa trong cuộc sống của người Nhật đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Người Nhật vốn được đánh giá là những người coi trọng nguyên tắc, danh dự. Do vậy, lời hứa thường được đề cập nhiều trong cuộc sống của người Nhật. Việc người Nhật coi trọng lời hứa đến vậy cũng phần nào là do ảnh hưởng của môi trường sống khắc nghiệt. Thuở xưa, Nhật Bản là một quốc đảo biệt lập với thế giới bên ngoài, họ có giao lưu với Trung Quốc, Triều Tiên nhưng ở mức độ rất thấp. Khi gặp khó khăn họ chỉ có thể tự cố gắng, khi sự việc không thành họ cũng chỉ có thể tự trách mình và nhìn nhận lại mình. Ngoài điều kiện tự nhiên khắc nghiệt với nhiều thiên tai như động đất, sóng thần v.v. Nhật Bản còn có một lịch sử thăng trầm với những giai đoạn mở cửa ồ ạt và đóng cửa triệt để trong lịch sử, những cuộc nội chiến liên miên giữa các dòng họ, những sắc lệnh quản lý chặt chẽ cuộc sống hàng ngày của người dân. Chính vì vậy, muốn tồn tại và phát triển họ chỉ còn cách thật nghiêm khắc với bản thân mình, với mọi người xung quanh. Điều này không có gì khó hiểu vì một chút sai lầm cũng có thể phải chịu một hậu quả nặng nề, cũng vì vậy họ không thể tha thứ cho một hành vi thiếu trách nhiệm như không giữ lời hứa. Trong khi đó, tỉ lệ có đề cập đến lời hứa trong các truyện cổ tích Việt Nam là 6 %, thấp hơn ba lần so với người Nhật (18,2 %). Sự khác biệt về tính cách được thể hiện rõ ở những con số này. Việt Nam chúng ta vốn thuần nông với một nền nông nghiệp lúa nước. Người dân sống thật thà, chân chất, bình dị. Nhìn chung có thể nói người Việt Nam dễ tính và điều kiện ở Việt Nam dễ sống hơn so với người Nhật. Chúng ta sống trên bán đảo Đông Dương thuận tiện giao thông, luôn giao hòa với các nền văn hóa văn minh, đặc biệt là từ Trung Quốc, vì vậy người Việt tính tình mềm mỏng, ôn hòa. Tuy nhiên, dân ta cũng thường phải đấu tranh chống lại quân xâm lược đến từ phương Bắc. Vì là một nước nhỏ bé nên luôn phải tìm kiếm đồng minh hơn là tạo ra những kẻ thù nên dân ta dễ tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Do đó lời hứa, tuy là điều không thể thiếu trong cuộc sống, song không phải là vấn đề gay cấn và đặt ra thường xuyên như với người Nhật. Bởi vậy, lời hứa trong truyện cổ tích của chúng ta có xuất hiện nhưng tỉ lệ không nhiều.

2. Hoàn cảnh và đối tượng của lời hứa

2.1. Hoàn cảnh của lời hứa

Khi nhắc đến lời hứa là nhắc đến một điều rất quan trọng và thiêng liêng, vì vậy hoàn cảnh xảy ra lời hứa cũng thường là những hoàn cảnh mang tính “khác thường”. Trong truyện cổ tích Nhật Bản thì sự “khác thường” đó, trong nhiều truyện, là những trường hợp hy hữu, đôi khi mang nhiều yếu tố thần kỳ. Do phạm vi của bài viết nên chúng tôi chỉ xin đưa ra một vài ví dụ nhất định.

Hoàn cảnh xảy ra lời hứa nhiều khi vô cùng gay cấn và bắt buộc phía kia phải thực hiện. Giữa cái chết và lời hứa, bên nào sẽ nặng hơn? Giữa sự chia ly và lời hứa, con người sẽ chọn như thế nào? Sự đấu tranh về tâm lý như vậy thường hay xảy ra trong truyện cổ tích Nhật Bản. Từ điều này, chúng ta sẽ có thấy người Nhật đa phần đều rất coi trọng “lời hứa”.

Lấy thí dụ với các truyện “Bà chúa tuyết”; “Chàng Hoichi không tai”; “Những con cua của đền Kanimanji”, sẽ thấy: Ở đó, nhân vật chính dường như bị đặt vào tình thế giữa cái chết và lời hứa. Nếu không hứa thì sẽ phải chết? Vậy nên chọn bên nào? Dĩ nhiên là tất cả các nhân vật của chúng ta đều chọn lời hứa. Trong truyện “Bà chúa tuyết” lời hứa giữa Minokichi và bà chúa tuyết xảy ra khi bà đến lấy mạng cha chàng. Trong một chuyến đi đốn củi như thường lệ của hai cha con nhà Minokichi, đột nhiên cha chàng nói những điều thật kỳ lạ như thể báo trước điều gì khác thường sắp tới: “Con có biết không con trai, khi một người đàn ông nào ở tuổi cha, họ cũng bắt đầu muốn có cháu. Bây giờ không phải là đã đến lúc con cần kết hôn rồi ư?” (1). Thật lạ lùng khi người cha lại nói những lời như vậy giữa rừng già phủ đầy tuyết như thế, Minokichi cảm thấy đó như lời cuối cùng của người cha tội nghiệp. Và rồi trong màn đêm trắng, bà chúa tuyết xuất hiện cướp đi sinh mạng của cha chàng. Bà chúa tuyết có thể cũng đã lấy mạng chàng và mọi chuyện kết thúc ở đó nếu như bà không cảm thấy cảm mến chàng trai. Bà đã lấy mạng biết bao người không thương tiếc nhưng lần này bà lại không nỡ xuống tay. Trong biết bao lần ấy có một lần thật sự khác biệt, bà đã yêu và để cho chàng trai sống nhưng bắt chàng hứa sẽ giữ bí mật về cái đêm đó suốt đời.

Cũng có những truyện thể hiện sự phân vân giữa hạnh phúc (chủ yếu là tình yêu lứa đôi) và lời hứa như trong các truyện như : “Hikoboshi và Orihime”; “Xứ mộng của Jinnai”…

Trong truyện “Hikoboshi và Orihime”, chúng ta bắt gặp một mô típ quen thuộc: Một người trần yêu một nàng tiên. Để được ở bên nàng tiên suốt đời, để được hạnh phúc bên cạnh người mình yêu chàng đã phải vượt qua nhiều thử thách. Chàng phải hứa nhiều lời hứa với bố vợ mình, và trong đó, lời hứa thứ ba là khắc nghiệt và khó vượt qua nhất. Đó là lời hứa chàng phải đứng ba ngày trông dưa trong hoàn cảnh mệt lử vì kiệt sức, nắng như thiêu như đốt, cổ họng cháy khô, không được ăn, không được uống.

Ngoài ra cũng có những truyện khác mà hoàn cảnh của nó là do nhân vật chính đến với lời hứa gần như là một sự tự nguyện, không có yếu tố gay cấn nguy hiểm tới tính mạng. Loại lời hứa này không có sự phân vân giữa sự sống và cái chết nhưng lại đầy yếu tố bất ngờ vì kết cục thật khó đoán biết được như truyện “Con cáo và ông lão”; “Những con rồng của Kita-in”; “Nữ thần nhà trời”; “Sự đền ơn của con hạc”; “Giấc mơ”; “Urashima Taro”…

Ở truyện “Con cáo và ông lão”, con cáo bị ông lão bắt quả tang đang ăn trộm quả đậu nhà ông. Con cáo cất tiếng cầu xin ông lão tha cho nó, đổi lại, nó xin hứa sẽ làm cho ông trở nên giàu có. Câu chuyện chắc chắn không thể tiếp diễn và xảy ra lời hứa nếu con cáo không thể nói được tiếng người và có những phép biến hóa kỳ ảo để giúp đỡ ông lão. Lời hứa này con cáo hoàn toàn tự nguyện và mong muốn được làm để chuộc lại lỗi lầm.

Trong câu chuyện “Những con rồng của Kita-in” có hai lời hứa giữa vị sư trưởng và hai người phụ nữ, một người xin ông ngừng đánh chuông trong vòng 100 ngày còn một người lại xin ông hãy cho nghe tiếng chuông ngay lập tức vào ngày thứ 99 của lời hứa thứ nhất. Con đường dẫn tới lời hứa của vị sư trụ trì chỉ là sự cảm thương cho tâm trạng của cả hai người phụ nữ đó và ông làm điều đó là tự nguyện mà không hề có sự ép buộc.

Như vậy các lời hứa trong cả truyện cổ tích Nhật và Việt đều được đưa ra trong những hoàn cảnh rất đặc biệt và hấp dẫn như một môtíp thường thấy của truyện cổ tích, nhưng tình tiết mỗi chuyện mỗi khác, không chuyện nào giống chuyện nào khiến người đọc nóng lòng tiếp tục theo dõi cho đến cuối truyện. Và đặc biệt, chính những hoàn cảnh đó cũng góp phần khắc họa tính cách hai dân tộc. Người Việt nhẹ nhàng, bình dị, suy nghĩ đơn giản, chân phương với bố cục truyện không chút phức tạp trong vấn đề lời hứa. Ngược lại, người Nhật lại rất cẩn trọng trong vấn đề lời hứa. Lời hứa không được đặt ra một cách dễ dàng mà hầu

hết nó bị nằm trong tình huống bắt buộc hoặc đơn thuần nhất thì cũng là sự trả ơn.

2.2. Đối tượng của lời hứa

Hoàn cảnh của những lời hứa trong truyện cổ tích Nhật Bản thường là những hoàn cảnh “khác thường” có nhiều yếu tố thần kỳ nên những đối tượng của lời hứa đó phần lớn cũng sẽ là những nhân vật mang sắc màu huyền ảo. Ví dụ như Bà chúa tuyết trong truyện cổ tích cùng tên; con Hạc thành tinh trong “Sự đền ơn của con Hạc”; hai người phụ nữ đến cầu xin vị sư trưởng nhưng chính là tinh khí của hai con rồng trú ngụ gần chùa trong truyện “Những con rồng của đền Kita-in”; con cáo biết nói và có nhiều phép biến hóa trong “Con cáo và ông lão”… Điều này càng làm tăng thêm sự thiêng liêng và tầm quan trọng của những lời hứa trong truyện. Qua đó cho thấy đối với người Nhật, mỗi lời hứa không chỉ là một sự giao kèo mà dường như trong đó còn có cả sự chứng giám của các vị thần. Và các mô típ về các nhân vật trong truyện cổ tích Nhật Bản ít khi bị trùng lặp, cho thấy sự sáng tạo không ngừng và luôn yêu thích những cái mới mẻ cũng như tính đa dạng hóa của người Nhật. Dù cùng là lời hứa, nhưng đến đây chúng ta đã thấy được sự đa dạng trong hoàn cảnh cũng như đối tượng của các lời hứa.

Còn trong truyện cổ tích Việt Nam thì những nhân vật trong lời hứa thường là những con người bình thường như: phú ông và người đi ở như trong truyện “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”; “Cây tre trăm đốt”; hay như phú ông và chàng trai đến cầu hôn trong truyện “Giận mày tao ở với ai” v.v… Họ đều là những con người điển hình cho những kiểu người hết sức quen thuộc trong xã hội cũ của Việt Nam, khiến câu chuyện vì thế cũng tăng thêm sự gần gũi, thân quen với người đọc. Đặc biệt, những mô típ nhân vật như trên sẽ làm tăng tính thực tế cũng như thực tiễn cho câu chuyện.

Trong phạm vi hai cuốn: Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội – 1999) và Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam phần truyện cổ tích người Việt (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội – 2001) chúng tôi tiếp tục liệt kê về các dạng lời hứa xuất hiện trong các câu chuyện như sau:

CÁC DẠNG LỜI HỨA TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH NHẬT BẢN CÁC DẠNG LỜI HỨA TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

Như vậy, ở phạm vi nguồn tài liệu về truyện cổ tích Việt Nam và Nhật Bản mà chúng tôi sử dụng thì dạng “lời hứa sẽ làm hay không làm điều gì” chiếm tỉ lệ cao nhất: Nhật Bản 72,7% (8/11 lời hứa), Việt Nam là 100%. Tiếp đó trong truyện cổ tích Nhật Bản là “lời hứa phải giữ bí mật” với 18,2% (2/11 lời hứa) và cuối cùng là “lời hứa thủy chung”: 9,1% (1/11 lời hứa). “Lời hứa phải giữ bí mật” rất được coi trọng đối với người Nhật nhưng lại không phải là điểm nhấn đối với người Việt Nam. Bởi vì người Việt vốn quen với nếp sống của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, con người phải sống thành cộng đồng, phối hợp với nhau để sản xuất trong một thời gian dài nên họ thường sống gần gũi, chan hòa, ít khi giấu diếm nhau điều gì. Ngoài ra sự khác biệt về sự xuất hiện của “lời hứa thủy chung” cho thấy sự khác biệt về khái niệm lời hứa của hai dân tộc. Người Việt Nam thường quan niệm chỉ những lời hứa hẹn với những người ngoài mới được cho là lời hứa còn trong quan hệ gia đình (vợ – chồng) thì lời hứa được đưa vào sẽ tạo cảm giác khách sáo, xa cách nên không mấy khi đề cập đến vấn đề lời hứa giữa vợ và chồng. Ngược lại người Nhật lại rất coi trọng lời hứa, kể cả trong quan hệ gần gũi vợ chồng thì lời hứa vẫn luôn là lời hứa và người hứa hẹn điều đó phải chịu trách nhiệm như đối với bất kỳ lời hứa nào khác.Vì người Nhật chú trọng lời hứa nên các dạng lời hứa của người Nhật cũng rất đa dạng với nhiều hình thức. Còn người Việt mềm mỏng hơn nên dạng lời hứa dường như rất thuần, chỉ có một dạng nổi bật nhất là “lời hứa làm hay không làm điều gì”.

4. Quá trình thực hiện lời hứa 4.1. Điểm chung về lời hứa trong truyện cổ tích Việt Nam và Nhật Bản

Hầu hết lời hứa trong truyện cổ tích đều được đưa ra như một thử thách. Khi tiến hành thực hiện lời hứa cũng chính là vượt qua thử thách và trong quá trình vượt qua thách thức cũng chính là quá trình nhân vật phấn đấu vượt qua chính mình để hoàn thiện bản thân. Trong những truyện đó thì đỉnh điểm của câu chuyện chính là quá trình thực hiện lời hứa.

Những câu truyện cổ tích đều mang tính răn đe, giáo dục rất cao, vì vậy phần nhiều các lời hứa trong chuyện đều không được thực hiện hay dù có thì cũng không thấu đáo, những nhân vật thất hứa sẽ bị trừng trị nghiêm khắc để nêu gương. Hơn nữa, trong các câu chuyện này, các yếu tố cám dỗ, đe dọa… khiến cho nhân vật không thực hiện được lời hứa của mình, lại thường xuất hiện vào những giây phút cuối cùng khi lời hứa gần như được trọn vẹn. Ví dụ tiêu biểu như trong truyện “Những con rồng của đền Kita-in”. Lời hứa sẽ ngừng đánh chuông trong 100 ngày của vị sư trưởng với người phụ nữ thứ nhất đã thực hiện được 99 ngày thì người phụ nữ thứ hai xuất hiện và thỉnh cầu ông hãy cho nghe tiếng chuông ngay lập tức. Giả sử người phụ nữ thứ hai xuất hiện ở ngay ngày thứ nhất, thứ hai sau khi lời hứa vừa bắt đầu, chắc chắn vị sư trưởng đó đã không ngần ngại mà từ chối ngay lập tức. Nhưng không, người phụ nữ đó lại đến vào ngày thứ 99 – một thời gian đủ lâu để vị sư trưởng cảm thấy mình đã làm gần tròn trách nhiệm với lời hứa và ông đã bị dao động. Ở truyện “Hikoboshi và Orihime”, Hikoboshi đã thực hiện những yêu cầu khắc nghiệt của cha nàng Orihime: gieo hạt lúa trên cánh đồng của thiên giới rồi lại nhặt từng hạt đã gieo trên cánh đồng đó để gieo lại ở cánh đồng bên cạnh. Hikoboshi đã nhẫn nại vượt qua những khó khăn tưởng như không thể vượt qua ấy. Gần như kiệt sức sau sáu ngày vất vả, ngay lập tức chàng phải đến với nhiệm vụ thứ ba. Nhiệm vụ này tưởng chừng không khó khăn: Trông dưa mà không được ăn dưa trong lúc đói và khát. Nhưng xét với hoàn cảnh của Hikoboshi thì việc thực hiện lời hứa quả vô cùng khó khăn: kiệt sức vì sáu ngày làm việc mệt nhoài; trời nắng gay gắt; cổ họng cháy khô; không được ăn được uống đã gần 3 ngày. Và đặc biệt, cám dỗ là những trái dưa trên trời đang chín thật khó chống nổi. Vì tình yêu, để có thể được ở bên người vợ dấu yêu, chàng đã vượt qua hai thử thách trước, và dường như sắp vượt qua thử thách thứ ba. Vì chàng đã làm được 2/3 của thử thách thứ ba, tức là sắp thực hiện được lời hứa với bố vợ rồi. Nhưng đến đúng phút cuối, phút đỉnh điểm như vậy, chàng lại không thể vượt qua chính bản thân mình mà phá vỡ lời hứa.

Trong các truyện cổ tích Việt Nam, truyện “Giận mày tao ở với ai” cũng có một tình tiết tương tự. Phú ông đã nín nhịn chàng trai không biết bao lần nhưng gần đến ngày cuối cùng của kỳ hạn một tháng, ông không thể chịu đựng thêm được nữa mà phải buông lời trách móc nên đành phải gả cô con gái yêu cho chàng trai tinh quái nhưng thông minh đó. Hay như trong truyện “Ba người bạn”, ba người đã thề thốt sẽ giúp đỡ lẫn nhau khi một trong ba người hoạn nạn, nhưng rồi vì hoàn cảnh buộc họ phải xa nhau, mỗi người trôi dạt một nơi. Sau này, một trong ba người gặp khó khăn tìm đến các bạn mong giúp đỡ nhưng có người trong số họ đã thay lòng đổi dạ, coi bạn như gánh nặng, chỉ muốn đẩy đi cho nhanh. Lời hứa năm xưa không hề giả dối nhưng rồi thời gian và cuộc sống xô bồ đã làm cho con người không giữ nổi bản tính tốt đẹp xưa kia của mình.

4.2. Điểm khác biệt trong quá trình thực hiện lời hứa hứa trong truyện cổ tích Việt Nam và Nhật Bản

Nếu như ở phần hoàn cảnh xảy ra lời hứa, truyện Nhật Bản thường xuất hiện nhiều yếu tố thần kỳ, đối tượng của những lời hứa là những nhân vật mang sức mạnh siêu nhiên (bà chúa tuyết, người vợ hạc, hiện thân của những con rồng…) thì ở phần thực hiện lời hứa này hoàn toàn là một cuộc đấu tranh của nhân vật với chính bản thân mình để thực hiện lời hứa, hiếm khi xuất hiện sự can thiệp của các thế lực khác. Đặc biệt trong chuyện “Những con rồng của Kita-in”, tâm lý của vị sư trưởng được khắc họa rõ nét theo thời gian.

Khi vừa hứa với người phụ nữ thứ nhất: “Ngay khi vào chùa, ông lệnh ngừng rung chuông trong một trăm ngày. Ông rất sợ có một điều gì không hay có thể xảy ra nếu ông không giữ lời hứa danh dự đã hứa với cô gái” ( 3).

“Trong mười ngày đầu ông rất lo lắng. Rồi hai mươi ngày đã trôi qua yên ổn, không có gì xảy ra cả. Năm mươi ngày tiếp theo cũng bình yên như thế. Rồi ngày thứ chín mươi qua đi, nỗi lo lắng của sư trưởng vơi dần. Ông nghĩ chẳng có gì quan trọng trong lời đề nghị ngừng rung chuông ấy đâu, ta chỉ “thần hồn nát thần tính” mà thôi”.

Diễn biến tâm lý của vị sư trưởng rất đúng với lẽ thường, ông dần bớt coi trọng lời hứa và rồi người phụ nữ thứ hai xuất hiện. Cô ta có vẻ đẹp quyến rũ, giọng nói ngọt ngào cầu xin ông hãy cho nghe tiếng chuông chùa ngay lập tức. Cho đến lúc ấy, ông cũng không nhận lời ngay mà “sau một hồi cân hắc kĩ lưỡng”(4) ông đã đồng ý rung chuông chùa.

Như ta đã biết, hai người phụ nữ đến gặp sư trưởng đều là tinh khí của hai con rồng trú ở gần chùa. Nhưng trong quá trình vị sư trưởng thực hiện lời hứa của mình, chúng chưa một lần để lộ thân phận hay uy hiếp vị sư trưởng tội nghiệp. Nếu một trong hai con rồng hiện thân và yêu cầu ông thì vị sư trưởng chắc chắn sẽ vẫn bảo vệ lời hứa đến cùng. Nhưng không, chúng chỉ hiện thân dưới hình dạng hai người phụ nữ xinh đẹp và vô hại đến tìm vị sư trưởng và quyền quyết định có thực hiện lời hứa hay không hoàn toàn do ông quyết định. Vì vậy, khi vị sư trưởng đồng ý rung chuông thì đó là do ông đã không thắng được cám dỗ, không thắng được bản thân mà thôi.

Ngoài ra, trong truyện “Sự đền ơn của con Hạc”, người chồng đã hứa với vợ sẽ trông con và không được ngó vào phòng trong khi cô dệt vải. Lúc đầu anh rất nghiêm túc thực hiện lời hứa nhưng rồi sự tò mò và lo lắng dần nổi lên khi suốt mấy ngày cô không ra khỏi phòng. Cuối cùng, vì không nén được người chồng đã hé mắt nhìn vào. Và anh đã phải nhận lấy một kết cục không mong muốn.

Trong truyện Việt Nam, đôi khi trong quá trình thực hiện lời hứa lại xuất hiện những nhân vật mang phép màu giúp lời hứa được thực hiện. Ví dụ như truyện “Cây tre trăm đốt”, khi phú ông định lừa gạt anh Khoai, bắt chàng đi tìm cây tre trăm đốt để ở nhà tổ chức đám cưới cho con gái với con trai lão phú ông làng bên, thì Bụt đã xuất hiện. Bụt không những giúp anh Khoai có được cây tre trăm đốt mà còn dạy anh cách trừng trị những kẻ rắp tâm lừa bịp, chế giễu anh. Nhờ phép màu của bụt dạy, anh đã buộc lão phú ông phải giữ lời gả con gái cho anh.

Trong truyện “Người học trò nghèo và Ngọc Hoàng”, người học trò nghèo trên đường đi đã gặp gỡ nhiều người như gia đình phú ông có cô con gái bị câm và ông lão có cây cam không ra quả đã cho anh nghỉ qua đêm, con rùa đã cõng anh qua biển. Mỗi lần như thế anh đều được nhờ hỏi hộ Ngọc Hoàng một điều oan ức của họ. Và ngay khi gặp Ngọc Hoàng anh liền vội hỏi những điều oan khuất cho họ trước, đến nỗi đến lượt mình thì Ngọc Hoàng đã bực mình trở về trời. Tuy vậy anh cũng chẳng oán trách ai, chỉ buồn vì mình kém may mắn rồi lại vội vàng quay trở về đưa câu trả lời cho những người nhờ hỏi hộ.

Nói cách khác, trong truyện cổ tích Nhật Bản, quá trình thực hiện lời hứa là một quá trình tự đấu tranh bản thân của nhân vật để thực hiện lời hứa. Đó đều là những con người hiền lành thật thà, và họ thực lòng có ý muốn thực hiện trọn vẹn lời hứa nhưng rồi những thử thách và cám dỗ đã khiến họ không thể chiến thắng được bản thân mà trót làm sai lời hứa. Như vậy kết quả của việc thực hiện lời hứa hoàn toàn phụ thuộc vào nhân vật. Còn trong truyện cổ tích Việt Nam, ta có thể thấy rõ sự phân thành hai luồng nhân vật tốt – xấu rất rõ ràng. Họ cứ thế đóng trọn vai đã được giao sẵn mà không mấy khi có suy nghĩ đắn đo gì nhiều. Như chàng Khoai (trong truyện “Cây tre trăm đốt”) hiền lành thì cứ hiền lành mãi, còn lão phú ông tham lam sẽ vẫn tìm cách lừa chàng trai, nếu không có phép màu của Bụt ban xuống.

Với người Nhật, họ tự mình nhận lời hứa, tự mình thực hiện và nhận hậu quả vì đã không thực hiện được lời hứa, không hề có bất kì một sự giúp sức nào từ bên ngoài. Còn những người Việt Nam hiền lành, thật thà, chân chất kia dường như quá yếu đuối để tự mình có thể giải quyết được vấn đề. Câu chuyện thường có sư giúp sức từ các thế lực bên ngoài. Đó là Bụt như trong truyện “Cây tre trăm đốt”, là sự giúp đỡ đến từ những người hàm ơn chàng trai như trong truyện “Người dân nghèo và Ngọc Hoàng”. Điều này thể hiện mong ước “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” của dân ta. Phải chăng vì thế mà nhiều khi chúng ta hay trông chờ vào một điều kỳ diệu xảy ra để đáp lại lòng tốt của chúng ta. Còn người Nhật, ngược lại thường “tự lực cánh sinh”, “tự làm tự chịu”.

5. Kết quả của quá trình thực hiện lời hứa

5.1. Với lời hứa được thực hiện

Khi lời hứa được thực hiện đầy đủ thì nhân vật chính trong truyện cổ tích Việt Nam thường sẽ được hưởng thành quả và sống hạnh phúc. Như trong truyện “Người học trò nghèo và Ngọc Hoàng”, sau khi thực hiện lời hứa với những người gặp dọc đường, người học trò nghèo đã được viên ngọc làm đầu óc thông minh, thi đỗ trạng nguyên, trở nên giàu có và lấy được vợ. Thật sự là một kết quả viên mãn không gì sánh bằng!

Thế nhưng ở những câu chuyện cổ tích Nhật Bản, không phải lúc nào khi thực hiện xong lời hứa thì nhân vật đó cũng sẽ có được kết quả hạnh phúc. Như trong truyện “Con cáo và ông lão”, con cáo thực sự đã giúp ông lão trở nên giàu có. Nhưng trong lần biến hóa cuối cùng thành chiếc ấm trà, nó đã bị người chủ mới đun lên và chết cháy. Hay trong truyện “Chàng Hoichi không tai”. Tuy chàng đã giữ lời hứa của mình với vị sư trưởng là không kêu lên bất kỳ lời nào rồi, nhưng chàng vẫn bị mất đôi tai cho dù giữ được tính mạng.

Đến đây ta có thể thấy rõ sự khác biệt trong quan niệm của người Nhật và người Việt. Đối với người Nhật, việc phải thực hiện điều mình đã hứa là điều đương nhiên. Vì vậy, ngay cả khi đã thực hiện lời hứa thì họ cũng chưa chắc nhận được phần thưởng, thậm chí nếu như cách họ thực hiện lời hứa là một cách không chính đáng thì họ còn gặp quả báo. Ví dụ, trong truyện “Con cáo và ông lão”: Con cáo đã biến thành các vật khác nhau để ông lão đem bán cho người khác lấy tiền sau đó nó sẽ biến hình trở về với ông lão. Con cáo đã giúp ông lão trở nên giàu có nhưng cách làm của nó và ông lão là lừa những con người lương thiện khác nên nó phải chịu kết cục đáng buồn đó. Ở truyện “Chàng Hoichi không tai”, chàng Hoichi tuy đã thực hiện được lời hứa của mình nhưng do bất cẩn của vị sư trưởng: Không ghi Kinh Phật vào hai tai của chàng nên đã làm Hoichi mất đi đôi tai của mình.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có biết bao lời hứa. Trong truyện cổ tích của người Việt Nam thường chỉ có một lời hứa được xuất hiện: “Cây tre trăm đốt”; “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”; “Giận mày tao ở với ai”, v.v. hoặc có những lời hứa giống hệt nhau như truyện “Người học trò nghèo và Ngọc Hoàng”. Trong truyện cổ tích của người Nhật, có những truyện lời hứa xuất hiện nhiều hơn một lần với các loại lời hứa khác nhau. Và người Nhật không tha thứ cho một lời hứa không được thực hiện dù bên cạnh đó có bao nhiêu lời hứa được thực hiện đi nữa. Ví dụ như truyện “Sự đền ơn của con Hạc”. Có hai lời hứa với hai đối tượng khác nhau. Một lời hứa giữa người thương gia và người chồng về việc giao tấm vải. Một lời hứa giữa người chồng và người vợ về việc không được tò mò xem vợ đang làm gì trong phòng. Anh chồng đã thực hiện được lời hứa thứ nhất và nhận được rất nhiều tiền, nhưng vì không giữ được lời hứa thứ hai dẫn tới kết cục anh đã mất đi người vợ yêu dấu, mãi mãi mất đi hạnh phúc gia đình!

5.2. Với lời hứa không được thực hiện

Mạnh Tử từng nói: “Xe không thể chuyển động nếu không có bánh, con người không thể sống nếu không có chữ Tín”, vì vậy những kẻ không làm tròn lời hứa sẽ phải gánh chịu một kết cục không mong muốn là điều dễ hiểu. Trong rất nhiều các câu chuyện cổ tích, các lời hứa đều không thực hiện được và kết cục đối với nhân vật chính sẽ là lời răn dạy đối với các thế hệ sau. Quan niệm này là điểm chung giữa Việt Nam và Nhật Bản. Tuy nhiên do thái độ đối với lời hứa của hai bên khác nhau nên “kết cục” đối với các nhân vật không thực hiện lời hứa cũng có sự khác biệt.

Đối với người Nhật rất coi trọng lời hứa thì việc không thực hiện lời hứa là một điều không thể tha thứ. Những người đó chắc chắn phải chịu những hình phạt nặng nề và hậu quả thường sẽ để lại vĩnh viễn. Ví dụ như người chồng trong truyện “Giấc mơ” đã phản bội lại lời hứa thủy chung với vợ mình nên phải chịu cái chết đau đớn trong giấc ngủ. Vị sư trụ trì chùa Kita-in (Những con rồng của Kita-in) đã bị một phen sợ hãi vô cùng khi phá vỡ lời hứa danh dự của mình. Ông đã nhận một bài học thấm thía cả đời không thể quên được, và “thậm chí cho đến ngày nay, bao nhiêu thời gian đã trôi qua và vị sư trưởng khác đã thay ông trụ trì Kita-in, nhưng luật chùa vẫn rất nghiêm khắc với việc sờ tay vào chuông chùa”(5). Trong “Xứ mộng của Jinnai”, Jinnai đã bị một mũi tên xuyên qua khi anh trót kể câu chuyện bí mật và trở thành tàn tật suốt đời, Hikoboshi và Orihime mãi mãi phải chia cách qua giải ngân hà vì Hikoboshi đã không thực hiện lời hứa… Tới đây, những người không am hiểu về văn hóa Nhật Bản có thể hiểu lầm về Nhật Bản như một đất nước khắt khe, người dân Nhật Bản là những người cứng nhắc đến tàn nhẫn. Ruth Benedict – nhà dân tộc học người Mỹ đã phân tích về tính tương phản trong nền văn hóa Nhật bản bằng hai hình ảnh tượng trưng: hoa cúc và thanh kiếm trong tác phẩm cùng tên. Người Nhât sẵn sàng tha thứ cho các tội lỗi khác ngoại trừ việc không giữ đúng lời hứa.

Đối với người Việt vốn “dĩ hòa vi quý”, những lời hứa chỉ trừng phạt những kẻ trái lời một cách răn đe, nhắc nhở. Thậm chí trong nhiều trường hợp còn có cơ hội làm lại để chuộc lỗi. Như trong “Cây tre trăm đốt”, lão phú ông tham lam chỉ bị một phen hú vía và mất mặt với dân làng. Sau khi lão xin lỗi và gả con gái cho anh Khoai thì đã được tha thứ. Trong truyện “Ba người bạn”, anh nhà giàu không giữ lời hứa hắt hủi bạn bè cuối cùng bị người bạn còn lại mỉa mai đành hổ thẹn mang khăn gói ra về.

* * *

Qua các truyện cổ tích chúng ta biết được nhiều điều về cuộc sống. So sánh, đối chiếu truyện cổ tích giữa hai dân tộc giúp chúng ta hiểu biết được nhiều hơn về những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Nhật Bản, để từ đó hiểu nhau hơn. Bài viết của chúng tôi tập trung nghiên cứu về lời hứa trong truyện cổ tích từ đó suy rộng ra quan niệm về lời hứa của mỗi dân tộc Việt Nam và Nhật Bản. Bằng việc phân tích một số về vấn đề lời hứa trong truyện cổ tích, chúng tôi nhận thấy: Lời hứa trong truyện cổ tích Nhật Bản có tần số xuất hiện nhiều với hình thức đa dạng, phong phú, còn trong truyện cổ tích Việt Nam nó xuất hiện với tần số khiêm tốn hơn. Kết cục đối với việc không thực hiện lời hứa trong truyện Nhật là rất nghiêm khắc, đôi khi hơi nhẫn tâm, nhưng ở truyện cổ tích Việt Nam, điều này chỉ như một bài học nhẹ nhàng và có cơ hội sửa chữa làm lại.

Từ những đặc điểm trên, có thể thấy người Nhật vô cùng coi trọng lời hứa, họ nghiêm khắc với chính bản thân mình cũng như những người xung quanh. Điều này cũng là do nhiều nguyên nhân như đã trình bày ở trên. Người Việt lại có quan điểm về lời hứa khác với người Nhật. Người Việt Nam không quá coi trọng lời hứa. Có thể do lối sống bình dị, ôn hòa của người Việt Nam đã tạo cho họ tính dễ tha thứ và không quá khắt khe với lời hứa. Phân tích để thấy được điểm khác biệt này, chúng tôi mong rằng có thể giúp người Nhật và người Việt hiểu nhau hơn và thấy được những điểm đáng học hỏi của nhau.

Tuy nhiên, trong sự hòa nhập với thế giới hiện đại, vào một thế giới chung, các dân tộc cũng đang ngày càng biến đổi thu nhận về mình những điều tốt đẹp nhất phù hợp nhất với phong cách sống hiện đại và xã hội văn minh. Nhờ có tinh thần kỉ luật, thể hiện qua các việc coi trọng lời hứa như vậy, Nhật Bản đã sớm tự xây dựng cho mình một xã hội hiện đại, văn minh. Việt Nam chúng ta cũng đang ngày càng đổi mới, ý thức kỉ luật, kỉ cương cũng ngày càng được coi trọng hơn trong việc xây dựng một xã hội công nghiệp. Các thế hệ trẻ của Việt Nam, một mặt thấy được những nét đẹp của dân tộc, những truyền thống của cha ông đã xây dựng và để lại, một mặt đang vươn mình tự đổi khác để hòa nhập vào xã hội hiện đại, góp phần xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp hơn.

Nếu xây dựng những chuyện cổ tích thời hiện đại, chắc rằng chúng ta sẽ thấy ở đó tỉ lệ của những chuyện có đề cập đến lời hứa và việc thực hiện lời hứa sẽ xuất hiện lớn hơn nhiều và những điều xung quanh đó cũng sẽ ngày một gần hơn với các dân tộc vốn đã gần gũi với mình như Nhật Bản và các nước láng giềng.

TS HOÀNG LIÊN – HOÀNG THỊ LUẬN – ĐINH THỊ THU HƯƠNG (Đại học Hà Nội) TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huy Cận (1994) Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia.

2. Nhật Chiêu (2003) Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục.

3. Chu Xuân Diễn – Lê Chí Quế (2001), Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam phần truyện cổ tích người Việt, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội.

4. Nguyễn Bích Hà (1999), Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Đào Thị Thu Hằng (2009), Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata, NXB Giáo Dục.

6. Hữu Ngọc (1993) Chân dung văn hóa đất nước Mặt trời mọc, NXB Thế Giới.

7. Thu Tứ (2005) Người Việt trung dung, htt:///vvv.gocnhin.net/cgi-bin/vietwitem.pl?65

8. Félicien Challaye – Tạ Chí Hải dịch (2004), Chuyện cổ Nhật Bản, NXB Trẻ

9. Helen Byers (2007), Japan, Foreign language teaching and research press.

10. Ruth Benedict (1940) Hoa cúc và thanh kiếm, .http://www.tamajin.jp/degiorigi/rinjin/img/rinjin_read2.gif

12. ” Thủ tướng Nhật đặc biệt coi trọng quan hệ với VN” http://vietnamnet.vn/service/printver sion.vnn?article_id=865918

(1) Nguyễn Bích Hà, Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 1999, tr.235

(2) Chu Xuân Diễn – Lê Chí Quế (2001), Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam phần truyện cổ tích người Việt, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, tr.152.

(3) Nguyễn Bích Hà, Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 1999, tr.87

(4) Nguyễn Bích Hà, Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 1999, tr.88

(5) Nguyễn Bích Hà, Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 1999, tr.89

Bản Chất Truyện Cổ Tích

Khi nói đến mấy tiếng ” truyện cổ tích” hay “truyện đời xưa”, chúng ta đều sẵn có quan niệm rằng, đấy là một danh từ chung bao gồm hết thảy các loại truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại. Trong đó, có truyện đượm tính chất hoang đường, có truyện gần với sự thật, có truyện ngụ một ý nghĩa sâu xa, có truyện không quan tâm đến đạo đức triết lý, có truyện mang tính nghệ thuật cao, có truyện hãy còn mộc mạc chưa được gia công tô điểm, có truyện nghiêm trang, có truyện buồn cười, có truyện dài, có truyện rất ngắn, có truyện từ ngàn xưa để lại, có truyện mới đặt gần đây, v.v…

Khái niệm “truyện cổ tích” như vậy thật rộng và phức tạp. Chẳng khác gì nhìn vào một khu rừng trong đấy có nhiều loại cây: cây to, cây nhỏ, gỗ tốt, gỗ xấu, mọc chằng chịt lẫn lộn. Cũng vì thế, xác định đặc trưng từng loại truyện cổ khác nhau để đi đến phân loại truyện cổ, vẫn là một công việc hứng thú và luôn luôn có ý nghĩa đối với nhiều nhà nghiên cứu và sưu tầm văn học dân gian từ trước tới nay. Tuy nhiên, cho đến lúc này, công việc đó vẫn chưa hoàn thành, và chưa có một kiến giải nào khả dĩ gọi là thỏa đáng.

Nghiêm Toản và Thanh Lãng cũng như một số người đã không dựa trên một tiêu chuẩn xác đáng nào trong khi chia truyện cổ thành những loại truyện như truyện mê tín hoang đường, truyện ma quỷ, truyện thần tiên, truyện ái tình, truyện luân lý, truyện tòa án, truyện nói về người, truyện nói về vật, v.v…[1] Bởi vì trong những loại truyện luân lý ngụ ngôn, truyện phúng thế hài đàm đâu phải không có những truyện có tính chất mê tín hoang đường. Và ngược lại, trong những loại truyện ma quỷ, truyện thần tiên, cũng chẳng phải là hiếm những đề tài có tính chất ái tình, luân lý?

Cách chia của Nguyễn Văn Ngọc trong bài “Mào đầu” quyển Truyện cổ tích nước Nam cũng chưa đem lại cho ta một sự phân biệt dứt khoát[2]. Ông quan tâm nhiều đến tính thống nhất về mặt hình thức của những loại truyện cổ khác nhau. Chẳng hạn những truyện có kết thúc bằng những câu phương ngôn lý ngữ được ông liệt vào một loại, những truyện có xen lẫn câu ca hài hát lại được chia thành một loại khác. Nhưng quá thiên về hình thức, thậm chí không quan niệm được tính chất linh động của truyện cổ về mặt hình thức, tác giả rốt cuộc đã không vượt khỏi chủ nghĩa hình thức đơn thuần.

Có người không phân loại nhưng có ý sưu tập riêng một số truyện, cho đây là những truyện của trẻ em (đồng thoại) để mặc nhiên phân biệt với truyện của người lớn. Nếu có thể cho đây là một tiêu chuẩn thì cái tiêu chuẩn phân loại theo đối tượng thưởng thức ấy kể ra cũng không có gì là phân minh, nhất là đối với truyện cổ Việt-nam! Vì khác với các dân tộc phương Tây, người Việt-nam trước đây sáng tác truyện cổ dường như không có ý định dành một loại nào riêng cho trẻ em cả.

Có lẽ do chỗ khó khăn trong việc phân loại nên đã có người dựa vào tính chất ảo tưởng khá phổ biến trong các truyện cổ mà chia đại khái làm hai loại lớn: một loại trong đó ảo tưởng chiếm ưu thế, như các truyện động vật, truyện ma quái, truyện thần tiên, v.v… và một loại truyện tương đối ít nhân tố ảo tưởng hơn như các truyện về sinh hoạt, truyện cười, truyện triết lý, v.v…

Trong sách Văn nghệ bình dân Việt-nam[3], Trương Tửu cũng theo lối này. Ông chia toàn bộ truyện truyền miệng thành hai loại: thần kỳ và thế sự. Mỗi loại lại được chia thành nhiều hạng. Ví dụ, loại thần kỳ có bốn hạng: truyện thần tiên, truyện anh hùng, truyện ma quỷ và truyện nói về con người. Loại thế sự thì có các hạng: truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện ngụ ngôn, truyện nói về nhân tình thế thái, v.v…

Cách sắp xếp này có sự khái quát cao hơn hẳn những người đi trước, song khi đi vào các hạng mục nhỏ cũng vẫn còn dấu vết hình thức. Một truyện triết lý, ngụ ngôn hay khôi hài không nhất định phải ít nhân tố ảo tưởng hơn một truyện anh hùng, truyện động vật. Ngược lại cũng không phải cứ truyện động vật, truyện anh hùng nào cũng đều phải có sự can thiệp của yếu tố thần tiên. Để đạt tới một kết luận định sẵn, tác giả của truyện không từ một biện pháp nào: có thần kỳ hay không thần kỳ đều dùng được cả.

Như vậy, cũng không thể lấy tính chất ảo tưởng làm tiêu chuẩn cơ bản trong việc phân loại truyện cổ. Phân loại như thế, dễ dẫn chúng ta đến một tình trạng khó xử: càng sắp xếp chi li thì những đặc điểm riêng về loại hình, về kết cấu nghệ thuật, và cả những mối liên hệ trong nội dung tư tưởng… của từng loại truyện càng dễ bị lẫn lộn.

Thế thì phải chăng không thể phân loại truyện cổ tích một cách rành mạch được. Chắc chắn không phải. Nhưng để có một ý niệm xác đáng, trước khi phân loại cần tìm hiểu thấu đáo những đặc trưng cơ bản nhất của từng loại truyện truyền miệng. Đó là phương pháp cần thiết trong khi nghiên cứu văn học dân gian.

2. TRUYỆN CỔ TÍCH KHÁC VỚI NHỮNG LOẠI CHUYỆN NÀO?

Trước tiên, chúng ta hãy kiểm điểm lại danh từ “truyện cổ tích” hay “truyện đời xưa” nhiều khi vẫn thường được dùng một cách quá rộng rãi. Người ta dùng danh từ đó để chỉ bất cứ loại truyện nào có thể gắn lên đầu hai tiếng “ngày xưa…”. Bây giờ đây chúng ta nên trả lại cái tên truyện cổ tích cho môn loại của nó. Còn cái tên dùng để chỉ chung cho tất cả các loại truyện truyền miệng, chúng ta tạm gọi nó là truyện khi chưa tìm được tiếng nào thích hợp hơn. Khái niệm “truyện đời xưa” thật ra vẫn không được bao quát, vì ngoài những truyện đời xưa đúng nghĩa ra, không phải không có những truyện mới được sáng tác hôm qua hôm kia, những truyện “đời nay” mà vẫn cứ là truyện như thường.

Xác định như thế rồi, chúng ta sẽ gạt ra mấy loại truyện sau đây mà phạm vi bộ sách này không nói tới:

Một là ngụ ngôn. Ngụ ngôn là một loại truyện đơn giản, có mục đích rõ rệt là kết cấu câu chuyện phải nói lên một ý nghĩa gì. Cũng có khi nó được người ta dùng để so loại như ca dao, tục ngữ: lấy cái gần nói cái xa, lấy cái dễ nói cái khó, lấy cái cụ thể nói cái trừu tượng. Truyện ngụ ngôn thường rất ngắn, bằng văn vần hay văn xuôi, có một kết luận định sẵn, đó là một bài học luân lý hay một quan niệm về triết lý. Nếu trong cổ tích, dung lượng phong phú của những câu chuyện kể không bắt buộc phải bỏ qua nhiều chi tiết, mà nhiều khi ngược lại, thì đối với ngụ ngôn, do yêu cầu làm sáng rõ cái ý nghĩa đã chuẩn bị sẵn trong truyện, lại cần phải tước bỏ bớt những chi tiết rườm rà. Nói ngoa, nói phóng đại là phương pháp thuyết phục của ngụ ngôn. Tuy nhiên, ẩn sau những hình thức thuyết phục có vẻ vô lý, nội dung ý nghĩa của truyện ngụ ngôn thường lại hợp tình hợp lý. Nhiều truyện cổ tích cũng có ý nghĩa ngụ ngôn nhưng cách xây dựng câu chuyện thì theo một thể tài khác hẳn. Truyện ngụ ngôn có phần giống với truyện tiếu lâm về nghệ thuật, về ý nghĩa và cả về cười cợt nữa, nhưng lại khác tiếu lâm ở chỗ nó không chuyển thành cái cười phũ phàng, hơn nữa không dâm tục.

Hai là khôi hài hay hoạt kê. Loại này đặc biệt ở tính chất gây cười. Ngày xưa, những truyện khôi hài được sáng tác có kết thúc trọn vẹn, nghĩa là nhiều truyện cũng có bố cục chặt chẽ, trước sau ăn khớp nhau, có nhiều chi tiết, nhiều sự kiện rườm rà không khác gì thể tài cổ tích.

Chỉ có khác với cổ tích là mỗi tình tiết của truyện đều có ý gây cười hoặc mỉa mai bằng cười cợt. Nhưng về sau này thể truyện khôi hài thường ngắn gọn, có khi không đầu không đuôi.

Ba là tiếu lâm. Theo đúng nghĩa của nó thì cũng là loại truyện gây cười. Nhưng nếu cái cười ở khôi hài đã có tính chất châm biếm đả kích thì cái cười ở tiếu lâm, châm biếm đả kích còn có phần trắng trợn hơn. Ở khôi hài thì người ta thường kiêng dè những điều dâm tục, nhưng với tiếu lâm, điều đó không thành vấn đề nữa. Khác với nghệ thuật của cổ tích, truyện tiếu lâm cũng như truyện ngụ ngôn thường kết thúc giữa chừng. Nghĩa là câu chuyện bao giờ cũng dừng lại khi mục đích của nó đã đạt cũng như hình tượng của truyện bao giờ cũng bó hẹp trong khuôn khổ và mục đích quy định.

Điều cần để ý là trong kho tàng truyện cổ tích của bất cứ dân tộc nào cũng đều có một số truyện chứa đựng tính chất vui tươi cười cợt có khi pha lẫn cả tục nữa, nhưng vẫn không có tác dụng gây cười như truyện khôi hài và tiếu lâm. Những truyện đó vẫn là truyện cổ tích vì trước sau chúng vẫn đầy đủ những đặc trưng của truyện cổ tích.

Bốn là loại truyện tạm gọi là truyện thời sự. Loại này khác với truyện cổ tích và các loại truyện khác ở chỗ, tác giả của nó không dùng đến tưởng tượng hoặc chỉ dùng rất ít. Nó là truyện có thật, xảy ra ở trong một nước hay một địa phương nhất định. Dưới hình thức một câu chuyện kể ngắn gọn, nó bộc lộ rõ rệt một thái độ. Thường thì bao giờ câu chuyện cũng được chủ quan tác giả hướng tới một kết luận nào đấy. Đó chính là truyện đời chứ không phải mô phỏng, nhại lại truyện đời. Sở dĩ không gọi là truyện đời hay truyện thế sự mà gọi là truyện thời sự vì loại truyện này vốn xuất hiện nóng hổi và trung thực ngay sau khi sự việc xảy ra, nhanh như một tin báo. Nó cũng là lịch sử mà lại là lịch sử ít bị phóng đại hóa hay thần thánh hóa. Nó khác ngụ ngôn ở chỗ: ngụ ngôn thì châm biếm một cách kín đáo, nhẹ nhàng còn nó khi đả kích thì đả kích táo tợn, nói thẳng nói thật tên tuổi đối tượng mà không sợ vạ miệng chút nào.

Truyện thời sự thường có hai hình thức: có truyện kể bằng văn xuôi, không có hình thức thành văn cố định. Ví dụ những truyện có đề tài về kháng chiến, rào làng, đi dân công, thi đua… gần đây hay là những truyện như: Tán Cao mổ ruột, Bảo Đại bị Tây bắn què chân[4] ngày trước. Có truyện đặt bằng văn vần mà ta thường gọi là truyện vè, như vè Sai đạo kể chuyện bọn khâm sai núp sau lưng giặc Pháp làm hại đồng bào, hay như vè Cô Thông Tằm, vè Con gái chửa hoang, v.v… Nên nhớ là không phải bất cứ truyện vè nào cũng đều là truyện thời sự. Có truyện là ngụ ngôn (vè Con cua), có truyện là cổ tích (vè Chàng Lía).

Đó là bốn loại truyện có hình thức và mục đích rõ ràng, dễ phân biệt.

Ngoài bốn loại này, còn có thể nói đến một số loại truyện khác trong kho tàng truyện của chúng ta. Nhưng thời gian và quá trình truyền miệng đã làm cho các đặc trưng của chúng trở nên gần gũi nhau hơn, ranh giới hầu như bị xóa nhòa, nên rất dễ lẫn lộn.

Tuy nhiên nếu đi sâu vào từng truyện, ta vẫn có thể phát hiện ra thần thoại và tiên thoại, phật thoại. Những loại này tuy giống nhau về hình thức nhưng lại khác biệt về nội dung.

Về thần thoại chúng tôi đã có dịp xác định đặc trưng trong quyển Lược khảo về thần thoại Việt-nam[5]. Còn tiên thoại, phật thoại hay nói chung là truyện tôn giáo là những loại truyện rất dễ nhìn nhận dù của bất cứ dân tộc nào, vì chúng mang theo dấu ấn rõ nét của một thứ tôn giáo nhất định. Chúng thường xuất hiện từ miệng tăng lữ với mục đích tuyên truyền dẫn giải về chủ nghĩa yếm thế. Chủ đề của truyện thường thường là việc nhân quả báo ứng, thoát ly cuộc sống trần tục, v.v…[6].

Gạt tất cả các loại truyện trên ra, chúng ta sẽ chỉ còn lại những loại truyện với cái tên quen gọi là truyền thuyết, cổ tích.

Vậy truyền thuyết, cổ tích là gì? Ranh giới giữa truyền thuyết, cổ tích như thế nào?

3. RANH GIỚI GIỮA TRUYỀN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH

Truyền thuyết, cổ tích đều là những truyện tự sự nằm trong loại hình tự sự dân gian, do quần chúng tưởng tượng nên, cốt truyện tương đối dài, kết thúc trọn vẹn, các tình tiết được thuật theo trình tự thời gian, và trong không gian ba tầng của người thời cổ: cõi người, cõi trời (bao gồm cả cõi tiên), cõi đất (âm phủ và thủy phủ). Nội dung của chúng, hoặc hoang đường, huyền diệu hoặc không, thường thường đề cập đến những mối quan hệ giữa con người trong xã hội có giai cấp nhiều hơn là giữa con người với tự nhiên. Mục đích là gây hứng thú thẩm mỹ cho người nghe, người đọc, đồng thời cũng để giáo dục họ, nhưng không cốt gây cười, cũng không ngụ ý như các thể loại tự sự dân gian khác.

Truyền thuyết và cổ tích tuy giống nhau trên đại thể, nhưng thật ra vẫn là hai khái niệm cần phân biệt.

Danh từ “truyền thuyết” có một hàm nghĩa cũng khá rộng rãi. Nó thường được dùng để chỉ những câu chuyện cũ, những sự kiện lịch sử còn được quần chúng truyền lại nhưng không bảo đảm về mặt chính xác (có thể do truyền miệng mà sai lạc, đồng thời cũng có thể do tưởng tượng của dân chúng phụ họa thêu dệt mà càng sai lạc hơn). Vì thế, trong quan niệm của nhân dân ta trước tới nay, mấy chữ truyền thuyết có khả năng bao trùm lấy nhiều loại truyện. Cũng do phạm vi quá rộng rãi của khái niệm đó mà đôi lúc người ta còn lẫn lộn nó với cả truyện cổ tích và truyện thời sự nữa.

Cho nên, nếu chỉ giới hạn việc định nghĩa truyền thuyết là những truyện trong đó lịch sử bị biến tướng bởi óc tưởng tượng và lãng mạn của nhân dân, nói cách khác những truyện do tưởng tượng cấu thành nhưng có gắn liền với một ý nghĩa lịch sử như quan niệm của một số nhà nghiên cứu nước ngoài[7], thì e không thích hợp với thực tiễn văn học dân tộc. Tình trạng nhập nhằng thường thấy giữa truyền thuyết và cổ tích như trên đã nói, đòi hỏi chúng ta phải có một định nghĩa rạch ròi, dứt khoát hơn.

Giả định rằng truyền thuyết là sự thật được hoang đường hóa còn cổ tích thì hoàn toàn do tưởng tượng tạo nên, nhưng ai mà không nhận thấy có những truyền thuyết như Sự tích con muỗi, Sự tích hồ Ba-bể, là hoàn toàn bịa đặt, v.v… Ngược lại, cũng không hiếm gì những truyện cổ tích vốn lúc đầu dựa vào một sự thật khách quan nào đó rồi được tác giả nâng lên thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Lại giả định rằng truyền thuyết có dính dấp đến lịch sử, còn cổ tích thì không phải như vậy, nhưng trên thực tế, nào hiếm gì những truyện cổ tích có quan hệ ít nhiều đến lịch sử, như các truyện Chàng Lía, Bùi Cầm Hổ chẳng hạn?

Theo chúng tôi, điều cần chú ý trước hết là phần nhiều các truyền thuyết đều chưa được xây dựng thành truyện. Chúng chỉ mới là từng mẩu truyện. Ví dụ truyền thuyết về Lý Công Uẩn chỉ gồm có hai tình tiết: mẹ vua không chồng mà chửa, sau cho vua làm con nuôi sư Lý Khánh Văn; lúc ở với sư, vua đã đề vào lưng tượng Phật mấy chữ “đày đi viễn châu”, đến nỗi hòa thượng trụ trì chùa này nằm mộng thấy Phật từ giã mình đi đày theo lệnh của thiên tử.

Có nhiều truyền thuyết chưa có kết cấu trọn vẹn, chưa nhuần nhuyễn tính nghệ thuật. Ví dụ truyền thuyết ông Đùng bà Đà là chuyện hai anh em ruột lấy nhau bị xử tử, chết thành thần.

Cho nên, trên từng bước tiến triển của loại hình, nếu truyền thuyết – hiểu theo nghĩa rộng – đạt đến chỗ hoàn chỉnh thì tùy theo nội dung, nó có thể trở thành cổ tích hay thần thoại. Bởi xét về mặt nghệ thuật, về nội dung ý nghĩa thì tuyệt không có gì khác giữa một truyền thuyết với một cổ tích hay một thần thoại.

Văn học truyền miệng Việt-nam không có loại anh hùng ca như văn học truyền miệng của đồng bào thiểu số, nhưng có một số truyền thuyết phần nào có mang phong cách anh hùng ca. Theo tìm hiểu của chúng tôi thì có thể ngờ rằng, ngày xưa chúng ta cũng có anh hùng ca với hình thức văn vần. Nhưng có lẽ trải qua bao nhiêu biến thiên lịch sử, đặc biệt là những biến thiên về ngôn ngữ văn tự, loại anh hùng ca đó mất dần đi, chỉ còn lại đây đó những cốt truyện kể bằng văn xuôi mà ta gọi là truyền thuyết. Truyện Thánh Gióng, truyện Khổng Lồ đúc chuông, truyện Bố Cái đại vương, chẳng hạn, có thể nguyên xưa đều là những anh hùng ca. Nhưng đã từ lâu, sự lãng quên, sự chuyển hóa của lịch sử làm cho những thiên anh hùng ca đó chịu những số phận không chút giống nhau. Truyện Thánh Gióng trở thành một thần thoại hay một thần tích; truyện Khổng Lồ trở thành một cổ tích, còn truyện Bố Cái đại vương chẳng hạn thì được các nhà chép sử gạn bớt những yếu tố hoang đường mà trở thành một sự tích lịch sử. Cùng một hiện tượng “tha hóa” kiểu như thế, ngày nay, chúng ta còn có thể lọc được trong thần tích của các làng một số truyền thuyết có dấu vết của phong cách anh hùng ca như Sự tích thần làng Võng-la[8], Sự tích Thánh Chèm, v.v…

Bởi vậy, chúng tôi cho rằng, nếu truyền thuyết có thể đứng được thành một thể loại riêng biệt thì phải gồm những truyện xưa chuyên nói về anh hùng lực sĩ trong thời khuyết sử và thời Bắc thuộc đã được kỳ vĩ hóa, thần thánh hóa. Nhưng số lượng hiện nay biết được cũng không nhiều. Những truyện anh hùng lực sĩ sáng tác trong thời phong kiến tự chủ đương nhiên không thể liệt vào loại truyền thuyết này vì nói chung, trong quan niệm nghệ thuật về con người của chúng, đã có sự khác biệt về chất. Con người ở đây không còn có phong thái chất phác vô tư và khảng khái như các nhân vật anh hùng thời xưa. Nhân vật Lê Phụng Hiểu là một lực sĩ có sức khỏe tuyệt trần, nhưng cái ước muốn của Lê Phụng Hiểu thì chung quy không ngoài ước muốn phục vụ vua chúa phong kiến để cầu danh lợi. Vẻ đẹp của ông đã được một hệ quy chiếu thẩm mỹ khác trước quy định.

Tuy phân biệt truyền thuyết với cổ tích như trên, nhưng ở đây, khi sưu tập chúng tôi vẫn xếp chung truyền thuyết với cổ tích và coi như là những truyện cổ tích. Bởi vì không những số lượng của chúng ít ỏi, mà về nội dung, những truyền thuyết này cũng đượm ít nhiều phong vị của cổ tích, nếu như không đượm phong vị của thần thoại.

4. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA CỔ TÍCH

Như vậy, đặc trưng của cổ tích biểu hiện ở những chỗ nào? Thực cũng khó mà vạch một cách thật dứt khoát ranh giới của thể loại này; vì như ta đã biết, tất cả mọi loại hình tự sự dân gian đều được sáng tạo nên bằng cảm quan nghệ thuật của quần chúng, nên đều mang những kết cấu khá thống nhất, có những mô-típ tương đối ổn định. Thêm vào đó, chúng lại được sáng tác, chỉnh lý và truyền tụng bằng miệng nên cũng ảnh hưởng qua lại với nhau một cách mật thiết. Tuy nhiên, tìm hiểu cho sâu, vẫn có thể phân biệt được loại hình này với loại hình khác trên những nét căn bản. Theo chúng tôi, có ba đặc điểm đáng chú ý hơn cả để nhìn nhận loại hình cổ tích:

Một là, tính chất cổ của sự việc. Truyện cổ tích được xác định trước tiên ở phong cách cổ của nó. Gần như bất cứ cổ tích nào cũng không ra ngoài những quy ước về màu sắc cổ của nhân vật và không khí cổ của câu chuyện. Không khí truyền kỳ hoang đường của một số truyện cổ tích, xét cho cùng cũng xuất phát từ tính chất cổ. Giá thử ngày nay có người phỏng theo cổ tích dựng lên một câu chuyện thậm chí rất hoang đường nhưng lại có những nhân vật ăn mặc theo lối tân thời, đi ô-tô hay xe đạp chẳng hạn, thì dù không hiểu đặc trưng cổ tích thế nào đi nữa, chắc cũng khó có ai ngờ nghệch nhận đây là một truyện cổ tích được. Dù cho phạm vi hai khái niệm “cổ” và “kim” trong cổ tích không khỏi có lúc lẫn lộn, nhưng mỗi nhân vật, mỗi tình tiết mỗi hình ảnh của cổ tích đều nhất thiết phải là một nhân vật, một tình tiết, một hình ảnh vốn có trong truyền thống nghệ thuật xa xưa của văn học dân gian, được nhân dân coi là quen thuộc, đã thấm sâu vào tiềm thức mọi người. Cũng giống như những miếng trò kiệt tác trong tuồng hay chèo cổ luôn luôn được các đời sau sử dụng lắp đi lắp lại, những mô-típ nghệ thuật đã trở thành tiêu biểu của văn học dân gian, nhất là nghệ thuật vần vè hay truyện kể, cũng thường xuyên được tái sinh có chuyển dịch ít nhiều trong nhiều thời đại, làm thành kiểu tư duy nghệ thuật đặc trưng của văn học dân gian, và đó là điều kiện thuận lợi để truyện cổ tích sinh sôi nẩy nở theo phương thức ứng diễn và tìm thấy mối liên hệ loại hình với nhau.

Như vậy, vấn đề xác định tính cổ của truyện cổ tích là căn cứ chủ yếu vào phương thức cấu tạo hình tượng, sự sắp xếp, xâu chuỗi cốt truyện và mô-típ, mà không nhất thiết căn cứ vào thời điểm lịch sử của câu chuyện. Những truyện như Vợ ba Đề Thám tuy cách ta trên nửa thế kỷ và mang thề tài cổ tích rõ rệt nhưng trong đó có những tên giặc râu xồm, mũi lõ, có súng trường, súng lục… nên vẫn chưa thể nào thừa nhận là truyện cổ tích.

Nó là câu chuyện đã qua nhưng chưa hoàn toàn “cổ”. Nó thuộc về loại những truyện mới. Mặc dầu không có mốc giới hạn về thời gian rõ rệt, nhưng một truyện cổ tích cố nhiên không thể là một truyện đời nay và cũng không thể là một truyện dĩ vãng nhưng phù hợp với đời nay hơn là đời xưa, phù hợp với trạng thái sinh hoạt hiện đại hơn là trạng thái sinh hoạt của xã hội cũ. Cái chất liệu dĩ vãng chứa đựng trong đấy thực tình chưa lắng xuống, và chưa được đại đa số nhân dân công nhận là ở bên kia biên giới của cái “mới”. Sở dĩ có những câu chuyện mới sáng tác gần đây có thể liệt vào truyện cổ tích là vì bối cảnh, khí hậu xã hội, phong cách sinh hoạt và tâm lý nhân vật mà chúng được xây dựng, so với bối cảnh, khí hậu, phong cách sinh hoạt và tâm lý của người đời xưa tuyệt không có gì là trái ngược. Cho nên, tính chất cổ là một tiêu chuẩn không thể thiếu được khi nhận định một truyện cổ tích.

Hai là, trong sự việc được kể đừng có yếu tố gì quá xa lạ với bản sắc dân tộc. Nghệ thuật cổ tích cho phép tác giả bịa đặt mọi tình tiết, thậm chí bịa đặt những tình tiết không hợp lý. Nhưng đã là cổ tích của một dân tộc thì sự bịa đặt không thể vượt ra khỏi bản sắc dân tộc. Hãy đặt một giả thuyết là có một câu chuyện không kém lý thú và màu sắc cũng rất cổ, lưu hành phổ biến trong khá nhiều người. Có điều, nhân vật trong truyện đáng lý là Bụt, Tiên, hay Ngọc Hoàng thượng đế, thì ở đây lại là… Đức Chúa Trời hay Đức Mẹ Đồng trinh. Chỉ cần thế thôi, câu chuyện đã trở nên xa lạ, đã nhạt đi mất nhiều ý vị của một cổ tích. Nhưng nếu đấy là một truyện ngụ ngôn hay khôi hài thì lại khác. Vai Đức Chúa hay Đức Mẹ vẫn không ảnh hưởng gì đến đặc trưng loại hình của chúng. Miễn câu chuyện có ngụ một ý tưởng sâu sắc hay gợi được cười cợt cho người nghe, người đọc là đủ.

Chúng ta thấy cái tên Đức Chúa hay Đức Mẹ truyền vào Việt-nam từ thế kỷ thứ XVI kể đến nay đã hơn bốn trăm năm mà vẫn chưa thể nào quen thuộc với tâm lý dân tộc. Trái lại, cái tên Bụt, Tiên cũng là mượn của những thứ tôn giáo ngoại lai nhưng đã thành truyền thống, vì từ đã rất xưa, những tôn giáo này từng hóa thân vào đời sống dân tộc, chấp nhận những sự thanh lọc gay gắt, trở thành tôn giáo chung chi phối cuộc sống tâm linh của cả cộng đồng. Đặc điểm này cắt nghĩa tại sao khi một truyện cổ tích của dân tộc này truyền vào một dân tộc khác, thì phải chuyển hóa thành một truyện mới, hay ít nhất cũng phải mang những mô-típ mới, những màu sắc quen thuộc hoặc gần như quen thuộc với điều kiện sinh hoạt, với tâm hồn của dân tộc mới.

Cần phải nói thêm là truyện cổ tích thường giàu tính cộng đồng. Giá thử trong truyện có in dấu cá tính của người sáng tác thì cá tính đó cũng phải phù hợp hoặc không phương hại gì đến tính chất chung của tập thể. Có thế, nó mới được tập thể thừa nhận và lưu truyền. Tính cộng đồng tuy không đồng nhất nhưng có quan hệ khăng khít và là cơ sở của tính dân tộc. Tất nhiên, trong cùng một giai đoạn lịch sử, giữa các dân tộc khác nhau, các tập đoàn người khác nhau vẫn có những ước mơ, hy vọng giống nhau, cho nên thế giới trong truyện cổ tích Đông Tây vẫn thường có những nét gần nhau. Mặc dù thế, truyện cổ tích của mỗi dân tộc vẫn phản ánh xã hội, đất nước, cuộc sống, phong tục, những vấn đề lịch sử cụ thể của dân tộc mình. Dân tộc tính đối với cổ tích quả là một tiêu chuẩn khá quan trọng.

Ba là, truyện cổ tích ít nhiều phải thể hiện tính tư tưởng và tính nghệ thuật. Nay ta kể cho nhau nghe một câu chuyện rất xưa về ma. Một con ma gốc đề hiện hình lè lưỡi nhát người chẳng hạn. Câu chuyện ấy sẽ không bao giờ trở thành truyện cổ tích được nếu trong đó không bao hàm một ý nghĩa gì về cuộc đời, về con người, hay không có những tình tiết gợi hứng cảm cho người nghe. Không những truyện ma mà ngay cả truyện người, truyện thần, truyện vật cũng chưa hẳn là cổ tích nếu chúng không hướng đến một mục đích nhân sinh cao cả, hoặc có mục đích nhân sinh nhưng lại không tan biến vào trong từng tình tiết của truyện để trở thành một mục đích tự thân, một nhận thức thẩm mỹ sâu sắc. Rõ ràng, truyện cổ tích không phải là một loại truyện suông vô ý nghĩa, cũng không phải là một loại truyện “ngụ ý” tầm thường. Nếu là một truyền thuyết theo nghĩa rộng như trên đã nói, thì lại khác. Truyền thuyết không bắt buộc truyện nào cũng phải có yêu cầu nhân sinh hoặc thẩm mỹ đó.

Tất nhiên, nếu là truyện có ý nghĩa mà lại chỉ đơn thuần chép lại sự thật như truyện thời sự thì cũng không thể gọi là cổ tích. Như chúng ta đã biết, văn học nghệ thuật gắn liền với cái đẹp và do đó nó đòi hỏi sự gia công, sự nỗ lực sáng tạo. Là một loại hình tự sự hoàn chỉnh nhất trong các loại hình tự sự dân gian, yêu cầu sáng tạo này đối với cổ tích rõ ràng là nghiêm nhặt hơn các loại “truyện” dân gian khác rất nhiều. Tác giả truyện cổ tích phải vận dụng trí tưởng tượng, xếp đặt nội dung, bố trí tình tiết, làm cho mạch truyện tiến triển theo một kết cấu nghệ thuật nào đấy để đạt tới kết luận định sẵn. Nói cách khác, truyện cổ tích phụ thuộc rất nhiều vào ý định và tài năng của tác giả chứ không tùy thuộc hoàn toàn vào những câu chuyện xảy ra tự nhiên trong đời sống hàng ngày. Sở dĩ những sự tích Cố Bu, Ba Vành… không còn mang tính chất lịch sử nữa là nhờ thông qua hư cấu nghệ thuật của tập thể quần chúng nên câu chuyện thực đã được cải biên hoặc cách điệu thành những thiên truyện anh hùng, những nhân vật anh hùng đúng như quan niệm lý tưởng của quần chúng. Tất nhiên, tưởng tượng và hư cấu ở đây sẽ không hạ thấp mà càng làm cho nghệ thuật truyện cổ tích có giá trị chân thật hơn hẳn các loại truyện tự sự dân gian khác. Xét về mặt quan niệm nghệ thuật, điều này có khác với phương Tây. Trong cách kể truyện cổ tích của phương Tây, người kể thường vẫn dùng một câu kết nói rõ mình đã “tán dóc”, đã “bịa” trong suốt quá trình kể chuyện. Nghĩa là cả người kể lẫn người nghe không ai tin đấy là chuyện thật. Còn ở Việt nam thì khác: người kể chỉ thực sự thành công khi làm cho người nghe tin rằng chuyện do mình kể đã xẩy ra ở đâu đó, tại một địa phương phiếm chỉ nhưng không xa nơi họ đang sống. Cũng chính nhờ tính chân thật này mà sau khi đã ngừng kể, câu chuyện vẫn còn sống động, được biến hóa từ địa danh này sang địa danh khác, và truyền đi, qua trí nhớ của nhiều người.

Tóm lại, đặc điểm thứ ba này cho phép ta phân biệt truyện cổ tích với các loại truyện dân gian khác, ở chỗ, nó là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh. Nó là một thể loại đã đạt đến cấp độ cao trong nghệ thuật tự sự truyền miệng, trước khi chuyển sang giai đoạn toàn thịnh của văn xuôi tự sự trong nền văn học viết.

5. CÓ MẤY LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH?

Truyện cổ tích bao gồm nhiều thứ: truyện nói về người, truyện nói về vật; về ma quỷ, về Tiên Phật, cả những truyện về Thần Thánh nữa. Nhưng không nên dựa vào đấy mà phân loại. Thực ra đối với cổ tích và ngay cả đối với truyện cổ dân gian nói chung, bất kỳ một sự phân loại nào cũng chỉ có ý nghĩa chính xác tương đối. Nếu cần phải chia, thì theo ý chúng tôi nên chia làm ba loại sau đây:

1. Truyện cổ tích thần kỳ[9].

2. Truyện cổ tích thế sự.

3. Truyện cổ tích lịch sử.

● Cổ tích thần kỳ là loại truyện tương đối có nhiều nhân tố ảo tưởng nhất. Những truyền thuyết thần bí, kỳ quái, những truyện người, truyện vật nhưng bên trong đầy dẫy những sự can thiệp của huyền diệu đều có thể xem là cổ tích thần kỳ. Truyện cổ tích thần kỳ còn có một phần là tàn dư của những tưởng tượng gắn liền với mê tín, ma thuật, đồng bóng, và các hình thức tôn giáo của con người nguyên thủy. Tác giả loại truyện này nhiều khi đã dùng những lực lượng siêu tự nhiên để thắt nút, mở nút câu chuyện mà không cần biết có hợp lý hay không. Nhưng chính cái nhân tố ảo tưởng đó tạo nên biết bao tình tiết kỳ thú: nó kích thích cực mạnh trí tưởng tượng của người nghe người đọc, bằng cách đem một thế giới không thực thay thế cho thế giới có thực. Mà trong thế giới không thực đó lại bao gồm những cái nên xảy ra, đáng lẽ phải xảy ra, cho nên chính nó còn giúp người ta hiện thực hóa những ước muốn không tưởng, nghĩa là chỉ trong khoảnh khắc có thể quên bẵng những cái đang xảy ra giữa cõi đời thực để nhập thân vào một thế giới hoàn toàn xa lạ nhưng vốn có những điểm đồng cảm về lý tưởng thẩm mỹ với chính mình. Điều đó giải thích vì sao người nông dân xưa kia có thể tạm quên hết mọi mệt nhọc để theo dõi một cách hứng thú con đường Từ Thức đi tìm động tiên, hay là cùng xuống thăm âm phủ với Thủ Huồn[10].

Trong kho tàng truyện cổ tích nước ngoài, truyện thần kỳ chiếm một phần khá lớn. Đó là đặc điểm của truyện cổ tích dân gian trên thế giới. Hơn nữa có khá nhiều truyện trong đó chứa đựng tàn dư của thần thoại, như truyện cổ tích Ấn-độ, Khơ-me (Khmer) và của một số các nước phương Tây.

● Cổ tích thế sự hay sinh hoạt, trái với loại truyện trên, là những truyện không có hoặc có rất ít nhân tố ảo tưởng. Đây là những truyện bịa nhưng rất “gần đời thiết thực”; chúng giữ được khá nguyên vẹn sắc thái, âm hưởng, thậm chí, đôi khi cả những hình thức diễn biến chủ yếu của muôn nghìn câu chuyện vẫn xảy ra trong cuộc sống đa dạng của xã hội loài người. Đấy là những truyện như Của trời trời lại lấy đi… Trộm lại gặp trộm, Ông già họ Lê, Trọng nghĩa khinh tài, những truyện mang đề tài kiện cáo, chiến tranh, những truyện phiêu lưu v.v… hoặc cả những truyền thuyết rất gần với sự thật kiểu Sự tích dưa hấu, Sự tích ông đầu rau… Truyện cổ tích thế sự chẳng những không làm cho người nghe, người đọc quên mất cõi đời trước mắt mà lại dẫn họ xuyên sâu vào mọi ngõ ngách cuộc đời. Nó không nói đến những cái phi thường, nhũng cái “quái đản bất kinh”, nhưng trong cái tầm thường, cái bình dị của các tình tiết, vẫn ẩn giấu một khả năng gây hứng thú mạnh mẽ, hoặc một điều gì đáng thương đáng cảm rất mực.

Nếu có những truyện mà nhân tố ảo tưởng được đem dùng để mở nút hay kết thúc câu chuyện nhưng toàn bộ mạch truyện vẫn không chút xa lạ với lô-gích của đời sống, như truyện Sự tích chim hít cô chẳng hạn, thì vẫn có thể xếp vào cổ tích thế sự. Thật ra, tuy kết cục của truyện Sự tích chim hít cô có nói đến một đứa bé hóa thành chim, song mạch sống của toàn câu chuyện vẫn không hề chịu chi phối bởi một yếu tố thần kỳ nào. Tác giả vẽ một bức tranh xã hội vẫn thường thấy trong thời đại cũ: hình ảnh thảm thiết của hai cô cháu nhà nghèo giữa tình cảnh đói kém trầm trọng. Tất nhiên, cũng cần phân biệt nó với loại truyện thời sự nói trên kia: một bên là sự thật, một bên là mô phỏng, nhào nặn lại sự thật.

Trong kho tàng truyện cổ tích Việt-nam có khá nhiều truyện loại này. Đây là một đặc điểm mà chúng ta sẽ nói ở phần sau.

● Cổ tích lịch sử là những truyện vốn dựa vào một nhân vật lịch sử hoặc một sự kiện lịch sử nào đấy nhưng lại được phát triển thành một câu chuyện hoàn chỉnh, độc lập đối với sự kiện lịch sử ban đầu. Có khi chỉ mới là một truyền thuyết, một sự tích. Có khi là một truyện hoàn toàn tưởng tượng nhưng nhân vật chính trong đó lại được đội tên của một nhân vật lịch sử. Cũng có thể đấy là một sự thật trăm phần trăm, nhưng không ai bảo đảm phần chính xác. Cố nhiên, cái cốt lịch sử trong truyện phải mang một ít nét đặc biệt phi thường, gợi trí tò mò say mê của người nghe, người đọc.

Loại cổ tích này có mấy hình thức đáng chú ý: có truyện, nhân vật và sự việc bị cường điệu hay phóng đại lên một mức độ nhất định nào đó như truyện Rắn báo oán. Có truyện, yếu tố truyền thuyết vẫn không lấn át mấy yếu tố lịch sử. Yếu tố truyền thuyết chỉ là một ít nét thần kỳ nhẹ nhõm được đem tô vào hay viền vào xung quanh những con người, những sự việc vốn xảy ra trong đời sống thực. Truyện Bùi Cầm Hổ là một ví dụ. Có những truyện khác, trái lại, yếu tố truyền thuyết đóng vai trò chủ đạo, còn yếu tố lịch sử thì chỉ chiếm một tỷ lệ rất ít ỏi, như truyện Khổng Lồ đúc chuông.

Ngoài ra, như trên đã nói, có một số truyện hầu như không có yếu tố truyền thuyết. Bởi vì nội dung câu chuyện mặc dầu có gắn vào những tình tiết có thể ngờ là bịa đặt, nhưng trước sau cũng rất gần sự thật.

Như truyện Chàng Lía, Hầu Tạo, Quận He… Những truyện ấy phần nào giống với dã sử, hoặc giống với loại truyện thời sự đã lâu ngày biến thành truyện có tính chất lịch sử. Truyện cổ tích lịch sử có thể là một thể loại mang đậm nét đặc thù của truyện dân gian Việt-nam, bởi lẽ con người Việt-nam xưa nay, do điều kiện lịch sử luôn luôn phải chống ách đô hộ xâm lược để bảo vệ nền độc lập, nên trong tâm thức vẫn gắn bó với “xã tắc”, và do đó thường xuyên có cái nhìn “lịch sử hóa” đối với mọi hiện tượng, sự vật.

[1] Nghiêm Toản trong Việt-nam văn học sử trích yếu (Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài-gòn, 1949, tr.36), chia làm bốn loại: truyện mê tín hoang đường, truyện luân lý ngụ ngôn, truyện phúng thế hài đàm và sự tích các thánh. Thanh Lãng trong Văn học khởi thảo: Văn chương bình dân (Phong trào văn hóa xuất bản, Hà-nội, 1954; tr.35-60) thì chia làm bảy: truyện ma quỷ, truyện anh hùng dân tộc, truyện ái tình, truyện luân lý, truyện thần tiên, truyện phong tục và truyện khôi hài. Tác giả sách Truyện cổ dân gian Căm-pu-chia chưa hề in (F. Martini và S. Bemard: Contes populaires inédits du Cambodge. G.P. Maisonneuve, Paris, 1946) thì chia những truyện do các ông sưu tầm làm truyện kỳ diệu, truyện về gốc tích (sự vật), truyện ngụ ý, truyện tòa án, truyện vui, truyện nói về vật, truyện vặt, v.v…

[2] a) Những truyện thuộc về cái lối cổ tích hoặc dã sử, cha mẹ hay ông bà tôi tối thường kể cho con cháu nghe; b) Những truyện mà kết cục đã thành câu phương ngôn, lý ngữ, hoặc trái lại xuất xứ từ những câu lý ngữ phương ngôn ấy ra; c) Những truyện thuần về văn chương trong có những câu ca lời hát nôm na mà vui thú, giản dị mà tự nhiên xưa kia đâu đó vẫn thường truyền tụng; d) Những truyện ngụ một cái ý cao xa thuộc về triết lý may ra so bì được với Bách tử bên Trung-quốc và sau này có thể đem vào môn học cổ điển của nước nhà; e) Những truyện vui chơi cười đùa có lý thú để tiêu sầu khiển muộn, nhưng chưa quá thuộc về cái thể “tiếu lâm”, các nhà đạo đức nghiệt ngọng vẫn quen chê là nhảm nhí…” (Truyện cổ nước Nam (A. Người ta), Thăng Long xuất bản, 1952).

[3] Hợp tác xã Văn hóa mới xuất bản, Thanh-hóa, 1951; tr.92.

[5] Nhà xuất bản Văn sử địa, Hà-nội, in 1ần thứ nhất 1956, 1ần thứ hai 1957.

[6] Tiên thoại ở Tây phuơng (contes des fées) không phải 1à truyện tôn giáo, đó 1à cổ tích.

[7] Cắt nghĩa theo Bách hhoa từ điển La-rút-xơ (Larousse).

[8] Truyện kể rằng có một ông lão đánh cá có ba người con trai đặt tên là Linh, Minh và Cung. Họ có sức khỏe tuyệt trần, có tài võ nghệ. Quân Thục đến đánh. Tản Viên bảo vua Hùng mời ba anh em cầm quân đi đánh. Nhiều trận ác chiến diễn ra. Trong một trận, họ bị quân Thục áp đảo về số lượng, vây bọc tứ bề trong ngoài không thông nhau được. Sau mười bốn ngày nhịn đói, một hôm họ cầu thần, tự nhiên thấy trời đất tối tăm, rồi bỗng xuất hiện trước mặt ba anh em một con bò cái. Anh cả là Linh sai lính hầu vắt được một chậu sữa. Uống xong sữa bò thần, ba anh em thấy sức khỏe tăng lên rất nhiều. Sau đó, hàng đàn bò xuất hiện trên núi cao. Lập tức họ ra lệnh cho mười lăm ngàn quân sĩ vắt sữa uống và sức khỏe quân đội bỗng trở nên vô địch. Họ xông ra đánh cho tan tác địch quân, giết hàng nghìn người, cướp được quân lương khí giới rất nhiều. Khi đoàn quân quay trở về thì chẳng thấy bò đâu nữa. Để nhớ ơn, ba anh em thề từ đấy không ăn thịt bò và hạ lệnh cho dân làng Phao-võng (tức Võng la, huyện Đông-anh) không được giết thịt bò (X Võng-la thôn thần tích). Chúng tôi ngờ rằng những hình tượng uống (hoặc bú) sữa bò thần, và hàng đàn bò xuất hiện để giúp cho mười lăm ngàn quân có sức khỏe vô địch, v.v… là tàn dư của những mảnh thần thoại hoặc truyền thuyết xa xưa lưu lại trong bản thần tích này.

[9] Trong 1ần in thứ nhất bộ sách này, chúng tôi dùng khái niệm cổ tích hoang đường. Tiếp thu ý kiến của một số nhà nghiên cứu thống nhất với quan điểm phân loại của chúng tôi, chúng tôỉ xin đổi mấy chữ này thành cổ tích thần kỳ cho được rõ nghĩa hơn.

[10] Xem các truyện Sự tích động Từ Thức (số 130) và Sự tích sông Nhà-bè (số 30) ở phần sưu tập truyện.

6. PHÂN BIỆT TRUYỆN CỔ TÍCH VỚI LỊCH SỬ VÀ VỚI TIỂU THUYẾT

Truyền thuyết cũng như cổ tích lịch sử là những truyện có gắn liền với một ý nghĩa, một cái tên lịch sử (tên người, tên đất, v.v…) chứ không phải là lịch sử thực sự. Nhưng đối với người đời xưa thì truyền thuyết, cổ tích, cả thần thoại nữa, thường bị lẫn lộn với lịch sử. Khi chép tiểu truyện Chu An đời Trần, hay Nguyễn Trãi đời Lê, người ta không ngần ngại đưa cả Sự tích đầm Mực[1] hay truyện Rắn báo oán[2] xen lẫn với sử liệu thực.

Như chúng tôi đã nói “Truyền thuyết có khi là thần thoại bị sửa chữa cho gần với nhân tính, có khi là lịch sử bị thần thánh hóa hay lý tưởng hóa”[3]. Trong những giai đoạn khuyết sử của dân tộc, truyền thuyết, cổ tích lịch sử thường lẫn lộn với lịch sử và sự lẫn lộn này diễn ra từ đã rất lâu, khó lòng còn phân biệt. Có nhiều nhân vật trong thời Bắc thuộc được kể trong sách Việt điện u linh tập như Lý Ông Trọng, Lý Phục Man, Trương Hống, Trương Hát hay như bà Bát Nàn, bà Lê Chân, bà Thiều Hoa (theo thần tích đều là nữ tướng của Hai bà Trưng), v.v… ngày nay vẫn làm cho chúng ta ngờ vực không hiểu đó dễ thường là nhân vật lịch sử truyền thuyết hóa hay chỉ là nhân vật truyền thuyết mà thôi.

Điều cần lưu ý là không nên lẫn lộn truyền thuyết, cổ tích lịch sử với những truyện thuộc loại truyện thời sự đã chuyển hóa thành lịch sử, hay những truyện gần như là ” liệt truyện” hoặc “giai thoại lịch sử” được ghi vào sách vở ngày xưa, nhưng đồng thời cũng được nhân dân truyền tụng. Vè Ấm Ninh khởi nghĩa, truyện Em Tám lự tẩm dầu đốt kho bom Tân-sơn-nhất đều là những truyện thời sự đã thành lịch sử, truyện Vua Ngọa Triều là một liệt truyện, truyện Công chúa Huyền Trân lấy vua Chàm là một giai thoại lịch sử.

Nhưng cổ tích lịch sử thường khi là tài liệu bổ ích cho lịch sử. Bởi vì nó là lịch sử do nhân dân kể, theo ý kiến và dư luận của nhân dân. Gor-ki từng nói: “Văn học dân gian có ý kiến riêng của nó đối với hoạt động của Lu-y XI, của I-van Hung đế, và ý kiến đó khác hẳn với cách đánh giá của những pho sử do những nhà chuyên môn viết ra, vì họ không quan tâm lắm đến vấn đề cuộc đấu tranh của các nhà vua chống lại bọn chúa phong kiến đã đem lại những gì cho đời sống của nhân dân lao động”[4].

Cho nên, cổ tích lịch sử cũng có khi được người xưa coi là dã sử. Có những nhân vật lịch sử như Chúa Thao (đời Mạc), Hầu Tạo (đời Minh Mạng) ta hầu như chỉ được biết qua truyện cổ tích mà thôi. Cũng vậy, nếu không có truyện Chàng Lía thì ngày nay mọi người dễ đã quên một anh hùng nông dân khởi nghĩa sống vào khoảng trước thời Tây Sơn, mà sử gia triều Nguyễn chẳng ai buồn chép đến. Nếu khéo sử dụng – nghĩa là không quá lạm dụng – thì cổ tích lịch sử sẽ giúp ích trong một chừng mực nào cho quốc sử.

Sau hết, cũng nên phân biệt truyện cổ tích với tiểu thuyết. Giữa hai loại hình này tuy phương thức biểu hiện có những chỗ giống nhau, nhưng thật ra lại khác nhau trên nhiều nét căn bản.

Tiểu thuyết cũng giống như truyện cổ tích, có thể chia làm hai loại: một loại, câu chuyện bị chi phối bởi yếu tố hoang đường quái đản, và một loại gần với đời sống thực. Tiểu thuyết có khi là những truyện rất dài dòng, với rất nhiều tình tiết, nghĩa là những câu chuyện có một phạm vi bao quát hiện thực rộng lớn, một khả năng tái hiện rất cao mọi diễn biến, màu sắc phức tạp và phong phú của đời sống xã hội mà truyện cổ tích không bao giờ có thể so sánh được. Nhưng tiểu thuyết cũng có khi là những truyện rất ngắn, những cốt truyện đơn giản đến mức sơ sài, hay hơn nữa là những cổ tích được phóng tác.

Khác với truyện cổ tích bắt buộc phải bó hẹp trong tính chất cổ và tính chất dân tộc, tiểu thuyết có thể mở rộng hơn về thời gian và không gian; nhân vật và hoàn cảnh mà nó xây dựng, sống trong thời đại nào và ở bất cứ vùng nào trên trái đất, đều được cả. Nhưng cái “bịa” của tiểu thuyết phải hợp lý. Trái lại, truyện cổ tích gần như lại được phép “phóng túng” về điểm này. Nhiều hình tượng trong cổ tích tưởng như là quá vô lý mà chẳng ai nghĩ đến việc giải thích tại sao lại như thế.

Nếu bằng vào thủ pháp nghệ thuật, chúng ta có thể phân chia tiểu thuyết thành hai loại khác nhau: một là “truyện kể” giống với cổ tích, hai là “truyện tả” khác hẳn với nghệ thuật cổ tích. Thường khi, hai loại vẫn được sử dụng xen lẫn với nhau mà thuật ngữ chuyên môn gọi là trần thuật phối hợp đặc tả. Nhưng dù phối hợp hay không phối hợp thì theo đúng nghĩa của nó, tiểu thuyết phải được tả nhiều hơn là kể. Mô tả tỷ mỷ nhân vật, sự việc cũng như đi sâu khai thác các cạnh góc khác nhau của cái thế giới bên trong của con người, nhà tiểu thuyết sẽ có vinh dự dựng lại những hình ảnh về đời sống đúng như nguyên mẫu. Và ở đây đặc trưng loại biệt của một ngòi bút tiểu thuyết trước hết phải là năng lực tạo hình. Mỗi nhà tiểu thuyết tạo ra một thế giới riêng, thông qua cái nét riêng không thể lẫn lộn trong thiên bẩm nghệ sĩ của tâm hồn anh ta; nhưng anh ta vẫn phải làm phong phú thế giới ấy bằng phong cách miêu tả, sao cho trong đó cũng đầy đủ mọi diện mạo khác nhau của đời sống, với những tình tiết phức tạp như thế giới ta sống hàng ngày.

Trái lại, thế giới trong truyện cổ tích không cần thiết phải miêu tả chi li. Vì thế mà chúng thường có tính ước lệ. Thời gian, không gian ở đây chỉ còn là những khái niệm phiếm chỉ. Và nếu đứng về một mặt nào đó, chúng bị bó hẹp so với tiểu thuyết, thì đứng về một mặt khác, chúng lại cũng quá rộng, đến nỗi không còn tính cụ thể lịch sử nữa. Cộng thêm vào đó là tính chất truyền miệng, đã làm xích gần thế giới của tất cả các truyện cổ tích Đông Tây lại, khoác lên cho chúng những màu sắc và không khí phảng phất giống nhau. Tất nhiên, truyện cổ tích của mỗi dân tộc vẫn có những điểm đặc thù. Vì cổ tích khác với tiểu thuyết như thế cho nên những truyện cổ tích đã đứng vững xưa nay sẽ không chịu mang hình thức tiểu thuyết hóa. Dĩ nhiên, không phải truyện cổ tích nào cũng chỉ có thể biểu hiện dưới một hình thức khô khan, đơn điệu.

Nói tóm lại, truyện cổ tích là một loại sáng tác văn nghệ của nhân dân. Nó có đặc trưng nghệ thuật riêng biệt không giống với các loại truyện ngụ ngôn, khôi hài, tiếu lâm, cũng như có phần khác với thần thoại, truyện tôn giáo và truyện thời sự. Do tính chất truyền miệng, nó mang hình thức truyện kể chứ không mang hình thức truyện tả, và do đó cũng không đồng nhất với thể loại tiểu thuyết. Nhưng với khả năng hấp dẫn không kém gì tiểu thuyết, trong một thời kỳ mà tiểu thuyết chưa phải là thứ nghệ thuật phổ cập, thì nó là một trong những loại hình nghệ thuật quan trọng, làm nhiệm vụ giải trí cho dân chúng, đồng thời cũng thỏa mãn nhu cầu cảm thụ thẩm mỹ, nhu cầu giáo dục và đấu tranh trong xã hội.

[1] Xem truyện số 29, tập này.

[2] Xem truyện số 158, tập IV.

[3] Lược khảo về thần thoại Việt-nam, sách đã dẫn; tr.22.

[4] Báo cáo đọc ở Đại hội nhà văn Liên-xô năm 1934 (Gorki bàn về văn học, tập II, Nhà xuất bản Văn học, Hà-nội, 1970; tr.256 – 257).

Cập nhật thông tin chi tiết về Truyện Cổ Tích Nhật Bản – “Urashima Tarou” trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!