Bạn đang xem bài viết Trình Bày Cảm Nhận Của Bản Thân Về Bài Trao Duyên được cập nhật mới nhất trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Khi cảm nhận Trao duyên cũng như tìm hiểu về giá trị nội dung và thẩm mỹ và làm đẹp của Truyện Kiều nói chung và trích đoạn Trao duyên nói riêng, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả cũng như tác phẩm.
Nguyễn Du (sinh vào năm 1765 – mất năm 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông quê ở TP. Hà Tĩnh nhưng thật ra đại thi hào dân tộc bản địa Nguyễn Du đã được tiếp nhận tinh hoa từ rất nhiều vùng đất: miền quê TP. Hà Tĩnh quê cha của ông vốn rất nổi tiếng là vùng đất địa linh nhân kiệt, truyền thống hát quan họ từ bao đời nay ở quê mẹ vùng Kinh Bắc đã vun vén cho ông những cảm tình da diết.
Nguyễn Du sinh ra và trưởng thành ở kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến, đến sau này lấy vợ quê Tỉnh Thái Bình, ông được có dịp được tiếp xúc với truyền thống văn hóa truyền thống của một vùng đất đồng lúa mênh mông. Với mỗi vùng đất, Nguyễn Du đều phải sở hữu những ấn tượng sâu đậm và đó cũng là suối nguồn ngọt ngào về văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và làm đẹp giúp bồi đắp và hình thành nơi ông một phong cách sáng tác độc đáo.
Những kiệt tác của ông là những sáng tác tiêu biểu ở cả mảng chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, có những tập thơ tiêu biểu như: “Thanh Hiên tiền hậu tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Còn về chữ Nôm, có thể nói về một số tác phẩm như: “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Thác lời trai phường nón” … Đây đều là những tác phẩm để lại tiếng vang trong thâm tâm người đọc và với những đóng góp nổi bật cho văn học Việt Nam, Nguyễn Du xứng danh với danh xưng là một tác gia được ngưỡng vọng đến muôn đời.
“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Cảm nhận Trao duyên để thấy đây là đoạn trích gồm có những câu thơ từ câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác “Truyện Kiều”. Đoạn trích có sự hiện hữu của hai nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân trong hoàn cảnh đặc biệt quan trọng: gia đình có biến, để việc nhà ổn thỏa Thúy Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh và bỏ lỡ cuộc tình với Kim Trọng. Trong đêm trước thời gian ngày rời xa gia đình và người thương, Thúy Kiều đã cậy nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng.
Cảm nhận Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Khi cảm nhận Trao duyên, ta thấy ngay thảm kịch tình yêu dang dở cùng với những nỗi khổ đau tận cùng vì phải hi sinh chữ tình của nàng Kiều. Những tâm tư trao gửi với Thúy Vân đó chính là những nỗi niềm sâu thẳm mà nhói lòng của nàng Kiều.
Viết hai câu thơ mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã thể hiện lời mở đầu của Thủy Kiều với Thúy Vân rất đỗi tâm thành:
“Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ thời điểm gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Hai từ “cậy em” của Thúy Kiều đã làm toát lên sự tin tưởng đến mức tuyệt đối của Thúy Kiều ở người em gái thân yêu. Phải chăng, hơn hết sự nhờ cậy, Kiều mong rằng Thúy Vân sẽ sở hữu thể thông cảm và sẻ chia cho tình cảnh của chị. Chưa rõ việc Thúy Kiều sắp nói ra đây là gì nhưng dường như với Kiều, đó là một việc không hề giản đơn nên trong lời mở đầu ấy chứa đựng sự dằn vặt, day dứt và mới khiến Kiều trở nên băn khoăn, ngập ngừng đến như vậy.
Câu thơ tiếp theo càng tỏ rõ tính chất nghiêm trọng của vấn đề mà Kiều sắp nói, bởi có nghiêm trọng thì Kiều mới đưa ra lời đề nghị khác thường như vậy: “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Kiều mời Vân “ngồi lên”, nàng “lạy” rồi mới thưa chuyện cùng em. Khi cảm nhận Trao duyên ta thấy, qua hành động ấy Kiều rất trông đợi sự giúp đỡ của Vân, nàng xem Vân như thể một ân nhân và mong muốn vị ân nhân ấy sẽ sở hữu thể lắng nghe và đồng cảm cùng với tâm tư, nỗi niềm mà mình sắp thổ lộ.
Những biểu hiện của Kiều trong cuộc đối thoại sắp diễn ra với Thúy Vân đã hỗ trợ cho không khí của thời khắc “trao duyên” trở nên trang trọng hơn bao giờ hết. Trước nay, Kiều và Vân là chị em rất mực gần gũi, thân thiết nhưng sự gần gũi và thân thiết ấy không có nghĩa sẽ làm cho Kiều nói ra một cách tự nhiên và suôn sẻ những gì đang trĩu nặng trong thâm tâm. Thế nên, cách dẫn dắt tinh tế và thâm thúy ấy ở Thúy Kiều đã trở thành điều khiến Vân không thể không chú ý, không để tâm đến những lời mà chị mình sắp nói ra.
Cảm nhận Trao duyên, người đọc nhận thấy khi Thúy Kiều kể lại những kí ức tươi đẹp về một tình yêu hẹn ước trăm năm của mình và Kim Trọng là những cảm xúc xót xa tiếc nuối. Một mối tình đột ngột bị dòng đời xô đẩy phân cách khiến cho nó buộc phải “giữa đường đứt gánh tương tư”. Nhắc lại chuyện ấy, Kiều không khỏi đau xót, chua chát tiếc nuối những tháng ngày được sống niềm sung sướng với tình yêu của mình.
Tình yêu ấy của nàng lại sở hữu số phận vô cùng ngắn ngủi. Chính cách sử dụng thành ngữ “giữa đường đứt gánh” và khái niệm trừu tượng chỉ tình yêu của Kiều “gánh tương tư”, tác giả đã góp phần diễn tả rõ nét nỗi đau đớn, xót xa trong thâm tâm Kiều khi phải nhìn thấy với việc thật không thể khác được: chia xa một người đã từng gắn bó khăng khít, đã từng có những lời giao ước thiêng liêng và những ân tình sâu đậm.
Lí do dẫn tới việc việc tình yêu bị chia cắt nói trên trên là bởi hoàn cảnh éo le bắt buộc Kiều phải lựa chọn: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Khi cảm nhận Trao duyên, người đọc nhận thấy giữa chữ hiếu thiêng liêng và tình yêu sâu nặng, Kiều không thể làm khác được nên đành hi sinh tình yêu để vẹn tròn chữ hiếu. Khi nói lên điều này, có lẽ Kiều nghĩ rằng Vân sẽ hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của mình mà chấp thuận những mong muốn về sau của nàng.
Tiếp đó, Kiều đã trao kỷ vật cho em sau những lí lẽ thật thuyết phục:
“Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền xa xưa Mai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy so tơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân liễu bồ đền nghì trúc mai Dạ đài cách mặt khuất lời, Rưới xin giọt nước cho tất cả những người thác oan.”
Khi nói đến việc “Ngày xuân em hãy còn dài” Thúy Kiều muốn đề cập trong thời gian tháng rất dài và rộng của tuổi trẻ em có và cái “duyên” Kiều gửi gắm chắc sẽ mang đến thú vui, niềm sung sướng cho em. Thổ lộ vấn đề đó, Kiều đã và đang kịp nhìn lại phận mình và thể hiện sự tủi thân vì biết rằng tuổi xuân của tôi cũng sẽ mất đi cùng với việc chia tay tình yêu.
Sau đó, Kiều không quên nương dựa vào tình máu mủ chị em ruột thịt để mong em nhận lấy một trách nhiệm không hề thuận tiện dàng chút nào. Lí lẽ ấy thật không thuận tiện để người khác từ chối vì ai lại nỡ lắc đầu khi người nhờ đến mình lại là một người chị đã từng hết mực gắn bó và yêu thương. Kiều cũng không ngại nhắc về cái chết để mong Vân hiểu rằng, chỉ khi em gật đầu “mối tơ thừa” ngang trái, Kiều mới có thể nhẹ lòng và dù có chết cũng cảm thấy thanh thản, mãn nguyện mà “ngậm cười hoàng tuyền hãy còn thơm lây”.
Sau lúc đưa ra hàng loạt những cơ sở để sở hữu thể thuyết phục em, Kiều mới bắt đầu trao em những kỷ vật đã khắc ghi ân tình sâu đậm của nàng. Đó là bức tờ mây ghi lời thề nguyền chung thủy và chiếc vành mà Kim Trọng đã trao để mong nàng giữ lấy làm tin. Nhưng cách trao kỷ vật của Kiều cũng hết sức đặc biệt quan trọng. Kiều mong mối “duyên” tình của nàng và Kim Trọng Thúy Vân có thể thay nàng giữ lấy nhưng hãy xem “vật này” là “của chung”.
“Giờ đây trâm gãy gương tan, Kể làm thế nào xiết muôn vàn ân ái! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi! Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Rõ ràng, trong cách nói của Thúy Kiều đã thể hiện sự quyến luyến, quyến luyến với tình yêu thiêng liêng của mình. Cảm nhận Trao duyên người đọc cũng nhận ra rằng Thúy Kiều gật đầu chia tay người yêu nhưng nhờ em để mình cùng sở hữu những kỷ vật ấy vì nó sẽ giúp nàng hồi tưởng lại những tháng ngày niềm sung sướng êm đềm, chỉ vậy thôi là Kiều đã cảm thấy an lòng.
Không chỉ trao kỷ vật cho em, Kiều còn dặn dò em rất chu đáo:
Thế giới u tối ấy tuy có sự tương phản với cuộc sống “nên vợ nên chồng” của em nhưng Kiều cũng gật đầu đầy vương vấn. Kiều cảm nhận rõ nét số phận bi thảm của mình nên nói với Vân mà cứ như trong trạng thái của người nửa tỉnh, nửa mê, nửa đang sống, nửa như đã chết.
Cuối cùng, những tâm tư sâu kín nhất, Kiều giành riêng cho Kim Trọng:
Cảm nhận Trao duyên, ta thấy nàng Kiều ý thức rất rõ ràng về hoàn cảnh “trâm gãy gương tan” của mình, cả cái “tơ duyên ngắn ngủi” nên những vần thơ của tác giả tựa hồ như thể hiện tiếng khóc day dứt của Kiều vì “phận bạc” và số kiếp “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tột cùng của việc đau khổ là tiếng nấc đến nghẹn lòng khi Kiều gọi tên người yêu: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”.
Sau nỗ lực nói cho thật rõ, thật tròn vành cái tên thân thương ấy, Kiều thú nhận rằng nàng đã khiến cho Trọng đau đớn. Thật ra lời thú nhận ấy đã và đang cho thấy ở Kiều có ý thức nhận trách nhiệm về mọi việc đã xẩy ra. Điều này càng làm nổi bật ở nàng vẻ đẹp của một người giàu đức hi sinh và sự hùng vĩ, dù hoàn cảnh xấu số nhưng vẫn luôn đau đáu, khắc khoải khôn nguôi cho tình cảnh của người khác. Những câu thơ được viết với cách ngắt nhịp 3/3 và sự ngân dài của nhịp thơ đã tạo nên âm vang của tiếng khóc dằn vặt, nức nở.
Nhìn nhận và đánh giá về nội dung thẩm mỹ và làm đẹp khi cảm nhận Trao duyên
Nhìn nhận và đánh giá một cách tổng quát khi cảm nhận Trao duyên, về nội dung, đoạn trích đã thể hiện rõ nét ở nhân vật Thúy Kiều những phẩm chất vô cùng đáng quý: hi sinh vì gia đình và chu đáo với những người thương. Sát đó, đoạn trích còn làm toát lên nỗi đau đến xé lòng của Kiều khi phải chia tay mối tình đầu của một thời thanh xuân tươi đẹp.
Để thể hiện những nội dung nói trên, đoạn trích “Trao duyên” đã sử dụng cách miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế. Cùng với đó, việc chọn lọc hình thức ngôn ngữ độc thoại nội tâm cũng giúp tác giả chuyển tải được hết những nỗi niềm của nhân vật.
Dàn ý cảm nhận Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Để cảm nhận một cách thâm thúy và đầy đủ về giá trị nội dung và thẩm mỹ và làm đẹp của trích đoạn, người đọc cần nắm được dàn ý đầy đủ khi cảm nhận Trao duyên.
Đôi nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc bản địa đồng thời cũng là danh nhân văn hóa truyền thống thế giới. Tác phẩm Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học nước nhà và được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Giới thiệu đoạn trích Trao duyên về nội dung, vị trí, ý nghĩa.
Sự thuyết phục cùng những lời nhờ cậy của Thúy Kiều với Thúy Vân.
Những kỷ niệm tình yêu cùng sóng gió cuộc đời nàng Kiều.
Thúy Kiều đã trao kỉ vật và dặn dò với Thúy Vân.
Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới chàng Kim Trọng.
Tổng kết khái quát về nội dung và thẩm mỹ và làm đẹp của đoạn trích Trao duyên.
Thể hiện suy nghĩ cùng với những cảm nhận của chính bản thân mình về trích đoạn Trao duyên.
Khi cảm nhận Trao duyên, có thể thấy đại thi hào Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý và sự vận động trong nội tâm nhân vật. Như vậy, tác giả đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn khi đi sâu vào tìm hiểu tâm lý của nàng Kiều. Chỉ với “Trao duyên”, người đọc đã thấy được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Nhưng số phận trớ trêu thay, người con gái đáng trân trọng ấy vì chữ hiếu với mẹ cha mà phải hi sinh chữ tình, hi sinh đi niềm sung sướng lứa đôi của mình…
Trình Bày Cảm Nhận Của Bản Thân Về Bài Thơ Ngắm Trăng Của Hồ Chí Minh
[LIVE STREAM] Văn 8: Ngắm Trăng – Đi Đường (Hồ Chí Minh)
Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và tác phẩm Ngắm trăng
Trong quá trình phân tích giá trị nội dung và thẩm mỹ của tác phẩm cũng như cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả cũng như tác phẩm.
Hồ Chí Minh (sinh vào năm 1890 – mất năm 1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Người quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc bản địa, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhắc đến Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam không khỏi xúc động vì vị lãnh tụ vĩ đại ấy đã giành cả tuổi xuân ba mươi năm từ 1911 – 1941 để dạt dẹo khắp các châu lục, học tập những điều tốt đẹp để phụng sự cho đất nước khi về, mà lúc này Người đã ở độ tuổi trung niên.
Những biết quá trình tìm kiếm và mang lại sự sung sướng cho nhân dân Việt Nam là một tuyến phố rất chông gai và thử thách nhưng cuối cùng bằng bản lĩnh và tài năng, Hồ Chí Minh đã đoạt được tuyến phố ấy. Chính vì sự kiện ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại trung tâm vui chơi quảng trường Ba Đình, Hà Thành, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” – chính thức xác lập nền độc lập, tự do của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lưu lại một dấu son chói lọi trong sự nghiệp hoạt động cách mệnh của Hồ Chí Minh và trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Khi giai đoạn trường kì chống Pháp kết thúc, tưởng rằng gian khó đã lui lại để nhường chỗ cho một cuộc sống hòa bình đầy tươi đẹp, vậy mà khi phát xít Nhật và đế quốc Mĩ lê gót giày xâm lược đến Việt Nam, nhân dân ta lại phải gồng mình chiến đấu với chúng để bảo vệ đất nước. Vết thương cũ mà cuộc chiến tranh gây ra còn chưa kịp liền sẹo thì lại phải chịu bỏng rát của một cuộc đấu mới, gay cấn hơn, khốc liệt hơn.
Tuy nhiên nhân dân ta vẫn không hề nhụt chí chùn bước, có lẽ bởi vì có sự sát cánh đồng hành của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác bỏ là người đã tiếp tục trực tiếp lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu chống giặc với lòng nhiệt thành và tình yêu nước. Tấm lòng cao quý mà Người dành riêng cho dân, cho nước ấy luôn chân tình cho tới tận ngày Người ra đi vào năm 1969.
Không chỉ là một nhà cách mệnh, nhà chính trị lỗi lạc mà Hồ Chí Minh còn là một một nhà văn, nhà thơ rất mực tài hoa. Cả cuộc đời gắn bó mật thiết với hoạt động cách mệnh đã hỗ trợ Tác giả rất nhiều những tác phẩm với thể loại phong phú.
Có thể nói đến việc một số tác phẩm chính luận nổi bật của Người như: “Bản án quyết sách thực dân Pháp” (năm 1925), “Tuyên ngôn Độc lập” (năm 1945), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (năm 1946), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (năm 1966) …, Người còn viết truyện kí: “Vi hành” (1923), “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” (1925), “Nhật kí chìm tàu” (1931) … Về thơ ca, tập thơ “Ngục trung nhật kí” ( “Nhật kí trong tù”) với hàng trăm bài thơ chữ Hán đặc sắc được xem là tác phẩm đặc sắc kết tinh giá trị tư tưởng và thẩm mỹ thơ ca của Hồ Chí Minh.
Theo kế hoạch, Bác bỏ Hồ phải đi một quãng đường dài đến Trung Quốc mà điểm xuất phát là Pác Bó (Cao Bằng). Thật không may, lúc tới thị xã Túc Vinh, Người bị tóm gọn và bắt đầu chuỗi ngày bị giam giữ đầy khổ cực ròng rã suốt hơn một năm trời. Khi bắt giữ, chính quyền trực thuộc địa phương còn hết lần này đến lần khác chuyển Người khắp 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây.
Chính trong tầm thời gian đó, “Nhật kí trong tù” ra đời, phần lớn là thơ tứ tuyệt và “Ngắm trăng” cũng nằm trong số những tác phẩm đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Bài thơ nằm ở vị trí thứ 21 đã thể hiện rất chân thực tình yêu thiên nhiên say mê và tinh thần sắt thép ở Bác bỏ Hồ trong hoàn cảnh ngục tù gian khổ.
“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa”
Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh
“Trong tù không rượu cũng không hoa”
Với “Ngắm trăng”, Hồ Chí Minh đã tái hiện trước mắt người đọc hình ảnh về một người tù dù phải sống trong hoàn cảnh ngang trái nhưng vẫn tha thiết rung cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên và chính vì sự rung cảm đó đã hỗ trợ cho Người dân có một cuộc vượt ngục về tinh thần hoàn hảo.
Khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy ngay ở mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh viết:
Dịch nghĩa:
Trước nay, khi đối chiếu với một người thi sĩ có tâm hồn thưởng nguyệt, rượu và hoa thường làm cho họ có thêm sự hưng phấn để hồn thơ thêm dào dạt, thiết tha. Ấy vậy mà cũng trong thời điểm thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, có một người lại ở vào hoàn cảnh lao tù.
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”
Mà trong tù, tìm đâu thấy hoa và rượu để ngắm, để say. Có chăng chỉ là những gông cùm, xiềng xích, tra tấn, dọa nạt, đói khát hay bệnh tật mà thôi. Mà những thứ được liệt kê như trên giản dị và đơn giản dầu gì lại không khiến con người trở nên chán nản, bi lụy. Ngẫm lại để mà thấy một người đang sống đời tự do, từng bước một đi đều hừng hực một nỗi khát khao giành lại độc lập, tự do cho dân tộc bản địa mình bỗng chốc lại chịu cảnh lao ngục. Ngẫm lại để mà thấy hằng ngày, đối diện với họ chỉ là một không gian mịt mù, tối tăm, những song sắt lạnh lùng, chiếc gông xiềng nặng trĩu và bốn bức tường vô tri.
“Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”
Chắc hẳn trong hoàn cảnh đó, con người dù có mạnh mẽ đến đâu, gai góc đến đâu cũng khó lòng vượt qua giản dị và đơn giản dàng. Ấy vậy khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, người đọc cũng thấy Bác bỏ vẫn từng ngày, từng giờ phải đương đầu với việc giam cầm như vậy, vẫn phải chịu đựng sự tàn nhẫn, dã man của cách tra tấn, đày đọa về tinh thần mà bọn cầm quyền áp dụng. Sống trong tham gia như vậy, có lẽ nếu không tự tìm cho mình một động lực để tồn tại, ắt hẳn rất khó khăn để sở hữu thể vượt qua.
Câu thơ thứ hai tựa hồ như một nét vẽ mà sau đường mang bút của Hồ Chí Minh, cảnh thiên nhiên hiện hữu khá rõ ràng:
Dịch nghĩa:
Nếu như câu thơ đầu tiên làm người đọc động lòng vì hoàn cảnh ngang trái mà Bác bỏ Hồ phải đối mặt. Tưởng như đến câu thơ tiếp theo, tác giả sẽ nói đến cảm xúc xót xa của mình khi sống trong tham gia đó. Thế mà thật lạ lùng, Bác bỏ lại hướng tầm mắt người đọc ra phía không gian mông mênh, rộng lớn của đất trời và không hết lời ca tụng cảnh đẹp ( “lương tiêu”).
Khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy cảnh vật tươi đẹp, thu hút đến nỗi khiến người thưởng cảnh cũng bối rối, khó xử vì không “biết làm thế nào?” ( “nại nhược hà”) khi đối diện. Giờ phút này đây, bao nhiêu những khổ đau, vất vả, cực nhọc, xót thương của cảnh tù đày dường như vắng bóng, phải chăng mối bận tâm duy nhất của Bác bỏ lúc này là dành hết cho thiên nhiên vạn vật.
Cảnh ấy khiến Người cảm thấy bồn chồn, náo nức bởi vì một tâm hồn nghệ sĩ như Hồ Chí Minh, sao thể không rung động trước một khung cảnh mà Người dành hết lời truyền tụng như vậy. Có ý kiến nhận định rằng, trong bản dịch thơ của Nam Trân, khi sử dụng “khó hững hờ” để thể hiện ý nghĩa “biết làm thế nào?” thì chưa làm bộc lộ hết những bồn chồn, náo nức trong tâm trạng người thi sĩ vì bản thân từ “hững hờ” mang ý nghĩa thờ ơ, lạnh nhạt, không chú ý đến điều gì đó.
“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”
Trong thơ Bác bỏ, có lẽ hơn hết sự để ý, quan tâm, trước cảnh đẹp có lẽ Bác bỏ cũng không giấu được sự đón đợi, phấn chấn. Nhưng xét thấy, để tìm được từ ngữ nào khác thể hiện trọn vẹn ý nghĩa câu thơ thì đó không phải là điều đơn giản. Thế nên thiết nghĩ cũng không nên khắt khe với tác giả bản dịch thơ.
“Người hướng ra phía trước song ngắm trăng sáng, Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.”
Nhìn lại cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, có thế thấy, hai câu thơ đầu của bài thơ đã làm nổi bật một tâm hồn nghệ sĩ phải ngắm trăng trong một hoàn cảnh đặc biệt quan trọng chốn lao tù tưởng như không phù hợp. Tuy nhiên, Người đã mặc kệ hoàn cảnh, bỏ qua sự hiện hữu của vật chất là rượu và hoa để vẫn có thể thưởng cảnh ung dung, tự tại. Nhưng trước khoảnh khắc diệu kì của cảnh đẹp, Người vẫn không khỏi xốn xang.
Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy ở câu thơ thứ hai, người chiến sĩ – thi sĩ ấy đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh thiên nhiên đầy ấn tượng. Đến hai câu thơ cuối, trong cái nền của khung cảnh thiên nhiên, tác giả đã tập tập trung sự chú ý của người đọc vào quan hệ giữa thi sĩ và vầng trăng trên cao theo như đúng tinh thần “ngắm trăng” của bài thơ:
Dịch nghĩa:
Trong hai câu thơ đều phải sở hữu sự xuất hiện của rất nhiều hình ảnh: “nhân”, “nguyệt”, “song” (song cửa), vị trí của “song” cửa nhà tù luôn đứng chắn giữa câu thơ, còn người và “nguyệt” thì có sự hoán đổi. Chính vì sự linh hoạt hoán đổi vị trí này đã tạo nên tầng nghĩa giàu giá trị của bài thơ.
Ở câu thơ thứ ba, khi hướng tầm mắt ra phía “song tiền” để “khán minh nguyệt” cũng là lúc nhà thơ để cho tâm hồn mình thoát khỏi sự tù tội để giao hòa cùng vầng trăng sáng ở không gian khung trời mông mênh. Ở đây đã có một cuộc vượt ngục diễn ra, đó không phải là cuộc vượt ngục thông thường mà là vượt ngục về tinh thần.
Cảm nhận về bài thơ ngắm trăng, người đọc cũng nhận thấy không màng tới sự việc trớ trêu của hoàn cảnh, Bác bỏ Hồ đã neo tâm hồn mình vào vẻ đẹp của trăng trời. Đáp lại tình cảm của Người, vầng trăng cũng vượt qua rào cản của song sắt để tìm gặp mà “khán thi gia” như thể hiện sự đồng cảm, khích lệ. Sự tương giao, hòa hợp giữa trăng và người lúc này dường như đã đạp đổ cánh cửa vô tình, lạnh lùng của nhà tù.
Đến đây có thể thấy, song sắt tù tội có thể ngăn cách hai không gian đối lập: một bên là nhà tù tối tăm, là hiện thực tàn bạo, còn một bên là vầng trăng thơ mộng, biểu trưng của cái đẹp và sự tự do. Tuy nhiên, nó không thể nào ngăn nhà thơ hướng đến ánh sáng và sự tự do.
Hai câu thơ đã cho thấy cấu trúc đăng đối độc đáo khi xây dựng quan hệ: “nhân” – “song” – “nguyệt” (câu 3) và “nguyệt” – “song” – “thi gia” (câu 4), góp phần diễn tả được quan hệ gắn bó tri kỉ giữa trăng và người, giữa thiên nhiên và thi nhân: cả hai cùng hướng về nhau để chia sẻ cùng nhau.
Nhận xét khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng
Kết bài: Tóm lại, với “Ngắm trăng”, nhà thơ đã để lại cho văn học dân tộc bản địa một thi phẩm tuyệt diệu về sự việc giao hòa giữa con người và thiên nhiên, sự kết hợp giữa chất thép và chất tình ở người chiến sĩ – thi sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ đấy là khúc nhạc lòng của người thi sĩ, là niềm tin hướng về ánh sáng trong chốn ngục tù. Vì vậy, cả bài thơ không chỉ được soi sáng bởi vẻ đẹp của ánh trăng mà còn được soi sáng bởi vẻ đẹp của tâm hồn thi nhân…
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh
Giới thiệu đôi nét về Hồ Chí Minh không chỉ là người chí sĩ mà còn là một một người nghệ sĩ – thi sĩ.
Sơ qua về giá trị nội dung và thẩm mỹ của tác phẩm: Bài thơ Ngắm trăng đã thể hiện rất rõ ràng tình yêu thiên nhiên say mê và phong thái ung dung của Bác bỏ trong cả trong cảnh ngục tù.
Hoàn cảnh ngang trái của người chí sĩ chốn ngục tù.
Thiên nhiên xuất hiện trong cảm nhận của người chiến sĩ – thi sĩ.
Cuộc vượt ngục về tinh thần của người chiến sĩ – thi sĩ.
Tóm tắt lại giá trị nội dung và thẩm mỹ tạo ra sự thành công của tác phẩm.
Thi phẩm Ngắm trăng đã cho tất cả chúng ta hiểu thâm thúy hơn về cốt cách thanh cao của người chiến sĩ cách mệnh đồng thời có tâm hồn thi sĩ.
Như vậy, khi cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng, ta thấy đây là một trong những bài thơ tứ tuyệt hay và đặc sắc nhất của Bác bỏ trong tập Nhật kí trong tù. Ngắm trăng với lối ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa, cùng với thẩm mỹ đối tài tình đã cho thấy tình yêu thiên nhiên của Người, đồng thời cũng cho thấy tấm lòng yêu tự do với một phong thái dung dung và tự tại trong hoàn cảnh tù ngục.
Cảm Nhận 12 Câu Đầu Bài Trao Duyên Ngữ Văn 10
Viết bài cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên truyện Kiều nằm trong chương trình ngữ văn 10 bậc THPT. Bài viết tác giả Nguyễn Hoa biên soạn và không trùng lặp nội dung trên mạng.
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên
Nguyễn Du là một trong những đại thi hao xuất sắc của dân tộc. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với các tác phẩm bất hủ như: Thanh Hiên Thi tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Truyện Kiều;… Trong đó Truyện Kiều được xem là tác phẩm đỉnh cao để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả. Với ngòi bút điêu luyện, xuất sắc Truyện Kiều đã tái hiện bi ai và chua xót cuộc đời người con gái trong xã hội phong kiến xưa. Một trong những đoạn trích làm nên thành công đó của Truyện Kiều đó là đoạn trích Trao Duyên với 12 câu thơ đầu thấm đẫm nước mắt nghĩa tình.
Đoạn trích trao duyên nằm trong phần hai của bộ thơ kể về chuỗi ngày biến động và lưu lạc của Thúy Kiều. Mười hai câu thơ đầu chính là mở màn cho chuỗi ngày đầy xót thương ấy, là tiếng lòng tha thiết thẳm sâu Thúy Kiều gửi cậy lại cho Thúy Vân, nhờ em viết tiếp câu chuyện tình yêu Kim Kiều.
Mở đầu bài thơ đã vẽ ra một trớ trêu nghịch cảnh đến nhói lòng:
” Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa”
Thúy Kiều là chị ấy thế nhưng lại “cậy”, lại “thưa” với Thúy Vân? Những từ ngữ mang sắc thái trang trọng thường chỉ được dùng để đối đáp với bề trên thế nhưng ở đây Thúy Kiều lại dùng để ngỏ lời với em gái của mình. Phải chăng Thúy Kiều đang mang nặng một nỗi tâm tư tình cảm khó nói, một vấn đề nghiêm trọng muốn gửi gắm cho cô em em gái thân yêu. Cặp từ hô ứng : “cậy- chịu”; “Ngồi lên- thưa” thế hiện sự lô gic đầy khéo léo trong lời tâm tình của Thúy Kiều. Trước hết Thúy Kiều bày tỏ nỗi lòng mong muốn em sẽ giúp đỡ mình rồi sau đó mới thiết tha tỏ tường. Thúy Kiều vừa như khoản thiết mong chờ vừa như ấn định sự giúp đỡ từ em, rằng chỉ em mới có thể giúp được chị, chỉ có em mới khiến chị tin tưởng giao phó truyện quan trọng này.
Và rồi Thúy Kiều đã bộc bạch cái nỗi lòng đau đáu của mình với em:
” Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” ám chỉ trách nhiệm tình cảm, một nghĩa vụ chăm sóc yêu thương. “đứt gánh tương tư” phải chăng là nói về chuyện tình duyên dang dơ; Thúy Kiều đang tự trách mình không làm tròn cái đạo lý nghĩa tình với người thương; đang tự dằn vặt khôn xiết cái trách nhiệm bản thân. Và rồi nàng khéo léo mượn điển tích “keo loan” để dãi bày nỗi lòng mong muốn thiết tha rằng Thúy Vân sẽ thay mình kết duyên với Kim Trọng, thay mình chăm sóc yêu thương chàng. Hai chữ “mặc em” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều khi đem chuyện tình kiếp cả đời giao phó lại cho em.
“G ánh tương tư” không chỉ là lời hứa xuông mà nó còn bao hàm biết bao nỗi nhọc nhằn, bao tình cảm đánh đổi. Thúy Kiều biết như thế sẽ là ép buộc em; sẽ làm khó em; biết rằng trong lòng em cũng đang dậy lên những cơn bão lòng băn khoăn, do dự nhất định. Chính vì thế Thúy Kiều đã dãi bày những lý do để thuyết phục Thúy Vân:
“Kể từ khi gặp chàng Kim , Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sòng gió bất kỳ, Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thúy Kiều nhớ lại những ký ức của một thời lãng mạn đã qua. ” Kể từ khi” như mở ra một không gian dài rộng, mơ ước, hạnh phúc. ” Khi ngày quạt ước’; “Khi đêm chén thề” ngày và đêm; quạt ước- chén thề, không gian thời gian như dài rộng ra, con người như đang say mê mải miết với tình yêu cháy bỏng. Mặt trời mặt trăng như đã chứng kiến cho câu chuyện tình yêu Kim Kiều, cho lời thề ước trăm năm hai người. Lời ước thề như khắc sâu và không gian, vào cảnh vật và trường tồn cùng năm tháng vĩnh cửu.
Tưởng rằng chuyện tình lãng mạn đầy thi vị ấy sẽ đi tới hồi kết tươi đẹp thế nhưng có ai hay sóng gió ập đến, gia đình kiểu phải chịu oan sai, vì muốn bảo vệ cha mẹ và em trai mà Kiều đành phụ Kim Trọng. Đứng giữa cân đo giữa đạo làm con và người mình thương Kiều đành xé lòng làm trọn chữ hiếu. Nàng đã hi sinh chữ tình để làm tròn chữ Hiếu, sống tròn với trách nhiệm người chị cả gia đình.
Kiều vỗ về Thúy Vân rằng em tuổi còn trẻ, sau này sẽ có nhiều thời gian để vun vén tình cảm và dẫu rằng chị với Kim Trọng đã từng có chuyện tình đẹp nhưng lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Tấm chân tình theo thời gian sẽ chắp cánh nên một mối nhân duyên, một cuộc sống hạnh phúc cho hai người.
Kiều cũng viện đến cả tình máu mủ ruột già để cậy nhờ ân tình Thúy Vân. Bởi Kim Trọng là người mà Kiều yêu nhất, chỉ khi giao cho Thúy Vân Kiều mới cảm thấy được an ủi và yên tâm phần nào. Và Kiều mong rằng em hãy vì chị chị em em nặng nghia tình mà viết nốt lời thề non hẹn biển với chàng Kim.
Thúy Kiều như đang chắt chiu ra từng nỗi đau xót sâu thắm để dãi bày cùng Thúy Vân và mong rằng Thúy Vân hãy hiểu cho nỗi lòng này mà đồng cảm, sẻ chia.
Tấm ân tình trời bề của Thúy Vân Thúy Kiều sẽ luôn khắc tạc ghi tâm:
” Chị dù thịt nát sương mòn
Ngậm cười chín suối, hãy còn thơm lây”
Thành ngữ “thịt nát sương mòn”; “ngậm cười chín suối” khiến ta liên tưởng đến cái chết, đến sự đớn đau. Phải chăng chính Kiều đã tiên liệu trước được bão giông sắp xảy đến với cuộc đời mình mà sắp xếp ổn thỏa mọi thứ. Ân tình ngày hôm nay Thúy Vân nhận lời với chị sẽ mãi được Thúy Kiều khắc ghi. Tiếng thơ như trút hết nỗi lòng trong lòng Thúy Kiều. Đối với nàng, việc Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng chính là niềm vui, niềm an ủi và mãn nguyện nhất đối với cuộc đời Kiều đời đời kiếp kiếp chẳng quên.
Nguyễn Du thật tài tình khi sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với các điển tích và thành ngữ dân gia để bộc lộ tâm trạng Thúy Kiều. Một bức tranh với ngôn từ giản dị, gần gũi nhưng tạo được ấn tượng vô cùng mạnh trong lòng độc giả về hình tượng nhân vật. Phải chăng chính điều này đã làm nên sức lan tỏa và trường tồn của tác phẩm thơ Truyện Kiều.
Chỉ với 12 câu thơ Nguyễn Du như dựng lên sự éo le đầy bi ai của cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Qua đó đã lên án một xã hội thối nát, một xã hội mà sức mạnh đồng tiền đã dồn nén con người tới tận cùng nỗi đau mà chẳng thể làm sao để thoát ra, đầy tăm tối và mịt mù vô cùng.
–
Phát Biểu Cảm Nhận Của Bản Thân Về Bài Thơ Chiều Tối Của Hồ Chí Minh
Những nét chính về tác giả và tác phẩm
Cảm nhận bài thơ Chiều tối với vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ cần nắm được những nét cơ bản về tác giả cũng như tác phẩm.
Hồ Chí Minh là người con xuất sắc ưu tú của vùng đất Nghệ An. Đó cũng là nơi sinh thành của rất nhiều những tên tuổi nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu… Nhắc đến Hồ Chí Minh, dân tộc bản địa Việt Nam chắc hẳn cảm thấy luôn tự hào và kính trọng bởi Người đã dành cả cuộc đời của mình để sát cánh cùng với nhân dân trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do cho đất nước.
Từ thuở thiếu thời, ngay từ khi còn là một một chàng thành niên, Bác bỏ đã nuôi trong mình chí lớn được đi ra nước ngoài để học tập những điều tiến bộ có thể giúp đất nước thoát khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm. Ý nghĩ này đã thôi thúc và giúp Bác bỏ quyết định vào năm tôi vừa 21 tuổi – 1911. Thế là Người bắt đầu cuộc hành trình dài dạt dẹo khắp các châu lục và hành trình dài ấy kéo dãn đằng đẵng suốt ba mươi năm.
Sau khoản thời gian lĩnh hội những bài học kinh nghiệm quý giá từ nước bạn, Bác bỏ trở về nước và trực tiếp làm nhiệm vụ lãnh đạo dẫn đường và đến tháng 8 năm 1945, mọi sự nỗ lực và nỗ lực cố gắng của Bác bỏ và quân dân đã được đền đáp bằng thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa. Sau đó, Bác bỏ cũng đây là người hiên ngang đứng trước trung tâm vui chơi quảng trường Ba Đình để thay mặt nhân dân Việt Nam, tuyên bố với thế giới về việc khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự kiện trọng đại trong năm 1945 trong thời gian ngày 2 tháng 9 ấy sẽ mãi mãi in sâu vào trong tâm trí của mọi người con Việt Nam. Trong khoảng time tháng sau đó, Người vẫn nhiệt thành trong vai trò là người lãnh đạo để tiếp tục giúp dân ta đánh đuổi đế quốc Mĩ thế nhưng khi còn chưa kịp nhìn thấy nhân dân Nam – Bắc sum họp một nhà thì năm 1969, Người đã ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho con cháu ở lại. Tuy nhiên, những sẽ thêm phần của Hồ Chí Minh cho nền độc lập nước nhà vẫn sẽ vĩnh cửu cùng năm tháng.
Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy tác phẩm này được Hồ Chí Minh sáng tác trong hoàn cảnh trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên bảo vào thời gian cuối ngày thu năm 1942. Đây là bài nằm ở vị trí thứ 31 của tập thơ “Nhật kí trong tù”, một tập thơ gồm có 134 bài thơ được sáng tác bằng chữ Hán nhằm tố cáo sự tàn bạo của cơ chế nhà tù Tưởng Giới Thạch. Đồng thời bài thơ cũng phần nào khắc họa bức chân dung tự họa của người tù cộng sản Hồ Chí Minh trong thời gian bị tóm gọn giam vô cớ từ ngày thu năm 1942 – 1943 tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Để thể hiện những nội dung nói trên, trong bài thơ nói riêng và tập thơ nói chung, tác giả đã sử dụng lời thơ cô đọng, hàm súc và đặc biệt quan trọng là cho thấy sự khéo léo trong việc kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần tiến bộ.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” “Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ”
Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh
Thiên nhiên và con người trong “Chiều tối” là những hình tượng chủ đạo trong bài thơ. Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy Hồ Chí Minh dường như đã phác họa ra trước mắt người đọc bức tranh tuyệt đẹp trong thời điểm chiều tối. Và để tạo nên sự kì diệu ấy là nhờ có sự hiện hữu của tất cả thiên nhiên và con người trong bức tranh.
“Cô vân mạn mạn độ thiên không” “Chòm mây lẻ trôi lững lờ trên tầng không”
Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh viết:
Câu thơ đầu đã cho tất cả những người đọc hình dung về một không gian mênh mông, rộng lớn của núi rừng khi về chiều. Trong không gian ấy, cánh chim trời xuất hiện để “tầm túc thụ”. Có lẽ, chúng đang tìm về tổ ấm của mình trong trạng thái mỏi mệt sau một ngày mải miết, rong ruổi bay lượn trên không trung. Đó là hình ảnh rất có sức gợi về buổi chiều tà và không gian bát ngát của núi rừng. Cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy trong thời gian ấy, không gian ấy, sự hiện hữu của cánh chim như chơi vơi hơn, lạc lõng hơn và lòng người tự nhiên cũng đều có cảm giác bộn bề, man mác.
Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ tiếp tục vẽ ra một hình ảnh thiên nhiên khác, nhưng cũng lại là hiện thân của sự việc mỏi mệt, đó là hình ảnh chòm mây lững lờ trôi trên khung trời:
Không khác gì cánh chim trên không trung, giữa tầng không nổi bật hình ảnh đám mây lững lờ trôi như mang tâm trạng cô đơn. Chính hình ảnh này cũng góp phần tạo cho không gian khung trời trở nên bất tận hơn và thời gian dường như đã ngừng trôi theo trạng thái chùng chình của đám mây ấy.
“Chim bay về núi tối rồi” “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan) “Chim hôm thoi thóp về rừng”
Với hình ảnh cánh chim và chòm mây, tác giả đã cho thấy sự tinh ý của mình khi đã cảm nhận sự vật từ trạng thái, tính chất của nó, đó là việc cảm nhận có cơ sở, có điểm tựa. Riêng với hình ảnh “cô vân”, nếu đem so sánh với bản dịch thơ có thể thấy một số điều như sau. Trong bản dịch thơ ( “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”), từ “cô” (cô đơn, lẻ loi) dường như không được dịch, điều này đương nhiên đã làm mất đi đi tính cô độc, lẻ loi của áng mây.
Không chỉ vậy, bản dịch này cũng dường như không dịch từ “mạn mạn” (lững lờ) nên chưa cho thấy được tư thế chậm chạp, ngập ngừng như không muốn trôi của áng mây. Dù tinh thần của ý thơ bị giảm đi ít nhiều nếu như không có từ ngữ thể hiện các ý cô đơn, lững lờ, thế nhưng cũng cần được ghi nhận nỗ lực của người dịch.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” “Thiếu nữ xóm núi xay ngô”
Đặc biệt quan trọng khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, người đọc cũng nhận thấy trong hai hình ảnh nổi bật của thiên nhiên được sử dụng trong hai câu thơ đầu này, tác giả như tái hiện trước mắt người đọc hình ảnh thiên nhiên vừa mang tính cổ điển, vừa mang tính tiến bộ. Hình ảnh cánh chim là hình ảnh rất quen thuộc trong thơ xưa:
Với việc nhân hóa hai hình ảnh trên trong trạng thái mỏi mệt, cô đơn, lững lờ trôi, nhà thơ cũng đồng thời cho thấy nghệ thuật và thẩm mỹ tương phản giữa sự tìm về của cánh chim và sự trôi đi của chòm mây, giữa đích đến là núi rừng và sự vô định của tầng không. Chính vì thế bức tranh thiên nhiên bỗng trở nên gần gũi, yên ả lạ thường.
Sang câu thơ thứ ba, nhà thơ đã bổ sung vào bức tranh thiên nhiên sự hiện hữu của con người:
Không gian bát ngát của núi rừng ở hai câu thơ đầu bỗng thu lại trong không gian nhỏ của xóm núi. Điểm nhìn từ trên trời ca di chuyển xuống sống lưng núi và phát hiện hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ” trong công việc xay ngô. Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy giữa sự mênh mang, buồn vắng, người con gái miền sơn cước xuất hiện trong việc lao động như thay mặt cho vẻ đẹp của sức trẻ đầy nhiệt huyết và của người làm chủ thiên nhiên và cả vũ trụ. Chính điều này đã mang lại hơi ấm cho việc sống của người đi đường.
Ý nghĩa này sẽ tiến hành thể hiện độc đáo hơn nếu bản dịch không thêm vào từ “tối” vì việc thêm vào này đã làm lộ ý thơ vì người đọc có thể nên cảm nhận được thời gian được nhắc đến trong câu thơ thứ ba này là thời gian đã chuyển sang tối bằng sự thông báo ngầm của hình ảnh đốt lò than ở câu thứ tư.
Trước đó, nếu như hình ảnh chim trời và chòm mây dễ dàng và đơn giản làm cho nhân vật trữ tình cảm thấy sự khác biệt, có phần đối lập giữa thiên nhiên và chính mình. Nếu như cánh chim mỏi mệt, chòm mây cô đơn nhưng chúng lại được tự do, còn người tù thì đang trong hoàn cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng.
“Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” “Ngô xay vừa xong, lò than đã đỏ”
Tuy nhiên, dù hoàn cảnh có nghiệt ngã thế nào thì ở nhân vật cũng toát lên những vẻ đẹp đáng trân trọng. Đó là vẻ đẹp của con người yêu thiên nhiên, thả mình với thiên nhiên và luôn có khát vọng tự do, ước mong được sum họp nơi quê nhà. Đó đây là tinh thần tự chủ, sáng sủa, không chịu khuất phục trước nghịch cảnh rất đáng để được ca tụng.
Còn trong câu thơ thứ ba này, sự cô đơn, lạc lõng của nhân vật như được xoa dịu hơn bởi sự xuất hiện của bóng hình con người trong hoạt động lao động. Cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy với hình ảnh đó, người tù lại cho thấy ở mình có sự tồn tại của tinh thần thần sáng sủa đã tìm thấy nụ cười, sự yên ủi cho mình nơi cuộc sống người lao động.
Sự xuất hiện của hình ảnh lò than ở câu thứ cuối cùng của bài như đã nói chinh slaf sự thông báo ngầm của bước chuyển biến thời gian từ chiều sang tối:
Ý thơ trong câu cuối nếu kê trong kết cấu của câu hai câu thơ ba và bốn đã tạo nên cấu trúc điệp vòng “ma bao túc” – “bao túc ma hoàn”. Cấu trúc này còn có tác dụng rất lớn trong việc diễn tả được vòng xoay của chiếc cối xay và đồng thời cũng diễn tả được nhịp điệu lao động hăng say, khỏe khoắn của con người.
Đặc biệt quan trọng, khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy từ “hồng” cuối bài đã hiện hữu như một nhãn tự làm bừng sáng cả bài thơ. Nó góp phần xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng và sưởi ấm người chiến sĩ. Giữa không gian núi rừng chiều tối u ám, heo hút, hình ảnh con người lao động tuy vất vả mà tự do đã mang lại chút nụ cười và sự sung sướng cho tất cả những người tù chuyển lao.
Chấm lửa đỏ rực lên nơi lò than đã làm ra thần sắc cho toàn cảnh nếu ví bài thơ là một bức tranh. Bức tranh vốn đẹp vì có hình ảnh thiên nhiên, nay càng lại được tô điểm thêm bởi cuộc sống lao động của con người. Có lẽ, để hòa nhịp và có thể vui nụ cười cùng với những người lao động như Bác bỏ thể hiện thì đó phải là một tâm hồn thật sự nghệ sĩ.
Bởi trong hoàn cảnh xiềng xích trói buộc tự do, con người ta khó lòng có thể tìm vui trong cảnh vật thế nhưng Bác bỏ đã làm được điều đó và làm thật cảm động. Khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta cũng nhận thấy dù cảnh tù đày khổ sở nhưng dường như Bác bỏ vẫn dành sự quan tâm tới con người. Không những thế, Bác bỏ còn cho thấy một tinh thần cách mệnh tích cực: luôn rực lên sắc hồng tha thiết, tin yêu vào cuộc sống.
Thẩm định tác phẩm khi cảm nhận bài thơ Chiều tối
Một cách khái quát, khi cảm nhận bài thơ Chiều tối, ta thấy Bác bỏ đã rất thành công khi phác họa được bức tranh tuyệt đẹp giữa thiên nhiên và con người. Thông qua đó, ta có thể thấy ở Người những nét đẹp tâm hồn cao quý của một nghệ sĩ nhân đạo. Đó là tình yêu thiên nhiên tha thiết và sự trân trọng giá trị con người. Đồng thời trong nhà thơ ấy còn toát lên tinh thần thép của người chiến sĩ: đương đầu với khó khăn, thử thách bằng phong thái ung dung, tự tại và đầy sáng sủa, tin tưởng.
Tất cả những nội dung này đã được Bác bỏ thể hiện thành công nhờ việc kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và tiến bộ cùng với mạng lưới hệ thống từ ngữ cô đọng, hàm súc, thủ pháp đối lập có sự vận dụng tinh tế và đặc biệt quan trọng là phát huy vai trò của phép điệp liên hoàn.
Kết bài: Cảm nhận bài thơ Chiều tối, người đọc thấy được thi phẩm là việc kết hợp tuyệt mĩ không chỉ là dựa trên nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ mà Bác bỏ thể hiện trên mặt bằng câu chữ mà nó còn là một minh chứng rõ rệt nhất cho tinh thần, ý chí tuyệt vời của Hồ Chí Minh. Những vần thơ hướng về ánh sáng cũng đây là tâm hồn sáng sủa của Người.
Dàn ý cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh
Giới thiệu sơ nét về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối.
Giá trị nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm Chiều tối.
Cánh chim cô đơn lạc lõng giữa không trung
Chòm mây mỏi mệt lững lờ trôi trên không trung.
Hình ảnh con người xuất hiện trong bài thơ.
Ánh sáng sưởi ấm lòng người chiến sĩ.
Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật và thẩm mỹ của bài thơ.
Những nét đặc sắc của thi phẩm Chiều tối.
Nếu cảm nghĩ về bài thơ khi cảm nhận.
Như vậy, cảm nhận bài thơ Chiều tối giúp ta thấy được đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và thẩm mỹ thơ của Bác bỏ. Sử dụng thể thơ luật Đường, Hồ Chí Minh đã vận dụng tinh tế và nhuần nhuyễn văn pháp chấm phá để tả cảnh, lấy động tả tĩnh, đặc biệt quan trọng là lấy cảnh tả tình. Tuy nhiên, “Chiều tối” dù mang phong vị cổ điển Đường thi, đây vẫn là bài thơ tiến bộ. Chất tiến bộ trong thi phẩm bộc lộ ở sự vận động hình tượng thơ, nhất là ở tấm lòng và tư tưởng của thi nhân. Dù bị gông cùm và xiềng xích, nhưng con người này vẫn hết sức ung dung tự tại, luôn quên mình để xem ngắm cuộc sống và rung động với từng biểu hiện tinh tế.
Cập nhật thông tin chi tiết về Trình Bày Cảm Nhận Của Bản Thân Về Bài Trao Duyên trên website Kovit.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!