Tưởng Tượng Mình Là Nhân Vật Trữ Tình Trong Ánh Trăng

Đề bài: Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong bài thơ ánh trăng để kể lại câu chuyện – (Trang 157 – SGK Ngữ văn 9)

1. Dàn ý đóng vai nhân vật trữ tình trong bài Ánh Trăng

Giới thiệu dẫn dắt: Tôi-một cậu bé hồi ấy giờ đây đã trưởng thành , sau bao nhiêu sóng gió và tân mắt chứng kiến cảnh chiến tranh khốc liệt. Lúc này tôi đc sống trong cảnh đất nước thanh bình………….

Triển khai vấn đề theo mạch cảm xúc bài thơ hoặc theo ý của bạn nhưng vẫn đáp ứng đủ các nội dung:

Với tôi, hồi nhỏ – gắn liền với những kỉ niệm thật đẹp. Tuổi thơ tôi gắn liền với dòng sông , vơi biển lớn và những thời gian chiến tranh phải sống ở rừng . Và một thứ không thể thiếu là vừng trăng trên trời cao, luôn soi rọi và dẫn tôi đi trong đêm tối của những ngày gian khổ. Những ngày đó, ánh trăng là người bạn, người che chở tôi tránh khỏi bóng đêm u sợ……….

Ánh trăng, người bạn gắn liền với tuổi thơ thật đẹp của tôi…..

Chiến tranh kết thúc, là lúc tôi trưởng thành. Học cách tự lập và sống với cuộc sống hiện tại tôi đang có. Tôi thích cuộc sống hiện tại bởi nó đem lại sự bình yên và hạnh phúc với mái ấm gia đình. Tôi không còn phải chịu đựng cảnh chạy trốn trong đêm tối nữa. Giờ đây, nơi tôi ở- đã có ánh điện, cửa gương . Điều mà ở quá khứ không thể có…….

Cuộc sống là thế, không lặng lờ êm trôi mà xen vào đó là những lúc khó khăn. Ở đờ nào ai hay chữ ngờ. Căn phòng tôi đang đc thắp sáng với đèn buyn-đinh, Chợt căn phòng tối om vì mất điện. Như một bản năng vốn có của con người, vội bật tung cánh cửa sổ để hướng tới ánh sáng ngoài thiên nhiên bao la kia. Tôi chợt nhìn thây một vật quen thuộc , k! phải nói là quá đỗi thân quen. Khog phải thứ gì khác là ánh trăng. nó đang soi rọi tâm hồn vào cả trái tim tôi. Nó len lỏi vào cả tâm trí tôi nữa. Tôi chợt nhớ ra và nhận ra những giá trị trong cuộc sống ……………….

Mạt đối mặt! Hai cá thể đang nhìn vào chúng tôi

Những gì của quá khứ vân nguyên vẹn, hai hàng lệ bỗng lăn tròn trên má! umk. Có lẽ tôi đang khóc. Nước mắt tôi đang rưng rưng trước cảnh vật, trước hình ảnh tưởng chừng như không thể quên…..Ánh trăng- sao mà thân thuộc thế!!! Tôi dận lòng mình sao nỡ quên nó đi……….

Những chiêm nghiệm qua thực tế mình trải qua . Tôi thấy cuộc sống này lag một thực tại sống động, muôn màu muôn vẻ…… Nhắc nhở các bạn trẻ qua nhân vật tôi- nhân vật trữ tình

Kết thúc vấn đề: Khẳng định lại, kết thúc câu chuyện thật tự nhiên.

Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong Ánh trăng, em hãy diễn tả dòng cảm nghĩ trong bài thơ thành một bài tâm sự ngắn

Hai mươi hai giờ đêm, bỗng cả một vùng của thành phố mất điện. Tôi vội vàng bật tung cửa sổ. Đột ngột vầng trăng tròn vành vạnh xuất hiện. Ánh trăng ùa vào căn phòng soi sáng không gian. Thảng thốt nhận ra cố nhân, tôi áp sát song cửa, ngửa mặt lên nhìn trăng, trăng cũng soi ngắm tôi. Xúc động trào dâng, tôi thấy rưng rưng trong lòng, rưng rưng khóe mắt…

Cuộc chiến tranh dai dẳng, khốc liệt đã lùi xa, thấm thoắt đã ba năm rồi. Tôi về thành phố, sống trong điều kiện đất nước đã thống nhất, độc lập, hòa bình, đời sống đã khác xưa. Nhà cao cửa rộng, tiện nghị hiện dại, khác xa vói những năm tháng gian lao sống cùng đồng, cùng sông, cùng bể, cùng trăng. Có lẽ giờ đây tôi đã quen với ánh điện, cửa gương trong đời sống hiện đại đủ đầy, giàu sang mà lãng quên, vô tình với trăng. Trăng vẫn đi qua ngõ, vậy mà tôi như không thấy, vô tình, bạc bẽo, dửng dưng như người khách lạ qua đường. Đêm nay thình lình đèn điện tắt, nổi bật trong không gian bao la kiêu hãnh chỉ có mình trăng. Trăng vẫn nhẫn nại tỏa sáng cho bầu trời, mặt đất, nhân gian mà không giận hờn, trách móc.

Đối diện với trăng đêm nay, trăng vẫn tròn vành vạnh như đồng, như sông, như bể, như rừng thủy chung, nghĩa tình, bất biến. Lòng tôi rưng rưng hổ thẹn. Giá như trăng cứ lên tiếng trách cứ, mắng mỏ tôi: kẻ vô tâm, vô tình, vô ơn bạc nghĩa… cho tôi thấy nhẹ lòng. Nhưng trăng cứ tròn vành vạnh – nhìn tôi – ánh trăng im phăng phắc. Tôi hiểu trong sự im lặng ấy như nghiêm khắc, lại như chất chứa một tấm lòng. Tấm lòng vị tha, độ lượng “kể chi người vô tình”. Chính sự độ lượng của trăng đã khiến tôi giật mình, trăn trở, suy ngẫm về quá khứ. Những năm tháng gian lao, trăng và nhân dân thật bình dị, dịu hiển bao nhiêu! Kể cả những người đã khuất, đã kể vai sát cánh, gắn bó với nhau, cùng nhau đánh đuổi giặc thù, đem lại cuộc sống an bình hôm nay, sao tôi nỡ vô tình?

Bài làm mẫu: Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong ánh trăng

Tuổi thơ của tôi gắn bó với làng quê, với những cánh đồng thơm hương lúa chín, với dòng sông êm đềm nơi tôi tắm mát những ngày thơ dại. Mỗi đêm, trên chiếc chõng tre, bà thường kể tôi nghe bao câu chuyện cổ tích ngọt ngào dưới ánh trăng hiền hòa. Ánh trăng như người bạn thuở thiên thiếu, đã lớn lên cùng tôi nơi làng quê thanh tịnh.

Năm tháng ấy cứ êm đềm trôi qua. Rồi đất nước bỗng lâm cảnh chiến tranh loạn lạc, tôi lên đường chiến đấu theo tiếng gọi của quê hương. Nơi rừng xa thanh vắng, nơi ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Tôi nhớ làng quê, nhớ gia đình. Ngước lên ánh trăng trên cao, trăng tỏa sáng dịu hiền như muốn chia sẻ những nỗi buồn cùng tôi. Giữa cuộc sống trần trụi với thiên nhiên, cỏ cây, trăng như người bạn tri âm tri kỉ, đã cùng tôi đi qua những ngay chiến đấu gian khổ. Có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quên được vầng trăng tình nghĩa, đã luôn đồng hành cùng tôi trong cuộc đời.

Rồi một đêm tối nọ, bỗng ánh đèn khắp thành phố vụt tắt, không khí trở nên ngột ngạt hơn. Tôi đưa tay mở tung cánh cửa sổ. Lạ thay, ánh sáng chiếu vào tôi lúc nào dịu mát làm sao, đó không phải là ánh đèn điện nóng bức ngày hè. Đó là ánh trăng – vầng trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên bầu trời đêm. Tôi với trăng, mặt đối mặt, nhìn nhau, thật lâu. Bỗng, trong lòng tôi có cái gì đó rưng rưng, Bao nhiêu ký ức chợt ùa về. Hình ảnh của những cánh đồng bao la, những dòng sông, những hồ bể, những cánh rừng cứ hiện lên trong đầu tôi.

Bao năm trôi qua, mái tóc tôi đã điểm hoa râm nhưng trăng vẫn không thay đổi, vẫn tròn vành vạnh như lúc xưa. Trăng vẫn đứng im trên bầu trời trong xanh, tỏa sáng khắp nhân gian. Trăng vẫn như chờ tôi bên ngoài cửa sổ biết bao năm nay. Tôi đã quá thờ ơ với trăng, đã vô tình quên đi những kỷ niệm đẹp đẽ giữa trăng và tôi. Trăng cứ nhìn tôi, im lặng. Tôi bỗng giật mình. Sự im lặng của trăng cứ như một lời trách móc tôi, oán hận tôi vì sao đã quên đi người bạn tri kỷ.

Phải chăng tôi đã quá vô tình, sống nơi thị thành xa hoa giàu có mà đã lãng quên đi tuổi thơ nghèo khó, quên đi người bạn đã gắn bó thủy chung bên mình, quên đi bao tháng ngày tuổi trẻ. Lòng tôi nghẹn đắng, giọt nước mắt như trực trào ra. Và tôi đã hứa, lời hứa thật lòng, khắc sâu trong đầu tôi, là không bao giờ được quên đi ánh trăng – người bạn ân nghĩa, thủy chung đã gắn bó cùng tôi suốt thời thơ ấu và cả chặng đường chiến đấu gian lao vất vả trong quá khứ.

Ánh Trăng Xuân Trong Thơ Bác Hồ

ÁNH TRĂNG XUÂN TRONG THƠ BÁC HỒ

16:14 – 20/01/2023

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác rất nhiều bài thơ về mùa Xuân. Từ sau cách mạng Tháng Tám đến lúc Người mất, Bác đã sáng tác hàng trăm bài thơ chữ Hán và chữ Việt, trong đó có bài “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng), là bài thơ chữ Hán được viết tại chiến khu Việt Bắc năm Mậu Tý (1948).

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Rằm tháng Giêng

Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Xuân Thủy dịch)

Ngoài hình tượng chiến đấu, thơ kháng chiến của Bác nhắc nhiều đến ánh trăng, “người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ/trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” (Ngắm trăng), “chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn” (Giải đi sớm)…. Thiên nhiên trong thơ Bác vừa hiện thực lại vừa bay bổng lãng mạn. Cảnh vật được xác định cụ thể mà vẫn tượng trưng, ngụ ý, phơi phới tự nhiên mà chắt lọc sáng tạo.

Có thể khẳng định rằng, thế giới tâm hồn Người và sáng tác của Người vừa gần gũi với chúng ta, vừa có vẻ đẹp riêng độc đáo. Người ta ví Bác và văn thơ của Bác như ánh sáng ban ngày: ánh sáng trong suốt không màu, nhưng thực ra có đủ cả bảy sắc cầu vồng. Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) mang phong vị “những sắc cầu vòng” ấy.

Hình ảnh sông, nước, trời ngập tràn hơi thở của mùa xuân được Bác Hồ lột tả bằng bút pháp chấm phá một cách tài tình: trăng độ vừa tròn, vằng vặc chiếu dòng sông mênh mang. Dòng sông, mặt nước, bầu trời trong suốt, mờ ảo một thứ sương xanh biếc như khoí, se se lạnh.

Âm hưởng của Nguyên tiêu cũng gợi lên âm hưởng của Trương Kế: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/Giang phong ngư hỏa đối sầu miên/Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự/ Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. Bản dịch sang chữ quốc ngữ nổi tiếng nhất là của Tản Đà : “Trăng tà tiếng quạ kêu sương/Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ/Thuyền ai đậu bến Cô Tô/Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”. Chúng ta có thể so sánh rằng, vầng trăng trong “Phong Kiều dạ bạc” là vầng trăng lặn, vầng trăng chết. Còn trăng trong Nguyên tiêu là vầng trăng đang lên, vầng trăng độ non tơ, tràn trề sức sống (nguyệt chính viên). Cũng là sương nhưng một đằng là sương trắng đục, một đằng là sương mỏng và nhẹ như khói. Cũng vẫn là dòng sông, mặt nước, bầu trời nhưng “Phong Kiều dạ bạc” thì hư vô mờ ảo, còn trong Nguyên tiêu thì rực rỡ  sắc xuân: “Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”.

Câu thơ lập lại ba lần chữ “Xuân”, nghe như tạc, như in xuân sắc vào bầu trời, ấm áp, đầy hương khói. Cảnh thiên nhiên trong đêm trăng càng nhân lên độ ngời sáng, như muốn hòa nhập với con người vào bốn bề bát ngát, xanh trong. Mạch thơ tiếp theo: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự” (Giữa dòng bàn bạc việc quân), Yên là khói, sương khói, ba là sóng, thâm sứ là nơi sâu thẳm, đàm quân sự là bàn bạc việc quân sự. Cả câu ba nghĩa là nơi khói sóng mịt mù sâu thẳm bàn bạc việc quân sự. Đọc câu thơ ta thấy bàn việc quân sự nơi sơn cùng thủy tận, nơi khói sóng mịt mù huyền ảo, hư hư thực thực, bí mật mà vẫn rất thơ mộng, lãng mạn, bay bổng, rất thực mà cũng đầy chất thơ. Những giây phút ấy dù cảnh vật có hấp dẫn đến đâu chăng nữa cũng không thể thả mình trong thiên nhiên hoàn mỹ, bởi “trăng vào cửa sổ đòi thơ/Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”.

Chất lãng mạn cách mạng đặc biệt kết tụ ở hai câu thơ cuối:Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền (Khuya về bát ngát trăng đầy thuyền).

Trăng lên đỉnh vòm trời nên thuyền đầy ắp trăng. Trăng càng cao, càng sáng, càng huyền diệu. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị tư lệnh tối cao của dân tộc, đồng thời là một thi nhân. Gió trăng chứa một thuyền đầy, nhà thơ ra về thư thái. Bài thơ có cảm giác thần tiên, vừa chứa đựng niềm tin vào thắng lợi.

Toàn bài thơ “Nguyên tiêu” (rằm thắng giêng) là cảnh vật núi rừng Việt Bắc ngập ánh trăng rằm mùa xuân-tháng giêng, có sương khói và hình ảnh con thuyền trăng đầy lãng mạn. Nhưng đó là con thuyền cách mạng sẽ che chở nhà thơ, chiến sĩ đến với rạng đông, “bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi” của chiến thắng Bông Lau, chiến thắng Sông Lô và khúc khải hoàn ca “Chín năm làm một Điện biên/nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.

Đọc “Nguyên tiêu”  của Bác Hồ viết cách đây 60 năm (1948-2023), tâm hồn mỗi chúng ta thêm giàu có, trong sáng, biết hướng tới ngày mai, vươn tới ánh sáng mà đi lên phía trước.Ôi, những vầng trăng đi qua bao nhiêu cảm xúc, nguyện mãi thủy chung theo Bác suốt đời. Ước mong đất nước mãi mãi tỏa sáng vầng trăng thanh bình, ấm no, hạnh phúc.

NGUYỄN VĂN THANH 

Triết Lí Đạo Đức Trong Bài Thơ “Ánh Trăng”

Đời người là chuỗi dài những ghềnh thác mà cũng có khi phẳng lặng như ao thu. Và đôi khi trong những khoảng lặng như vậy, con người dễ lãng quên những ghềnh thác để rồi khi chợt nhận ra nó không khỏi có những day dứt ám ảnh.

Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là tiếng lòng, là sự suy ngẫm, là một lần “giật mình” của nhà thơ trước điều vô tình dễ có ấy. Nó có ý nghĩa như một lời cảnh tỉnh, lời nhắc nhở chúng ta đừng quên đi những gì đẹp đẽ đã gắn bó với con người trong quá khứ.

Nguyễn Duy như thủ thỉ với chúng ta câu chuyện về một người bạn thân quen đã cùng đi suốt những chặng hành trình từ quá khứ đến hiện tại.

Bài thơ mở đầu bằng dòng hoài niệm, nhịp thơ trầm lắng chậm rãi.Câu chuyện về quá khứ hiện lên đẹp đẽ trong một giọng điệu tâm tình :

Không gian bao la: với đồng, sông, biển trải dài theo theo thời gian quá khứ ấu thơ, có hình ảnh trăng gắn bó với con người mọi lúc mọi nơi.

Dòng chảy thời gian lại tiếp nối với những năm tháng chiến tranh ở rừng, vẫn có hình ảnh trăng luôn gắn bó cùng với sự trưởng thành của con người. Trăng đã được nhân hóa để trở thành người bạn tri kỉ. Tri kỉ là bạn thân, hiểu biết nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi trong những gian lao và hạnh phúc. Kí ức về một tình bạn cao đẹp trong những năm tháng chiến tranh thật đáng giữ gìn trân trọng.

Mỗi lần nhớ đến quá khứ ấy, hình ảnh trăng hiện ra không chỉ có hồn mà còn mang vẻ đẹp hoang sơ mộc mạc:

Trần trụi với thiên nhiên

Trần trụi gợi lên sự thành thật, tô vẽ, chan hòa với thiên nhiên không một chút ngần ngại, không có gì phải che giấu. Hình ảnh so sánh “hồn nhiên như cây cỏ” thể hiện một cách sống thanh thản lại gợi lên vẻ đẹp bình dị, hiền hậu, tình cảm chân thành. Cả hai đến với nhau bằng sự tương giao, tương cảm, nguyên sơ, trong sáng.

Có lẽ cái không gian mênh mông ở đồng, sông, biển, rừng đã khiến cho trăng và người có nhiều cơ hội để gắn bó với nhau hơn. Trong mấy dòng thơ đầu mà có đến ba từ với diễn tả niềm sung sướng của con người được sống trong những mối quan hệ giữa con người với xung quanh – không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả nghĩa tình với quê hương, đồng đội, bạn bè. Vì vậy khi quá khứ đã đi qua, chỉ còn đọng lại trong con người cái tình nghĩa ấy :

cái vầng trăng tình nghĩa “

Câu thơ âm vang như bài ca “tôi không thể nào quên, tôi không thể nào quên…” gợi mở nhiều vấn đề khiến ta suy ngẫm.

Câu chuyện về những biến thiên của con người và cuộc đời được tác giả tiếp tục bộc bạch.

Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ Nguyễn Duy đã dùng thủ pháp đối lập để nói về những đổi thay: không gian tràn ngập hình ảnh thiên nhiên với đồng, sông, bể, rừng đã được thay bằng không gian thành phố với ánh điện, cửa gương. Hình ảnh vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình năm xưa nay đã trở thành kẻ xa lạ:

như người dưng qua đường”

Cuộc sống giữa thế giới vật chất hiện đại, tiện nghi, khép kín trong “ánh điện, cửa gương” đã khiến con người trở nên thu mình, tâm hồn xơ cứng dễ trở thành vô tình vô cảm. Người bạn năm xưa nay như người dưng qua đường; thật đau xót biết bao!

Chính sự lãng quên ấy đã phá vỡ tình bạn, làm mất đi sợi dây nối liền giữa quá khứ và hiện tại. Câu thơ thật nhức nhối xót xa bởi sự quay lưng ở đây không chỉ với quá khứ, với đồng đội mà còn với chính bản thân mình.

Tất cả sẽ diễn ra trong dòng chảy của cuộc sống như một qui luật khách quan nhưng tâm lí con người cũng có những qui luật của nó, nhất là khi có bước ngoặt…

Tình huống bất ngờ xảy ra, đẩy dòng tự sự lên cao trào. Trong phút giây “thình lình” ấy, con người “vội bật tung cửa sổ” như một phản xạ bản năng thì chợt nhận ra “đột ngột vầng trăng tròn”. Một lần nữa, nhà thơ Nguyễn Duy lại sử dụng thủ pháp đối lập giữa cái tối om của gian phòng và cái ánh sáng của hiền dịu của vầng trăng tròn.

Hoá ra con người lãng quên trăng nhưng trăng không hề quên người. Trăng vẫn theo người ở đâu đó ngoài ngõ, bên cửa sổ… Trăng vẫn nguyên vẹn thuỷ chung như xưa. Trăng đã soi rọi cái góc tối, đánh thức sự lãng quên của con người.

Văng trăng ấy rất vị tha và khoan dung, lúc nào cũng sẵn lòng đón nhận người tri kỉ trong cảm xúc chan chứa trào dâng.

có cái gì rưng rưng?

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” không còn là hành động ngắm trăng mà đó là phút giây tác giả đối diện với người bạn cũ, đối diện với chính mình và nhận ra “Có cái gì rưng rưng?” làm vỡ òa bao ký ức xa xăm có đồng, bể, sông, rừng …

Lời thơ bộc bạch chân thành, nhịp thơ hối hả dâng trào như con người đang hạnh phúc vì gặp lại cố nhân. Trăng vẫn tròn đầy viên mãn như xưa, nay lại thêm tấm lòng đầy bao dung, không mảy may oán trách:

đủ cho ta giật mình.

Trăng bao dung nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc trong thái độ “im phăng phắc” hay đó là sự nghiêm khắc của tác giả với chính mình, sự nghiêm khắc của một con người có lương tâm, biết giật mình phản tỉnh.

Cái giật mình ở cuối bài thơ mang một ý nghĩa sâu sắc đậm chất triết lý nhân bản. Giây phút đối diện với trăng là thời khắc nhà thơ ngộ ra lẽ sống và hoàn thiện mình.

Hegel nói: Cần phải nhìn vào bản thể bằng con mắt của tinh thần, vì nhìn bằng con mắt của nhục thể thì không thể thấy được chân lý và chiều sâu nhân bản. Câu chuyện Ánh trăng của Nguyễn Duy đã giúp chúng ta có được cái nhìn như thế.

Ánh trăng vừa mang ý nghĩa thực vùa có ý nghĩa biểu tượng. Hình tượng ánh trăng và nhân vật trữ tình được đặt trong một hệ trục đối lập gồm nhiều phương diện, từ bề nổi ngôn ngữ đến mạch ngầm tư tưởng: thời gian quá khứ – thời gian hiện tại, không gian tự nhiên – không gian hiện đại, ánh sáng – bóng tối, hướng ngoại – hướng nội… Những yếu tố nghệ thuật ấy góp phần tích cực để tạo sự vận động của mạch thơ để từ cảm xúc đến lí trí mà rút ra bài học mang ý nghĩa thẩm mỹ và triết lí nhân sinh.

Cái triết lý ấy giản dị nhưng sâu sắc như một chân lí, dễ nhớ như bài học đạo đức của con người: “Uống nước nhớ nguồn” – nhưng thật đáng tiếc là giữa đời sống này, có biết bao người hờ hững, lãng quên đến mức vong bản, vong thân.

Hình Ảnh Ánh Trăng Cùng Với Mạch Cảm Xúc Trong Bai Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy

Tiêu đề: hình ảnh ánh trăng cùng với mạch cảm xúc trong bai thơ ánh trăng của nguyễn duy

Tiêu đề: hình ảnh ánh trăng cùng với mạch cảm xúc trong bai thơ ánh trăng của nguyễn duy

 

a)-nơi thành phố lắm điện ,cửa gương người ta chẳng chú ý đến ánh trăng .Sự suất hiện đột ngột của vầng trăng ở tình huống đặc biệt đã gây ấn tượng manh-Vầng trăng là 1 hình ảnh thiên nhiên,hồn nhiên ,tươi mát,là người bạn chi kỉ suốt đời của tuổi thơ,rồi thời chiến tra ở rửng trong phút chốc sự suất hiện đột ngột của vầng trăng làm sống dậy trong tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm của những tháng năm gian lao vất vả.Và hình ảnh của thiên nhiên ,đất nước bìng dị hiền hậu “như là đồng là bể như là sông là rừng”hiện hình trong mỗi câu thơ ,trong cảm súc rưng rưng cuả mỗi con người đã sống ở phố phường hiện đại-Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình ,hơn thế trăng còn là vẻ đẹp bình dị ,vĩnh hằng của đời sống,đặc biệt là khổ cuối bài thơ là nơi tập chung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng .Chiều sâu tư tưởng mang tính chiết lí của tác phẩm “trăng cứ tròn vành vạnh “như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ nguyên vẹn trẳng thể phai mờ “ánh trăng im phăng phắc ” chính là người bạn nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc ,đang nhăc nhở nhà thơ và cả chúng ta :con người có thể vô tình ,có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình ,quá khứ thì luôn tròn đầy ,bất diệtchủ đề bài thơ và ý nghĩa:-từ 1 câu chuyện riêng bài thơ là lời tự nhăc nhở thấm thía về thái độ ,tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao tình nghĩa đối với thiên nhiên đât nước bình dị hiền hậu-Ánh trăng không chỉ là chuyện riêng ủa thiên nhiên ,của 1 người mà cả một thế hệ từng chải qua năm tháng dài ,gian khổ chiến tranh ,từng gắn bó với thiên nhiên ,nhân dân tình nghĩa.Giờ đươc sống trong hoa bình đươc tiêp súc với tiện nghi hiên đại ,hơn thế bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người ,nhiều thời ,nó đăt ra vấn đề về thái độ với quá khứ ,những người đã khuất và cả chính mình

Chữ ký của

huyenz0ny

Phân Tích Nhân Vật Trữ Tình Trong Bài Khi Con Tu Hú Của Tố Hữu Văn 8

Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích nhân vật trữ tình trong bài Khi con tu hú của Tố Hữu trong chương trình văn học lớp 8.

Tố Hữu một tác gia xuất sắc trong nền văn học Việt Nam, cái tên ấy cho đến ngày nay vẫn còn được nhắc đến rất nhiều qua những bài thơ của ông. Tố Hữu đã góp cho nền văn học nước nhà một giọng thơ trữ tình chính trị, tha thiết đằm thắm tình dân tộc mà cũng đầy ắp những sự kiện chính trị. Những tác phẩm thơ của ông được găn liền với những chặng đường của cách mạng, mỗi một chặng đường nhà thơ lại mang đến những vần thơ hay cho bạn đọc. Một trong những tác phẩm hay của ông phải kể đến bài thơ khi con tu hú, bài thơ nay được viết khi ông đang bị bắt giam, nó thể hiện lên sự ngột ngạt uất ức của nhân vật trữ tình.

Sáu câu thơ đầu thể hiện sự yêu đời của nhà thơ ngay cả khi đang bị giam giữ. Có thể nói nhà giam kia chỉ có thể cầm tù được thể xác của người chiến sĩ trẻ chứ không thể nào cầm tù được tâm hồn anh:

“ Khi con tu hú gọi bầy,

Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần,

Vườn râm dậy tiếng ve ngân,

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào,

Trời xanh càng rộng càng cao,

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không… “

Một bức tranh thiên nhiên được nhà thơ phô vẽ ra trước mắt chúng ta, đó là một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, màu của tự do, đồng quê với hình ảnh của mùa hè. Mùa của con chim tu hú gọi nầy, trong trái tim người chiến sĩ ấy đang liên tưởng tới những hoạt động của người nông dân với hình ảnh cây lúa chiêm đang độ chín, trái cây nhà ai cũng đang ngọt dần. Mùa hè là mùa của những cây lúa vàng ươm cả một cánh đồng chờ người đến gặt về, mùa hè là mùa những trái cây như tu hú, vải, chôm chôm, nhãn. Những trái cây ấy đang độ chín nên chúng đang ngọt dần. chỉ tiếc rằng cái chốn lao tù này đang giam hãm một trái tim yêu đời lớn không thì thể xác kia có thể vẫy vùng trước những hình ảnh thiên nhiên rất đỗi giản dị mà thanh bình đó rồi. Bàn tay ấy sẽ gặt những bông lúa chiêm kia, cái miệng ấy sẽ thưởng thức những món ăn hoa quả tuyệt vời kia. Có thể nói những thứ ấy giống như hương vị của cuộc sống thanh bình và tự do. Không chỉ vậy tác giả tiếp tục vẽ lên những hình ảnh thân thuộc mới hấp dẫn không kém cây lúa vàng và trái cây thơm ngọt. Đó là màu vằng của trái bắp, những hạt vàng như hạt nắng giữa sân, nhìn cả một sân bắp ấy chúng ta không thể hết bâng khuâng vì vẻ đẹp của sự đầy đủ “ đầy sân” và màu vàng đẹp đẽ của hạt bắp. thêm vào bức tranh ấy một màu xanh của trời cao rộng làm cho nó hiện lên thật đẹp làm sao. Và trên cái nền hòa bình ấy đôi con chim sáo đang lộn nhào từng không.

Bức tranh ấy không chỉ có màu sắc mà còn có cả âm thanh nữa. đó là âm thanh của tiếng ve râm ran trên những rặng cây trước nhà, ngoài cánh đồng nọ. Ve hiện lên thật đẹp nó gắn với tuổi thơ của mỗi người khi bắt chúng để nghe tiếng kêu hay hay đó. Đặc biệt màu hè thì không thể thiếu được tiếng ve kêu. Qua tiếng ve ấy ta như đang cảm nhận được nỗi nhớ quê hương của tác giả, dù trong lao tối mịt u uất nhưng tác giả vẫn biết được rằng bây giờ là mùa hè. Điều đó thể hiện sự yêu đời, yêu cuộc sống, nhơ quê hương gia đình.

Bức tranh ấy còn được khám phá ở độ cao và sâu của bầu trời. điệp từ càng cho thấy một bầu trời chỉ có mùa hè được sở hữu, nó không u ám sầm sập như mùa đông, không dịu dàng trong vắt như mùa thu mà nó mang vẻ đẹp cao rộng đến lạ kì.

Qua đây ta thấy Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, âm thanh và chiều cao. Đó là bức tranh thân thuộc với mỗi con người chúng ta, bức tranh về những thứ mộc mạc giản dị như lúa ngô khoai sắn, tiếng ve râm ran, bầu trời cao vợi. Bức tranh càng đẹp bao nhiêu thì nỗi nhớ quê nhà và tình yêu thương cuộc sống của nhà thơ lại càng lớn bấy nhiêu.

Tiếp đến những câu thơ cuối bài tác giả thể hiện rõ tình cảm của mình trong phòng giam ngục tối:

“Ta nghe hè dậy bên lòng,

Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi.

Ngột làm sao, chết uất thôi,

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu. ”

Tác giả liên tưởng tới những hỉnh tuyệt đẹp của ngày hè, những âm thanh ngọt ngào đó làm cho tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước và nỗi nhớ quê hương trỗi dậy mạnh liệt. nỗi nhớ ấy có thể đạp phăng đi tất cả những thứ trong phòng gian chật hẹp tù túng ấy. Có thê nói sự nhớ nhưng mãnh liệt ấy được thể hiện rất rõ qua câu thơ “ Mà chân muốn đạp tan phòng he ôi”. Bức tường đối với người chiến sĩ ấy chẳng khác nào địa ngục trần gian, sống mà không được tự do, sống mà bị cầm tù về thể xác khiến cho cái thể xác ấy không đáp ứng được nhu cầu của tinh thần. nhà thơ uất ức, ngột ngạt khi mà phải sống trong cảnh ngột ngạt như thế.

Như vậy có thể thấy qua bài thơ này tác giả đã gửi gắm cho chúng ta một tâm trạng lớn, một tình yêu lớn, niềm khát khao lớn của ông. Đó là khát khao tự do, niềm yêu cuộc sống, nhớ quê hương đất nước. Chính vì thế ta biết thêm một điều rằng dẫu bị giam hãm ngột ngạt trong bốn bức tường nhưng nhà thơ Tố Hữu không thôi yêu đời và khát khao tự do cháy bỏng.