Yếu Tố Gây Cười Trong Truyện Lợn Cưới Áo Mới / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Tình Huống Gây Cười Trong Truyện Lợn Cưới Áo Mới

Phân tích tình huống gây cười trong truyện Lợn cưới áo mới

Lợn cưới áo mới được xây dựng trên một tình huống gây cười đầy hài hước, qua đó truyền tải nhiều bài học ý nghĩa về cách ứng xử trong cuộc sống. Em hãy phân tích tình huống gây cười trong truyện Lợn cưới áo mới

I. Dàn ý chi tiết cho đề phân tích tình huống gây cười trong Lợn cưới áo mới

1. Mở bài

Giới thiệu truyện cười Lợn cưới áo mới và tình huống gây cười: Truyện cười “Lợn cưới áo mới” là một câu chuyện hay, người đọc không chỉ nhận thức được khoe khoang là một thói xấu không nên có, là một người hay khoe khoang sẽ tự đẩy mình vào cảnh lố bịch, bị người đời chê cười

2. Thân bài

-Khái quát nội dung truyện cười: Truyện mở đầu bằng tình huống anh chàng hay khoe của mới may được chiếc áo mới, anh ta liền đem mặc ngay và đứng hóng ở cửa chờ cho ai đi qua người ta khen

-Tình huống gây cười trong lời nói, cử chỉ của nhân vật: Đáng lẽ ra anh ta nên tập trung vào việc miêu tả con lợn để dễ tìm thấy lợn, nhưng anh ta vẫn cố ý nhắc đến “lợn cưới” để khoe rằng nhà mình có lợn cưới

-Tình huống gây cười trong cách khoe khoang: Đây là người mà anh ta đã chờ đợi từ lâu nên anh ta vừa nghe xong câu hỏi liền giơ ngay vạt áo của mình lên và trả lời rằng “Từ lúc tôi mặc chiếc áo mới này…”, có thể thấy, chi tiết “áo mới” ở đây là thông tin thừa

-Tình huống gây cười trong bản chất cái đem khoe: Thông thường người ta chỉ khoe khoang với nhau về địa vị, gia tài và trình độ hay bằng cấp, nhưng hai anh chàng trong truyện cười lại khoe những thứ tầm thường, chẳng đáng để khoe

3. Kết bài

Khẳng định giá trị của tình huống gây cười trong truyện: Qua truyện cười “Lợn cưới áo mới”, đặc biệt là qua những tình huống gây cười trong truyện, ta cảm nhận rõ sự phê phán, mỉa mai tính hay khoe khoang của một số người trong cuộc sống.

II. Bài tham khảo cho đề phân tích tình huống gây cười trong Lợn cưới áo mới

Truyện cười “Lợn cưới áo mới” là một câu chuyện hay, người đọc không chỉ nhận thức được khoe khoang là một thói xấu không nên có, là một người hay khoe khoang sẽ tự đẩy mình vào cảnh lố bịch, bị người đời chê cười. Bên cạnh đó người đọc còn đặc biệt ấn tượng với tình huống gây cười trong câu chuyện giàu ý nghĩa này.

Truyện mở đầu bằng tình huống anh chàng hay khoe của mới may được chiếc áo mới, anh ta liền đem mặc ngay và đứng hóng ở cửa chờ cho ai đi qua người ta khen. Nhưng trớ trêu thay, anh ta đứng mãi từ sáng tới chiều mà chẳng có ai hỏi thăm, đang lúc tức tối và thất vọng thì may sao có người chạy tới hỏi về con lợn. Đây là người mà anh ta đã chờ đợi từ lâu nên anh ta vừa nghe xong câu hỏi liền giơ ngay vạt áo của mình lên và trả lời rằng “Từ lúc tôi mặc chiếc áo mới này…”, có thể thấy, chi tiết “áo mới” ở đây là thông tin thừa, bởi người hỏi chỉ cần biết anh ta có nhìn thấy con lợn hay không chứ không quan tâm anh ta mặc áo gì và mặc từ bao giờ. Nhưng cũng hài hước thay, khi sự khoe khoang lại được bắt nguồn từ anh chàng đi tìm lợn, con lợn cưới của nhà anh ta bị xổng chuồng và phải đi tìm.

Đáng lẽ ra anh ta nên tập trung vào việc miêu tả con lợn để dễ tìm thấy lợn, nhưng anh ta vẫn cố ý nhắc đến “lợn cưới” để khoe rằng nhà mình có lợn cưới. Đó cũng là một thông tin thừa và vô duyên đối với người được hỏi. Có thể thấy, chi tiết buồn cười ở đây chính là anh chàng tìm lợn đã lợi dụng tình huống xổng mất lợn để nhằm mục đích khoe khoang nhà giàu, cỗ to. Ngược lại, anh chàng có áo mới cũng không phải dạng vừa, anh ta cũng tranh thủ có người hỏi để khoe ra chiếc áo mới may của mình. Có thể nói, nếu đặt trong hoàn cảnh thi đấu thì họ là kì phùng địch thủ của nhau. Chi tiết gây cười tiếp theo mà chúng ta có thể nhận ra rõ ràng, đó là cách khoe của và tính chất khoe khoang của hai anh chàng này. Thông thường người ta chỉ khoe khoang với nhau về địa vị, gia tài và trình độ hay bằng cấp, nhưng hai anh chàng trong truyện cười lại khoe những thứ tầm thường, chẳng đáng để khoe.

Chỉ là một manh áo mới, chỉ là một con lợn cho đám cưới, đó là những thứ quá bình thường, thế nhưng họ lại khoe khoang một cách lố bịch và vô duyên đến mức trơ trẽn. Có thể thấy, các tác giả dân gian đã cường điệu hóa tột đỉnh sự khoe khoang của các nhân vật, trên thực tế sẽ không có trường hợp khoa khoang tới mức như vậy nhưng chính yếu tố cường điệu đó đã góp phần làm rõ bản chất không tốt đẹp của thói khoe khoang.

Qua truyện cười “Lợn cưới áo mới”, đặc biệt là qua những tình huống gây cười trong truyện, ta cảm nhận rõ sự phê phán, mỉa mai tính hay khoe khoang của một số người trong cuộc sống. Đồng thời chúng ta nhận thức được tính khoe khoang sẽ biến con người ta trở thành những kẻ hợm hĩnh, lố bịch và trở thành trò cười cho thiên hạ.

Theo chúng tôi

Dàn Ý Nêu Bài Học Rút Ra Từ Truyện Lợn Cưới Áo Mới

Dàn ý Nêu bài học rút ra từ truyện Lợn cưới áo mới

* Những điểm cần ghi nhớ khi lập dàn ý bài tập làm văn nêu Bài học rút ra từ truyện Lợn cưới áo mới, cụ thể:

– Đọc kĩ đề bài và xác định yêu cầu của đề.

– Đọc lại truyện lợn cưới, áo mới ( Ngữ văn 6, tập 1, trang 126).

– Nội dung của truyện nói về điều gì?

– Nghệ thuật gây cười thể hiện ra sao?

– Bài học gì được rút ra từ câu chuyện?

– Lợn cưới, áo mới là một truyện cười hay. Tuy dung lượng ngắn nhưng bài học rút ra từ câu chuyện lại rất sâu sắc.

2. Phần Thân bài a). Nội dung câu chuyện

Câu chuyện phê phán những kẻ hợm hĩnh khoe của

– Trong truyện, ta bắt gặp hai anh có tính khoe của gặp nhau. Một anh thì may được chiếc áo mới liền mặc ngay, mong được khen. Một anh thì muốn khoe với mọi người mình có con lợn cưới.

– Người có áo mới thì mặc ngay và đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua người ta khen. Anh ta tức giận chí vì anh ta đã đứng từ sáng đến chiều mà chẳng có ai hỏi. Chi tiết “đứng hóng ở cửa” rất đắt. Nó lột tả được những điều đáng chê cười ở anh chàng này. Một cái áo mới thì có gì đâu mà đến nổi bỏ cả công ăn việc làm, chỉ “hóng” ở cửa để khoe. Người ta thường nói: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới”. Trẻ được manh áo mới thì vui mừng đem khoe với chúng bạn. Còn người đàn ông kia lại muốn khoe áo mới và khi không có ai khen thì tức lắm. Khi có người mất lợn hỏi “Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không?” thì lẽ ra anh ta phái trả là “Tôi có thấy con lợn chạy qua đây” hoặc “Tôi không thấy con lợn nào chạy qua đây cả”. Câu trả lời của anh ta lại là: “Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả”. Với mọi người thì câu trả lời đó thừa thãi. Nhưng với anh ta thì có lẽ câu trả lời đó mới diễn đạt đúng đủ mục đích “khoe”của anh ta. Thật là buồn cười và lố bịch.

– Anh đi tìm lợn khoe của trong một hoàn cảnh đặc biệt. Lợn sổng, lẽ ra anh ta phải nhanh chạy đi tìm nó. Với dáng bộ hớt ha hớt hải thì khi gặp người, câu đầu tiên mà anh ta phải hỏi chính là: “Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không?” mới hợp lí. Thật bất ngờ khi anh ta lại hỏi: “Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?” Việc gì anh phải nói “lợn cưới” ở đây. Rõ ràng câu hỏi đó của anh chứa đựng hai mục đích. Một là đi tìm lợn. Hai là anh khoe của nhưng nội dung nghiêng về khoe của hơn vì khi đọc, ta sẽ phải nhấn giọng ở từ “lợn cưới”.

Tóm lại, hình như tật xấu khoe khoang đã thấm vào máu thịt của hai anh chàng này. Chi chờ có điều kiện là thói quen ấy bật ra ngay. Một anh thì “chộp” ngay lấy anh chàng đứng ở cửa kia để khoe “lợn cưới”. Một anh thì “chộp” ngay lấy người hỏi mình để khoe “áo mới”. Thật là đáng cười, đáng chê trách cho những kẻ hợm hĩnh, khoe khoang.

b). Bài học rút ra từ câu chuyện

Câu chuyện ngắn gọn nhưng đã cho ta một bài học sâu sắc.

– Câu chuyện phê phán những kẻ khoác lác, khoe khoang qua tiếng cười hóm hỉnh của nhân dân.

– Câu chuyện khuyên ta hãy sống khiêm tốn. Đức độ và tài năng của mỗi người sẽ được bộc lộ qua việc làm chứ không bộc lộ qua lời nói.

– Thước đo giá trị con người không phải bằng tiền bạc mà bằng tài năng, trí tuệ và sự đóng góp, cống hiến của người đó đối với cộng đồng, xã hội.

3. Phần Kết bài

– Trong cuộc sống ngày nay, bệnh khoe khoang vẫn còn tồn tại. Vì vậy, chúng ta cần phê phán để cuộc sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn.

– Câu chuyện là bài học bố ích cho bản thân em. Trong học tập và trong cuộc sống em không được coi khinh những bạn có điều kiện kinh tế không bằng mình. Và điều quan trọng là em phải biết khiêm tốn, không khoe khoang, khoác lác.

Theo chúng tôi

Những Yếu Tố Mới Mẻ Qua Thi Phẩm “Vội Vàng”

Viết về Xuân Diệu, Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã từng nói: “Bây giờ khó mà nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần, vì ta thấy người cùng ta tình đồng hương vẫn nặng”. Những câu văn đầy xúc cảm và tài hoa của con người tự nguyện suốt một đời được lấy chính hồn tôi để hiểu hồn người, để được đi kiếm tìm những tâm hồn đồng điệu ấy đã hé mở trong ta nhiều điều về sự cách tân mới mẻ, táo bạo của nhà thơ Xuân Diệu trong hành trình sáng tạo. Nhưng dẫu có tân kì và tối tân đến đâu đi chăng nữa, Xuân Diệu vẫn mang trong mình hồn cốt, bản sắc của một nhà thơ nước Việt. Bởi vậy, có thể nói, cái hồn cốt văn hóa là cái níu giữ tâm hồn thi sĩ thì cái cách tân, đổi mới lại là yếu tố đưa ông hòa nhập vào với hơi thở chung của thơ ca đương đại. Trên hành trình sáng tạo ấy, bài thơ “Vội vàng” là một trong những bông hoa ngát hương khoe sắc thắm đầu mùa. Đứng vững chắc trên nền tảng sự hiểu biết về hồn cốt vốn văn hóa dân tộc, Xuân Diệu đã thổi hơi thở của sự cách tân và sáng tạo để làm nên “Vội vàng”, một thi phẩm của sự tân kì, mới mẻ và để hiểu hơn về lời nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh, “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”!

1) Đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người:

HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO NGAY!

Nếu xem phong trào Thơ mới là một bản đàn thì âm hưởng bao trùm lên cung giao hưởng ấy là vẫn là một nỗi sầu muộn, một nỗi u buồn lớn. Có thể đâu đó ngoài kia, mùa xuân của đất trời, vạn vật đã trở về nhưng trong này, cảm xúc bao trùm tấm lòng các nhà thơ mới vẫn không có gì khác ngoài nỗi buồn, nỗi khổ đau:

Mang chi xuân lại gợi thêm sầu

Với tôi tất cả như vô nghĩa

Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau

Bản nhạc hòa tấu lên giữa cuộc đời, với Huy Cận cũng đâu có gì khác ngoài một bản nhạc sầu thê lương, ảm đạm:

Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế

Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường

Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương

Sương hay chính bụi phai tàn lả tả

Thế nhưng Xuân Diệu đã đến cùng bài thơ “Vội vàng” để thổi vào Thơ mới một giai điệu vui tươi, náo nức. Ta chợt thấy hiển hiện trước mắt ta một thiên đường trần gian vẫy gọi mọi người:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa

Bằng cặp mắt trẻ trung, Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời này bằng xúc cảm của tình yêu đôi lứa. Với ông, cuộc đời trần thế thực sự là một bữa tiệc của sắc màu, âm thanh, ánh sáng và hương vị. Đó là hương vị ngọt ngào của tuần tháng mật, là sức sống của hoa đồng nội xanh rì, là sự mềm mại của cành tơ phơ phất cùng hòa trong thanh âm của khúc tình si đầy mê đắm của vạn vật và lòng người. Bởi thế, cái ước muốn dị thường mở đầu bài thơ: muốn tắt nắng, muốn buộc gió thực chất là khát vọng níu giữ tất cả mọi vẻ đẹp của cuộc sống nơi trần thế để con người tận hưởng và hưởng thụ. Tất cả điều đó đều được xuất phát từ chính tình yêu thiết tha của nhà thơ Xuân Diệu dành cho một thiên đường trần gian nơi mặt đất. Nét mới mẻ trong quan niệm về cuộc sống ấy là dấu ấn quan trọng để lí giải lí do vì sao vừa mới xuất hiện trên thi đàn, người ta đã định danh Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ!

Trong suốt cả mười thế kỉ của thơ ca trung đại, bởi sự chi phối của những quan niệm thẩm mĩ riêng, con người cá nhân xuất hiện một cách nhạt nhòa, chìm lấp sau những mô típ sáo mòn đã trở thành công thức. Họ quan niệm thiên nhiên, đất trời, vũ trụ là cái to lớn, vĩnh hằng, hoàn mĩ, không có gì có thể sánh bằng. Bởi thế, con người dẫu có xuất hiện thì cũng ẩn chìm đằng sau vẻ đẹp của tạo vật:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Vẻ đẹp con người được làm nổi bật trong sự soi chiếu với vẻ đẹp của thiên nhiên, vũ trụ: Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Nhưng đến “Vội vàng”, Xuân Diệu đã đưa ra trước mắt chúng ta một quan niệm hoàn toàn mới mẻ về con người. Với ông, trên trần thế này, không có gì đẹp hơn con người. Con người chính là vẻ đẹp hoàn mĩ của tạo vật và là chủ nhân của cuộc sống tươi đẹp này. Bởi thế, ông đã sáng tạo nên một trong những hình ảnh so sánh độc đáo nhất trong văn học Việt Nam hiện đại:

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Bằng lăng kính soi chiếu của tình yêu, Xuân Diệu đã dùng cái hữu hình ( cặp môi gần) để so sánh và làm nổi bật cái vô hình ( vị ngon của tháng giêng). Tất cả góp phần khắc họa sự ngọt ngào của mùa xuân, mùa của tình yêu và tuổi trẻ. Việc lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên và tạo vật không chỉ là một nét đổi mới đầy sáng tạo mà nó còn góp phần khẳng định, tôn vinh giá trị con người – một phương diện của tinh thần nhân văn cao cả qua bài thơ “Vội vàng”!

2) Đổi mới trong quan niệm về thời gian:

Thơ xưa coi con người là một vũ trụ nhỏ trong cái đại vũ trụ rộng lớn của đất trời. Cái tiểu vũ trụ ấy không biến mất đi trong cái đại vũ trụ mênh mông này. Mà thời gian của vũ trụ là vô cùng, vô tận nên con người cũng không có nhiều cảm giác lo âu về sự trôi chảy của thời gian. Họ đón nhận nó bằng một thái độ an nhiên, bình thản:

Nhưng đến với Thơ mới, trào lưu thơ của sự thức tỉnh ý thức cá nhân, con người có khát vọng được khẳng định giá trị, khẳng định ý nghĩa đích thực của sự tồn tại. Ở “Vội vàng”, dùng chính tuổi trẻ làm thước đo cho thời gian, Xuân Diệu đã hối thúc, giục giã con người nhận ra một thực tế nhuốm màu bi kịch: Thời gian của vũ trụ là vô hạn nhưng tuổi trẻ con người thì hữu hạn và quá ngắn ngủi trước đất trời. Bằng cảm thức tinh nhạy và mới mẻ ấy, nhà thơ đã hối thúc con người hãy tăng cường độ sống để tận hưởng khi tuổi xuân, tuổi trẻ vẫn còn. Có lẽ Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên nhìn thấy cái xuân đi trong xuân đến, cái xuân qua khi xuân thì:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

bởi đơn giản, với ông, cuộc đời sẽ không còn nhiều ý nghĩa khi tuổi xuân đã mất, tuổi trẻ chẳng còn. Xuân Diệu kêu gọi, thức tỉnh những con người đang tự ru ngủ mình trong quỹ thời gian bốn mùa không thay đổi. Dưới con mắt xanh non của ông, mọi sự vật cũng đang nằm trong quỹ đạo của sự cuống quýt, vội vàng:

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi

Chim thì thầm bỗng dứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

Cơn gió, cánh chim dường như cũng đang vội vàng, hối hả vì nỗi dự cảm lo âu về sự tồn tại ngắn ngủi của đời mình. Tạo vật còn thế huống chi là con người. Bởi thế, qua nỗi niềm lo lắng ấy, Xuân Diệu muốn nhắn nhủ tới người đọc một thông điệp giàu ý nghĩa: Hãy trân trọng thời gian và tuổi trẻ của đời người; hãy tăng cường độ sống lên khi “mùa chưa ngả chiều hôm”!

3) Đổi mới trong hình thức thể hiện:

“Vội vàng” cuốn người đọc đi trong một nguồn cảm xúc dồi dào, mãnh liệt. Xúc cảm ấy bắt nguồn từ một thể thơ tự do hết sức linh hoạt. Từ những câu thơ năm chữ mở đầu như giãi bày tâm trạng:

nhịp thơ bất chợt hối hả lao đi để phô bày trước mắt người đọc một bàn tiệc trần gian vẫy gọi mọi người. Hình ảnh tân kì, mới mẻ, cuộc sống sống động, tươi xanh, hấp dẫn khác xa với một thế giới cũ kĩ, già nua trong thơ ca trung đại. Điều đặc biệt hơn, khi cảm nhận được vẻ đẹp non tơ của cuộc sống trần gian, Xuân Diệu đã kết hợp trong thơ trữ tình một giọng điệu tranh luận sôi nổi, hăng hái, mãnh liệt, hùng hồn:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời …

Tất cả đều hướng tới mục đích lay động những con người lâu nay vẫn đang an nhiên, tự tại trước thời gian trôi chảy, từ đó thúc giục mọi người hãy sống gấp gáp, vội vã khi mùa xuân và tuổi trẻ vẫn còn. Bởi thế, đoạn ba của bài thơ bất chợt ngắn lại như một lời khẳng định:

Tiếp đó, hệ thống các động từ mạnh xuất hiện một cách liên tiếp, dồn dập: riết – say – thâu – hôn – cắn … thể hiện một tâm trạng vồ vập, náo nức, say mê trước vẻ đẹp của cuộc sống. Hình ảnh “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thực sự là một sự sáng tạo lạ kì, thể hiện một tâm thế mãnh liệt muốn vơ vào mình tất cả vẻ thanh tơ của cuộc sống. Đằng sau sự mới mẻ, tân kì về mặt hình thức trong ngôn từ, hình ảnh ấy, người đọc cảm nhận được một thông điệp đáng quý, đáng trân trọng: Cuộc đời, mùa xuân và tuổi trẻ chính là vốn quý nhất của đời người. Hãy biết giữ gìn, nâng niu để dâng hiến, để tận hưởng và hưởng thụ bởi còn gì đẹp hơn là thiên đường của cuộc sống trần gian đang hiện hữu trước mắt mọi người. Có lẽ với nhà thơ Xuân Diệu, cuộc sống này chỉ gói gọn trong chữ cường độ:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!

Em ơi em, tình non sắp già rồi

và sự dâng hiến:

Thơ tôi đó, gió lùa đem tỏa khắp

Và lòng tôi, mời mọc bạn chia nhau

Cả một đời bền bĩ lao động, sáng tạo và dâng hiến trên hành trình chạy đua với thời gian để được sống và được yêu, nhưng cũng thật kì lạ, suốt một đời, Xuân Diệu lại sống trong cảnh cô đơn, khắc khoải, đợi chờ. Tạo hóa thật khéo trêu ngươi khi để cho nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ lại luôn phải bồn chồn kiếm tìm một tình yêu trong nỗi đợi chờ khắc khoải. Có lẽ đời ông cũng như thân tằm dâng hiến cả đời mình để đứt ruột thành tơ. Thuở sinh thời, Xuân Diệu khao khát được lao động, được sáng tạo, được dâng hiến hết tất cả sinh lực và bầu máu nóng của mình để đến khi thần chết có đến gõ cửa thì mình chỉ còn lại là cái xác khô. Và ông đã làm đúng như điều ông tâm niệm. Đã mấy thập kỉ trôi qua kể từ ngày nhà thơ Xuân Diệu từ giã cõi đời bụi bặm, biết bao người trẻ, người đang yêu vẫn say mê tìm và đọc để cùng được tâm sự với những vần thơ ông viết. Với họ, Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu và đích thực là nhà thơ của một mùa xuân huyền diệu!

GV trường THPT Quỳnh Lưu 2

Xã Quỳnh Văn – huyện Quỳnh Lưu – tỉnh Nghệ An

Số điện thoại: 0963.730.739

Đọc Truyện Cổ Tích Bộ Quần Áo Mới Của Hoàng Đế

Ngày xưa, có một vị hoàng đế giàu sang và quyền lực thích quần áo mới đến nỗi ngài luôn muốn mình phải là người đầu tiên sở hữu những bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất, và độc đáo nhất trong thiên hạ. Suốt ngày ngài chỉ làm một việc duy nhất là thay quần áo mới. Ngài chẳng ngó ngàng gì tới binh sĩ, triều chính. Người ta thường nói:

– Hoàng đế đang lâm triều.

Nhưng đối với vị vua này người ta phải nói:

– Hoàng đế đang mặc áo – Có vậy ngài mới vừa ý.

Một hôm, có hai người lạ mặt đến hoàng cung tự xưng là thợ dệt và khoe rằng họ có thể dệt ra một thứ vải tuyệt đẹp xưa nay chưa từng có trong thiên hạ. Quần áo may bằng thứ vải ấy có một đặc tính kỳ lạ: ai là kẻ nịnh nọt hoặc ngu xuẩn thì không cách nào nhìn thấy được bộ quần áo, dù đứng rất gần.

Hoàng đế tự nhủ:

– Ðấy mới là bộ quần áo duy nhất, ta chỉ cần mặc vào là biết ngay trong đám quan lại của ta đứa nào nịnh nọt, đứa nào ngu xuẩn, đứa nào không làm tròn bổn phận… Ta phải may một bộ như vậy mới được.

Hai người thợ may bày ra hai khung cửi rồi ngồi vào làm như đang dệt thật, nhưng tuyệt nhiên khung chẳng có gì. Họ đòi bằng được thứ sợi tơ đẹp nhất, thứ vàng quí nhất, đem bỏ túi rồi giả vờ làm việc trên khung cửi rỗng tuếch. Hoàng đế nóng lòng muốn xem họ làm việc, nhưng nhớ đến đặc tính kỳ lạ của thứ vải ấy, tự nhiên Ngài đâm ngại. Ngài bèn sai quan thừa tướng đến xem.

Quan thừa tướng vừa giương to đôi mắt vừa tự nhủ:

– Lạy Chúa, ta chẳng nhìn thấy gì cả

Nhưng may mà ông nén lại được, không nói ra điều ấy. Hai người thợ may đến gần bắt chuyện và hỏi ngài xem vải có đẹp không.

– Thật là tuyệt! Hoa văn, màu sắc thật không thứ vải nào sánh nổi. Chiếc áo sẽ rất hợp với vị chủ nhân tương lai của nó!

Quan tể tướng trả lời nhưng trong lòng lo ngay ngáy. Ông lo họ bắt đầu ngờ rằng mình là kẻ nịnh nọt, ngu xuẩn, ngốc nghếch và trễ nải với công việc.

Hai người lợi dụng dịp may, lại kỳ kèo xin thêm vàng để thêu vào vải. Họ lại thủ vàng vào túi và say sưa làm việc trên khung cửi rỗng không.

Chẳng bao lâu, hoàng đế lại cử một viên đại thần khác đến xem vải. Hai người chỉ vào tấm vải tưởng tượng và chứng minh cho quan đại thần đây là tấm vải xưa nay trên đời có một không hai.

Quan đại thần tự nhủ:

– Mình đâu phải là thằng ngu hay là mình không làm tròn phận sự. Dẫu sao cứ dấu biến đi là hơn cả

Nghĩ vậy, ngài vờ ngắm nghía, vuốt ve tấm áo tưởng tượng rồi đưa tay lên xoa cằm, gật gù chép miệng. Sau đó ngài quả quyết với hai người kia là ngài chưa thấy thứ vải nào đẹp bằng và cũng như quan thừa tướng lần trước, ngài lại trở về và kính cẩn tâu với hoàng đế:

– Muôn tâu bệ hạ, không có gì đẹp bằng, chiếc áo ấy hợp với bệ hạ vô cùng

Khắp kinh thành nô nức bàn tán về thứ vải kỳ lạ ấy. Không thể dằn lòng được, hoàng đế đành phải đích thân đến xem vải. Ngài không quên dắt theo một bọn nịnh thần.

Ðến nơi ngài thấy hai người vẫn đang mãi mê làm việc. Hoàng đế nghĩ thầm:

– Quái, ta chẳng nhìn thấy gì cả. Chẳng lẽ một vị hoàng đế mà lại ngu ư?

Ngài bèn gật đầu lia lịa:

– Ðẹp lắm, đẹp lắm – Ngài ra vẻ hài lòng ngắm nghía hai chiếc khung cửi, không dám thú nhận là chẳng nhìn thấy gì.

Bọn nịnh thần xuýt xoa phụ họa:

– Thật là tuyệt vời !

Và họ khuyên hoàng đế nên mặc bộ quần áo vô song đó trong ngày lễ rước thần sắp tới.

Hoàng đế ban cho hai thợ dệt mỗi người một tấm bội tinh và danh hiệu “Thợ dệt của nhà vua”. Suốt đêm hôm trước ngày lễ rước thần, hai thợ dệt làm việc cật lực dưới ánh sáng của 16 ngọn đèn. Họ giả vờ cắt, may, khâu, đính suốt đêm.

Cuối cùng bộ quần áo coi như may xong, kịp cho ngày lễ rước thần. Hoàng đế và các vị đại thần tới. Hai ông thợ dệt của nhà vua vờ giơ tay lên trời như nâng vật gì và tâu:

– Ðây là quần, còn đây là áo thưa Bệ Hạ. Quần áo này nhẹ như màng nhện, mặc vào mà tưởng như không và đấy cũng là một trong những đặc tính quí báu vô cùng của thứ vải nầy.

– Ðúng đấy ạ! -Bọn nịnh thần phụ hoạ tuy thật ra chẳng ai trong số họ thấy gì.

Hai ông thợ may lại nói:

– Muôn tâu thánh thượng, cúi xin ngài cởi quần áo ra và đứng trước gương lớn, chúng thần xin mặc áo mới cho bệ hạ.

Hoàng đế cởi sạch trơn quần áo. Hai ông thợ dệt của nhà vua làm bộ như mặc từng cái quần, cái áo mới vào người hoàng đế, rồi quàng tay quanh thân ngài như khoác đai lưng. Hoàng đế quay đi quay lại ngắm nghía trước gương. Bọn nịnh thần đồng thanh hô to:

– Trời, bộ quần áo sao mà đẹp quá chừng, từ thưở cha sanh mẹ đẻ tới giờ chúng thần chưa bao giờ được chiêm ngưỡng một kiệt tác thần tiên giữa cõi trần như vậy.

Quan trưởng lễ báo tin:

– Long tán đã đến, chờ Hoàng Thượng đi rước thần.

Nhà vua đáp:

– Ta đã sẵn sàng.

Rồi ngài lại nhìn vào gương mà ngắm nghía. Các quan thị vệ có nhiệm vụ đỡ đuôi áo, thò tay sát đất giả đò như cầm lên một vật gì, rồi vừa đi vừa đỡ cái vật vô hình đó trên không, chẳng dám nói là mình không nhìn thấy gì!

Ngoài phố mọi người cũng liên tục trầm trồ khen bộ quần áo mới của hoàng đế vì không ai muốn mang tiếng là ngu xuẩn hoặc không làm tròn trách nhiệm. Nhưng rồi, từ một góc nào đó, một đứa bé thốt lên:

– Kìa! Hoàng đế cởi truồng kìa.

Mọi người chung quanh đều nghe rõ câu nói của đứa bé nhưng ai cũng giả vờ như… chẳng nghe. Ðức vua truyền lệnh quay về lập tức… Có lẽ ngài cảm thấy choáng váng…

Một chiếc kiệu vàng được vời đến, bốn chiếc rèm ngọc được buông xuống và đoàn nhạc cất cao bản “Hồi cung”.