Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10 – Bài làm 1
Thật tuyệt vời khi văn học Việt Nam có cả một kho truyện cười với nhiều đề tài khác nhau. Chúng được chia ra làm hai loại là truyện trào phúng và truyện khôi hài. Mục đích của truyện khôi hài là mang đến tiếng cười giải trí với yếu tố giáo dục nhẹ nhàng. Còn truyện trào phúng thì ngoài tiếng cười nó còn đả kích, phê phán mà đối tượng chủ yếu là nhắm đến tầng lớp trên trong xã hội phong kiến. Một số ít truyện trào phúng phê phán thói hư tật xấu của con người. Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày thuộc thể loại truyện trào phúng với nội dung chính nhằm phê phán đám quan lại tham nhũng và những thầy đồ dốt nát.
Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày có cốt truyện khá đơn giản là hai người hàng xóm đánh nhau sau đó mang nhau đi kiện. Màn xử kiện của tên lí trưởng trở thành một màn hài kịch và mang đến tiếng cười cho người đọc. Tên lí trưởng vốn nổi tiếng là xử kiện giỏi còn Ngô và Cải vì muốn thắng kiện nên đã đút lót cho hắn.
Lí trưởng tuyên bố đánh phạt Cải mười roi và mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh từ đây. Một bên là lí trưởng chủ động kết án còn một bên là Cải bị động xin xét lại. Họ đưa ra động tác và lời nói trái ngược nhau. Mãi tới khi lí trưởng kết luận: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày thì lúc này màn kịch mới khép lại. Hóa ra tên lí trưởng đã ăn đút lót của cả hai và theo lẽ ấy, ăn của ai nhiều hơn thì người đó thắng kiện. Đúng là đòn xóc hai đầu.
Mặc dù nổi tiếng là xử kiện giỏi nhưng qua cách xử của lí trưởng người đọc lại thấy thực chất không phải như vậy. Là người đứng đầu của làng nhưng lí trưởng không mang đến được sự công bằng cho người dân. Không phải cứ mang nhau đi kiện là sẽ tìm được lẽ phải mà lẽ phải luôn thuộc về kẻ có tiền, có thế. Chẳng cần biết đến cái gọi là công lí, đồng tiền mới là thứ ngực trị chốn công đường. Cải và Ngô trong truyện cười vừa đáng trách, vừa đáng thương lại vừa đáng cười.
Thông qua cử chỉ, hành động, lời nói gây cười của nhân vật người đọc thấy được thủ pháp trào lộng của truyện. Nó gần giống như cử chỉ, hành động của các nhân vật trong kịch câm. Bị lí trưởng ra lệnh đánh đòn, Cải liền xòe 5 ngón tay như muốn nhắc khéo lí trưởng về số tiền mình đã đút lót trước đó. Thầy lí thấy vậy lại xòe 5 ngón tay trái úp lên 5 ngón tay phải nhằm ẩn ý là thằng Ngô nhiều gấp đôi.
Ở đây ngón tay được hiệu là lẽ phải và hai lần lẽ phải sẽ là 10 ngón tay. Như vậy ngón tay trở thành kí hiệu của tiền tệ và của lượng tiền đút lót.
Không chỉ có vậy truyện còn gây cười bằng hình thức chơi chữ. Từ phải có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Một là lẽ phải, là cái đúng, đối lập với cái sai. Hai là cái bắt buộc phải có, là số tiền lo lót. Như vậy trong câu nói của lí trưởng bao hàm cả hai ý nghĩa này.
Trong truyện, ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ hành động thống nhất với nhau. Nếu như ngôn ngữ lời nói là công khai thì ngôn ngữ hành động là bí mật và chỉ có 2 người trong cuộc mới hiểu. Chúng song hành với nhau, làm nổi bật nhau để cho thấy viên lí trưởng xử kiện giỏi thực chất là như thế nào.
Truyện kết thúc với câu nói của lí trưởng đã tạo nên tiếng cười đầy trào phúng và đủ cho ta thấy người xưa thật thâm thúy nhường nào.
Kho tàng truyện cười Việt Nam cực kì phong phú về đề tài, được chia làm hai loại là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Truyện khôi hài chủ yếu nhằm mục đích giải trí là chính, tuy vậy nó vẫn có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Truyện trào phúng có mục đích đả kích, phê phán, đối tượng phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội phong kiến xưa kia. Cũng có khá nhiều truyện cười phê phán thói hư tật xấu thường thấy trong cuộc sống. Nhưng nó phải bàng hai mày và Tam đại con gà là truyện cười thuộc loại trào phúng, phê phán đám quan lại tham nhũng và những thầy đồ dốt nát.
Cốt truyện đơn giản: Hai người hàng xóm đánh nhau rồi mang nhau đi kiện. Tuy vậy, truyện được xây dựng thành một màn hài kịch hoàn hảo với hai yếu tố then chốt dẫn tới sự hình thành và phát triển mâu thuẫn. Đó là lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi và hai đương sự Ngô, Cải, ai cũng muốn giành phần thắng nên đều đút lót cho lí trưởng.
Mâu thuẫn bắt đầu phát sinh khi lí trưởng đột ngột tuyên bố đánh phạt Cải mười roi. Buồn cười ở chỗ là hai nhân vật một bên thì chủ động, còn bên kia hoàn toàn bị động. Một bên cứ kết án, một bên xin xét lại. Động tác và lời nói của hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Màn kịch khép lại bằng câu kết luận chắc nịch của lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày. Lời nói ấy đã vạch trần thủ đoạn của viên lí trưởng mà dân gian đã chỉ ra bằng câu thành ngữ : đòn xóc hai đầu.
Lí trưởng là người đứng đầu trông coi việc hành chính trong làng. Viên lí trưởng trong truyện nổi tiếng xử kiện giỏi. Song cái tiếng tăm ấy lại hoàn toàn đối lập với thực chất bên trong. Ngô và Cải đều phải lo đút lót trước cho lí trưởng. Sự công bằng, lẽ phải – trái, không có ý nghĩa gì ở chốn công đường Khi lí trưởng xử kiện..Lẽ phải ở đây thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót. Đồng tiền đã ngự trị chốn công đường, bất chấp công lí. Đúng là: Nén bạc đâm toạc tờ giấy và Cải, Ngô là các nhân vật bi hài, vừa đáng trách, đáng cười, vừa đáng thương.
Thủ pháp trào lộng của truyện được thể hiện bằng những cử chỉ, hành động, lời nói gây cười của các nhân vật.
Cử chỉ, hành động của các nhân vật trong truyện này giống như cử chỉ và hành động của các nhân vật trong kịch câm, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi bị lí trưởng ra lệnh đánh đòn, Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí, khẽ bẩm. Cử chỉ ấy như muốn nhắc khéo lí trưởng về số tiền mà cải đã lo lót trước và anh ta trông đợi sự “nhớ ra” của lí trưởng về lời cam kết rằng lẽ phải sẽ thuộc về mình. Thầy lí cũng xòe nầm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, cử chỉ ấy ngầm thông báo với Cải rằng “lẽ phải” của thằng Ngô nhiều gấp đôi, nên đương nhiên phần thắng sẽ thuộc về hắn.
Lẽ phải (trừu tượng) được tính bằng năm ngón tay (cụ thể), hai lần lẽ phải được tính bằng mười ngón tay. Điều thú vị mà tác giả dân gian dành cho người đọc là: ngón tay của Cải trở thành ”kí hiệu” của tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của quân cũng là “kí hiệu” biểu thị cho lượng tiền đút lót của Ngô.
Truyện còn dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ phải trong truyện này đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai, người sai. Nghĩa thứ hai chỉ điều bắt buộc, nhất thiết phải có, tức là mức tiền lo lót. Lời lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày lập lờ cả hai nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên, vế thứ hai trong lời thầy lí lại được dùng để đặt tên cho truyện này.
Ở đây, ta thấy ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ động tác thống nhất với nhau, có giá trị ngang nhau. Ngồn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt cùng nghe. Ngôn ngữ bằng động tác là thứ ngôn ngữ “bí mật”, chỉ có người trong cuộc (thầy lí và Cải) mới hiểu được.
Hai thứ ngôn ngữ ấy làm rõ nghĩa cho nhau để chỉ ra thực chất của sự nổi tiếng xử kiện giỏi của viên lí trưởng nọ.
Truyện rất ngắn, kết thúc bất ngờ nhưng nó nói đủ những điều muốn nói và tiếng cười vừa giòn giã, thâm thúy cũng đồng loạt cất lên.
Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10 – Bài làm 3
Đây là một câu truyện cười nhưng lại cười ra nước mắt. Một xã hội đồng tiền mà lấn áp tất cả. Vì tiền mà con người ta không còn sự công bằng văn minh nữa. Người nào có quyền có thế thì người đó thắng. Thật là một xã hội chó đểu nhà văn( Vũ Trọng Phụng).
Truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” nó giống như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật.
Mở đầu truyện là lời giới thiệu về một viên lí trưởng xử kiện giỏi ở một “làng kia”. Ta gặp cách giới thiệu phiếm chỉ giống như các câu truyện cổ tích. Địa điểm (làng kia), thời gian (hôm nọ). Tác giả dùng tính phiếm chỉ để tăng tính khái quát, ý nghĩa mà truyện phản ánh mang tính phổ biến ở nhiều vùng , nhiều đối tượng chứ không ở địa phương nào. Tên Cải và Ngô cũng là một cách nói thực chất không mang tính xác định.
Sự việc được kể rất ngắn gọn. Cải và Ngô đánh nhau rồi mang nhau ra kiện. Cải sợ kém thế lót trước thời lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng. Lần theo câu truyện chúng ta đã tìm thấy tình huống có vấn đề, buộc người nghe phải chú ý xem trong tình huống nà thì một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này như thế nào?
Khi xử kiện thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Cải đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ nên Cải rất bất ngờ lâm vào tình thế bị động trước lời phán xét của thầy lí. Sự bất ngờ ấy được thể hiện : ” Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí khẽ bẩm: xin thầy xét lại lẽ phải về con mà”. Lời nói của Cải chứng tỏ Cải tin vào mình sẽ được xử thắng vì mình đã lo chạy trước và được thầy nhận lễ đáng nhẽ là phần thắng thuộc về mình nhưng nó lại ngược lại. Lẽ phải ở đây dược xem xét bằng tiền. Cải đã đưa ra một ám hiệu là năm ngón tay, đưa mắt nhìn và lời nhắc khẽ để nhắc nhở thầy lí về hành động biện lễ của mình.
Đến đây mâu thẫn đã lên đến cao trào Bởi Cải dường như đã lật bài ngửa. Nếu như vậy thì thầy lí sẽ xử ra sao? Thật bất ngờ đáp lại hành động kì quặc của Cải là hành động cũng kì quạc của thầy lí. Sự kết hợp lời nói và hành động giữa hai nhân vật tạo nên một tín hiệu đặc biệt, một thứ mật ngữ. Lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Mật ngữ thì chỉ có hai người trong cuộc mới biết được rõ. Hành động kì quặc đó được giải mã bởi lời nói của thầy lí kèm theo hành động: ” Thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay phải mặt nói : Tao biết mày phải…..nhưng nó lại phải…..bằng hai mày!”
Giữa ngón tay-tiền- lẽ phải có mối liên hệ mật thiết. Ngón tay thể hiện số lượng tiền. Tiền để đo lẽ phải. Theo như thầy lí thì tiền là lẽ phải, lẽ phải được đo bằng tiền. Người nào có nhiều tiền thì lẽ phải ắt thuộc về người đó. Gía trị tố cáo của truyện chính là ở chỗ đó. Trong xã hội mà mọi thứ được đo bằng tiền thì thử hỏi công lý ở đâu?.
Một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi mà còn như vậy. Thầy ăn của đút cả hai phía, “đục nước béo cò” mà lại dám công khai trước công đường với lời nói và hành động thật nực cười. Thầy lí là đại diện cho những kẻ có quyền thế “cầm cân nảy mực” trong lạng lại hiện ra nguyên hình là kẻ ăn đút trắng trợn. Ở đây nghệ thuật chơi chữ được thể hiện qua chữ phải: ” Mày phải….nhưng nó lại phải…..bằng hai mày”.
Cả ba nhân vật trong truyện đều bật ra tiếng cười. Lí trưởng là nhân vật bị đả kích còn Ngô và Cải là hai nhân vật bị phê phán. Cải và Ngô tùy là nạn nhân nhưng là những kẻ tiếp tay cho những việc làm đổi thay công lí, nhập nhằng trắng đen bằng việc đút lót của sau.
Truyện về cơ bản giống truyện Tam đại con gà nhưng ngắn gọn hơn, giàu kịch tính hơn. Tính cách nhân vật lí trưởng được giấu kín chỉ bộc lộ ở cuối truyện để tăng tính bất ngờ cho truyện. Sự kết hợp giữa hành động và ngôn ngữ cùng lối chơi chữ tạo nên tình huống gây cười.
Qua đây tác giả cũng muốn phê phán những kẻ có quyền có thế coi đồng tiền là tất cả làm ô uế xã hội, làm mất đi sự công bằng của xã hội.
Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10 – Bài làm 4
Truyện cười dân gian Việt Nam ra đời cùng lúc với những câu ca dao tục ngữ, được lưu truyền qua những cuộc trò truyện giải trí. Những mẩu truyện cười dân gian như món ăn tinh thần mang lại tiếng cười giòn giã mà không kém phần sâu xa với người nông dân. Truyện cười: “Nhưng nó phải bằng hai mày” kể lại câu chuyện hài kịch xử kiện thắng thua của Cải với Ngô với người xử kiện là Lý trưởng.
Truyện được tạo ra như một màn kịch nhỏ với sự xuất hiện của ba đối tượng gây cười: Lí trưởng, Cải và Ngô. Sự việc được kể rất ngắn gọn: Cải với Ngô đánh nhau, rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng và thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Khi Cải thắc mắc, thầy lí xoè bàn tay và nói: “Nhưng nó phải bằng hai mày”. Truyện kết thúc ở đó và để lại nhiều tiếng cười thâm thuý.
Tiếng cười ấy có lẽ được bật lên từ mâu thuẫn gây cười mà tác giả dân gian tạo ra. Cải và Ngô đi kiện nhưng lại sợ bị thua mà đút lót cho lí trưởng. Viên lí trưởng được nói: “Xử kiện giỏi” mà phán người nhiều tiền hơn thắng. Mâu thuẫn trái ngang giữa những nhân vật tạo cho người đọc tiếng cười vui vẻ.
Tình huống được tạo ra cũng hết sức hợp lý, tài tình. Cải và Ngô đánh nhau, cả hai cùng đi kiện. Khi đi kiện, cách ứng xử của hai người giống nhau, đều đút lót. Cải lót Năm đồng, Ngô biện chè Mười đồng. Chính cách ứng xử này bộc lộ rõ bản chất của cả hai. Có gan đi kiện nhưng không dám đối chứng công bằng, không trung thực. Đây cũng là hiện trạng bấy giờ của nhiều người nông dân lao động. Tác giả dân gian qua Cải và Ngô để thấy được bản chất tính cách không trung thực của bộ phận không nhỏ người nông dân thời đó.
Truyện cười: “Nhưng nó phải bằng hai mày” tạo nên tiếng cười sảng khoái bởi những mâu thuẫn mà tự nhân vật tạo ra. Xã hội phong kiến với những mâu thuẫn sâu sắc về giai cấp khiến cho truyện cười được ra đời tự nhiên để không chỉ là tiếng cười giải trí mà còn là lời phê bình, lên án sâu sắc tầng lớp giai cấp trong xã hội để với ước muốn cải tạo xã hội tốt đẹp. Đúng như quy luật, đặc điểm của truyện cười, “Nhưng nó phải bằng hai mày” với kết cấu ngắn gọn, súc tích, giàu kịch tính ngôn ngữ lời nói, ngôn ngữ cử chỉ đa dạng không chỉ đem lại tiếng cười sảng khoái mà đồng thời lên án những thói hư tật xấu, tham nhũng của quan lại, phê phán người nông dân tự mình đẩy mình vào tình huống bi hài.
Qua truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” tác giả dân gian với những tình tiết đơn giản đã để lại cho người nghe, người đọc tiếng cười vui vẻ và những cái nhìn mới về xã hội phong kiến Việt Nam một thời.
Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10 – Bài làm 5
Truyện trào phúng thường mượn tiếng cười để phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội. “Nhưng nó phải bằng hai mày” miêu tả cuộc xử kiện của Lí trưởng với Ngô và Cải, qua đó phê phán thói ăn hối lộ của những người làm trong bộ máy chính quyền. Tiếng cười của truyện vì thế càng sâu cay, thấm thía hơn bao giờ hết.
Tác giả dân gian mở đầu truyện bằng việc giới thiệu nhân vật lí trưởng, đó là người đại diện thực thi pháp luật và “nổi tiếng vì xử kiện giỏi”. Cải là người lao động nghèo được phân xử trong vụ kiện với Ngô, lo lót hối lộ cho lí trưởng mong thắng kiện. Mâu thuẫn truyện đã bắt đầu dồn nén khi lí trưởng nhận tiền của cả hai người, lúc này người đọc mong đợi người được cho là “xử kiện giỏi” sẽ xử trí ra sao. Thế nhưng, cách xử lí của thầy lí lại khiến chúng ta hoàn toàn bất ngờ, ông không hỏi cung, không điều tra phân tích mà kết án và đưa ra phán quyết chắc nịch: phạt đánh Cải chục roi. Từ một người chủ động dàn xếp và chắc chắn sẽ được xử thắng kiện, Cải bỗng rơi vào tình huống bị động và bị xử thua.
Lúc này, màn kịch giữa Cải và Lí trưởng diễn ra có sự kết hợp giữa hành động và ý ngầm ẩn. Tưởng thầy Lí quên, Cải vội tìm cách xin xét lại và ra dấu bằng hành động xòe năm ngón tay để nhắc nhớ Lí trưởng rằng mình đã lo lót. Thế nhưng cũng chẳng kém cạnh, Lí trưởng phán “nó phải bằng hai mày” và xòe năm ngón tay trái để úp lên năm ngón tay phải một cách rất đường hoàng. Trong màn kịch này có hai thứ ngôn ngữ, ngôn ngữ công khai và ngôn ngữ mật mà chỉ người trong cuộc mới có thể hiểu được. Lẽ phải của Cải chính là năm ngón tay xòe, tức năm đồng thầy lí đã nhận. Thầy Lí hiểu lẽ phải của Cải, nhưng hành động và lời nói của thầy ngầm chỉ lẽ phải của Ngô còn gấp đôi Cải, tức mười đồng thầy lí nhận được. Lẽ phải trong xã hội, đặc biệt với những người thực thi pháp luật như lí trưởng không phải xuất phát từ công lí mà xuất phát từ đồng tiền, kẻ nào hối lộ nhiều hơn thì kẻ đó nắm trong tay nhiều lẽ phải hơn.Tác giả dân gian đã tố cáo một cách khéo léo bản chất tham nhũng của quan lại địa phương qua hành động và hàm ý của viên lí trưởng.
Truyện sử dụng hình thức gây cười bằng việc sử dụng lối chơi chữ độc đáo. “Phải” vốn là từ chỉ tính chất mang nghĩa là lẽ phải. Thế nhưng khi kết hợp với từ chỉ số lượng “phải bằng hai” tạo ra nhận thức về sự bất hợp lí, tuy nhiên khi nghĩ đến số tiền là mười đồng của Ngô gấp đôi năm đồng của Cải, người đọc lại thấy hợp lí vô cùng. Tiếng cười bật ra sau khi người đọc nhận ra ý nghĩa của việc chơi chữ ấy. Tác giả dân gian còn sử dụng nghệ thuật tương phản, đó là sự đối lập giữa lời đồn đại và thực tế xử kiện của viên lí trưởng. Qua việc tạo tiếng cười, nhân dân ta gián tiếp phê phán thói hối lộ của quan chức và phê phán Ngô và Cải vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của chính mình. Hành động đút lót của họ vừa đáng thương nhưng cũng đáng trách, đáng thương bởi họ tự đẩy bản thân vào ngõ cụt, đáng trách bởi họ chính là người tiếp tay cho nạn tham những hoành hành.
“Nhưng nó phải bằng hai mày” đã vạch trần lối xử kiện vì tiền của lí trưởng nói riêng, quan lại nói chung và người lao động cũng rơi vào tình trạng bi hài. Bài học ấy không phải chỉ thời xưa mới có, trong bất cứ thời đại nào, đó cũng là một bài học đắt giá cho mỗi chúng ta.
Bài văn mẫu Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10
“Nhưng nó phải bằng hai mày” thuộc nhóm truyện cười trào phúng. Trong truyện, đối tượng bị đả kích là thói ăn hối lộ trơ tráo, phổ biến trong hàng ngũ quan lại xã hội xưa.
Truyện đã giới thiệu về nhân vật Lý trưởng, nổi tiếng là người xử kiện giỏi. Cách giới thiệu ngắn gọn, tạo cho người đọc, người nghe sự chờ đợi xem Lý trưởng xử kiện giỏi như thế nào. Để hiểu cách xử kiện giỏi của quan, tác giả nhân dân đã đặt nhân vật vào một tình huống cụ thể: Ngô và Cáo là hai người hàng xóm. Họ đánh nhau và cuối cùng đem nhau ra kiện. Tuy nhiên, trái với lời giới thiệu ban đầu, Lý trưởng cũng giống như bao tên quan tham lam khác, chỉ lo nhận tiền đút lót để làm đầy cái túi của mình, mà không quan tâm đến đúng sai. Đặc biệt hành vi ăn hối lộ được thể hiện qua hành động và ngôn ngữ trắng trợn, trơ trẽn của tên Lý. Khi thấy Cải xoè năm ngón tay ngầm nhắc đã lót thầy Lý năm đồng, thầy Lý cũng “xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt” ngầm bảo Cải: thằng Ngô còn lót tới mười đồng cơ. Không những thế, hắn còn thẳng thừng nói với Cải: “Tao biết mày phải…nhưng nó lại phải…bằng hai mày!”. Cụm từ “phải bằng hai” tự nó đã đủ khả năng gây cười vì lẽ phải chỉ có một, không thể cả hai đều phải, lại càng không có chuyện người này “phải bằng hai” người kia. Khi đặt câu nói của Lý trưởng trong hoàn cảnh hắn nhận hối lộ của Ngô gấp hai lần Cải, thì tiếng cười không chỉ dừng lại ở độ giải trí mà còn trở thành lời đả kích mạnh mẽ về một nhân cách: thói ăn hối lộ trắng trợn, có thể bẻ cong cả chân lí.
Truyện còn dùng hình thức chơi chữ để gây cười. Từ phải trong truyện này đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, người đúng, đối lập với cái sai, người sai. Nghĩa thứ hai chỉ điều bắt buộc, nhất thiết phải có, tức là mức tiền lo lót. Lời lí trưởng: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày lập lờ cả hai nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên, vế thứ hai trong lời thầy lí lại được dùng để đặt tên cho truyện này. Ở đây, ta thấy ngôn ngữ lời nói và ngôn ngữ động tác thống nhất với nhau, có giá trị ngang nhau. Ngồn ngữ bằng lời nói là ngôn ngữ công khai, nói cho tất cả những người có mặt cùng nghe. Ngôn ngữ bằng động tác là thứ ngôn ngữ “bí mật”, chỉ có người trong cuộc (thầy Lý và Cải) mới hiểu được. Hai thứ ngôn ngữ ấy làm rõ nghĩa cho nhau để chỉ ra thực chất của sự nổi tiếng “xử kiện giỏi” của viên lí trưởng nọ. Hoá ra cái giỏi ở đây là giỏi bóc lột nhân dân, giỏi nhận tiền hối lộ của dân nghèo thật thà, không hiểu biết về pháp luật. Cho nên, lẽ phải đã thuộc về kẻ nhiều tiền, nhiều lễ vật lo lót. Đồng tiền đã ngự trị chốn công đường, bất chấp công lý. Đúng là: Nén bạc đâm toạc tờ giấy và Cải, Ngô là các nhân vật bi hài, vừa đáng trách, đáng cười, vừa đáng thương.
Câu chuyện như một màn kịch ngắn, không chỉ để mua vui mà còn mang ý nghĩa phê phán sâu sắc thói đút lót ăn tiền ở một số quan lại trong triều đình. Đằng sau đó còn là thái độ phản kháng, phản chiếu khát vọng về một lẽ công bằng thật sự ở đời.
Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10 – Bài làm 7
Đây là một câu truyện cười nhưng lại cười ra nước mắt. Một xã hội đồng tiền mà lấn áp tất cả. Vì tiền mà con người ta không còn sự công bằng văn minh nữa. Người nào có quyền có thế thì người đó thắng. Thật là một xã hội chó đểu nhà văn( Vũ Trọng Phụng).
Truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày” nó giống như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật.
Mở đầu truyện là lời giới thiệu về một viên lí trưởng xử kiện giỏi ở một “làng kia”. Ta gặp cách giới thiệu phiếm chỉ giống như các câu truyện cổ tích. Địa điểm (làng kia), thời gian (hôm nọ). Tác giả dùng tính phiếm chỉ để tăng tính khái quát, ý nghĩa mà truyện phản ánh mang tính phổ biến ở nhiều vùng , nhiều đối tượng chứ không ở địa phương nào. Tên Cải và Ngô cũng là một cách nói thực chất không mang tính xác định.
Sự việc được kể rất ngắn gọn. Cải và Ngô đánh nhau rồi mang nhau ra kiện. Cải sợ kém thế lót trước thời lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng. Lần theo câu truyện chúng ta đã tìm thấy tình huống có vấn đề, buộc người nghe phải chú ý xem trong tình huống nà thì một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này như thế nào?
Khi xử kiện thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Cải đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ nên Cải rất bất ngờ lâm vào tình thế bị động trước lời phán xét của thầy lí. Sự bất ngờ ấy được thể hiện : ” Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí khẽ bẩm: xin thầy xét lại lẽ phải về con mà”. Lời nói của Cải chứng tỏ Cải tin vào mình sẽ được xử thắng vì mình đã lo chạy trước và được thầy nhận lễ đáng nhẽ là phần thắng thuộc về mình nhưng nó lại ngược lại. Lẽ phải ở đây dược xem xét bằng tiền. Cải đã đưa ra một ám hiệu là năm ngón tay, đưa mắt nhìn và lời nhắc khẽ để nhắc nhở thầy lí về hành động biện lễ của mình.
Đến đây mâu thẫn đã lên đến cao trào bởi Cải dường như đã lật bài ngựa. Nếu như vậy thì thầy lí sẽ xử ra sao? Thật bất ngờ đáp lại hành động kì quặc của Cải là hành động cũng kì quạc của thầy lí. Sự kết hợp lời nói và hành động giữa hai nhân vật tạo nên một tín hiệu đặc biệt, một thứ mật ngữ. Lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Mật ngữ thì chỉ có hai người trong cuộc mới biết được rõ. Hành động kì quặc đó được giải mã bởi lời nói của thầy lí kèm theo hành động: ” Thầy lí cũng xòe năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay phải mặt nói : Tao biết mày phải…..nhưng nó lại phải…..bằng hai may!”
Giữa ngón tay-tiền- lẽ phải có mối liên hệ mật thiết. Ngón tay thể hiện số lượng tiền. Tiền để đo lẽ phải. Theo như thầy lí thì tiền là lẽ phải, lẽ phải được đo bằng tiền. Người nào có nhiều tiền thì lẽ phải ắt thuộc về người đó. Gía trị tố cáo của truyện chính là ở chỗ đó. Trong xã hội mà mọi thứ được đo bằng tiền thì thử hỏi công lý ở đâu?.
Một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi mà còn như vậy. Thầy ăn của đút cả hai phía, “đục nước béo cò” mà lại dám công khai trước công đường với lời nói và hành động thật nực cười. Thầy lí là đại diện cho những kẻ có quyền thế “cầm cân nảy mực” trong lạng lại hiện ra nguyên hình là kẻ ăn đút trắng trợn. Ở đây nghệ thuật chơi chữ được thể hiện qua chữ phải: ” Mày phải….nhưng nó lại phải…..bằng hai mày”.
Cả ba nhân vật trong truyện đều bật ra tiếng cười. Lí trưởng là nhân vật bị đả kích còn Ngô và Cải là hai nhân vật bị phê phán. Cải và Ngô tùy là nạn nhân nhưng là những kẻ tiếp tay cho những việc làm đổi thay công lí, nhập nhằng trắng đen bằng việc đút lót của sau.
Truyện về cơ bản giống truyện Tam đại con gà nhưng ngắn gọn hơn, giàu kịch tính hơn. Tính cách nhân vật lí trưởng được giấu kín chỉ bộc lộ ở cuối truyện để tăng tính bất ngờ cho truyện. Sự kết hợp giữa hành động và ngôn ngữ cùng lối chơi chữ tạo nên tình huống gây cười.
Qua đây tác giả cũng muốn phê phán những kẻ có quyền có thế coi đồng tiền là tất cả làm ô uế xã hội, làm mất đi sự công bằng của xã hội.
Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10 – Bài làm 8
Nhưng nó bằng hai mày là truyện cười với lượng tình tiết ít ỏi, tác phẩm như một màn kịch ngắn, mỗi chi tiết đều giàu giá trị biểu đạt. Tác phẩm phê phán những kẻ cầm cán cân công lí như lại nhập nhằng, đổi trắng thay đen, đây là một hiện tượng phổ biến trong xã hội.
Thầy lí xử kiện cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Lúc này Cải vô cùng bất ngờ, vì vốn anh ta đã lo lót trước với thầy lí, tự bản thân luôn nghĩ phần thắng chắc chắn về mình, anh ta lâm vào thế bị động trước lời phán xét của thầy lí. Sự việc bất ngờ đó thể hiện ở hành động của Cải: Cải vội xòe năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thấy lí khẽ bẩm: Xin xét lại. Lẽ phải về con mà. Ở đây Cải ngụ ý nhắc về số tiền đã lo lót trước đó, đề xuất xử lại để phù hợp với số tiền mình đã đưa. Đáp lại hành động đó của Cải, thầy lí cũng đưa ra hành động vô cùng kì quặc, đầy tính ám hiệu: Xòe năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt. Tao biết mày phải nhưng nó phải bằng hai mày. Với ngụ ý Ngô đưa nhiều tiền đút lót hơn và Ngô phải là người thắng. Bằng lời nói công khai và hành động trước công đường: Lời phát ngôn của nhân vật được công khai cho tất cả mọi người cùng nghe và ai cũng hiểu. Còn mật ngữ hành động (xòe bàn tay) thì chỉ có hai người là Cải và ông lí mới có thể hiểu. Giữa ngón tay – tiền – lẽ phải có mối quan hệ mật thiết với nhau. Công lí không được đong đếm bằng sự thật nữa mà được đo bằng số tiền mỗi người bỏ ra đút lót. Theo cái lí của thầy thì lẽ phải tương đương với tiền, được đo bằng tiền. Giá trị tố cáo, ý nghĩa sâu xa của tác phẩm chính là ở chỗ đó.
Như vậy, cả ba nhân vật đều mang đến tiếng cười cho bạn đọc. Lí trưởng là đối tượng bị đả kích, còn Ngô và Cải là bị phê phán vì thói đút lót. Ngô và Cải tuy là nạn nhân nhưng chính họ là kẻ đã tiếp tay cho việc làm thay đổi công lí của lí trưởng.
Tác phẩm có kết cấu ngắn gọn, rõ ràng, chặt chẽ. Cái cười được ẩn kín, khiến cho câu chuyện trở nên giàu kịch hơn. Tính cách của nhân vật, đặc biệt là lí trưởng được ẩn kín đến cuối tác phẩm, tăng thêm tính bất ngờ cho tác phẩm. Sự kết hợp giữa hành động và ngôn ngữ, cùng lối chơi chữ đã tạo tiếng cười cho tác phẩm.
Tác phẩm lên tiếng phê phán quan lại tham ô nhận hối lộ xử án không nghiêm minh. Phê phán tầng lớp thống trị trong xã hội đương thời, từ đó phê phán xã hội thối nát đương thời. Phê phán người nông dân ấu trĩ với hành vi đút lót, tiêu cực đã tiếp tay cho bọn tham quan. Họ không chỉ là nạn nhân mà còn là tội nhân trong xã hội. Họ không chỉ đáng thương mà còn rất đáng trách.
Việt Nam có kho tàng truyện cười vô cùng phong phú và đa dạng, để phân biệt, người ta phân ra làm hai loại chính là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Nếu như truyện khôi hài chỉ nhằm mục đích mua cười, giải trí thì tiếng cười trào phúng lại mang ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng đối với những thói hư tật xấu ở đời. Nhưng nó phải bằng hai mày thuộc nhóm truyện cười trào phúng. Trong truyện, đối tượng bị đả kích là thói ăn thối hộ trơ tráo, phổ biến trong hàng ngũ quan lại xã hội xưa.
Những bài văn mẫu Phân tích truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày lớp 10
Thói ăn hối lộ là một tội lỗi thường chỉ có ở hàng ngũ quan chức, ở những người “cầm cân, nảy mực” và tư đây chân lí, lẽ phải bị định giá bởi đồng tiền. Nghịch lí này thường bị phê phán, đả kích thông qua nhiều loại hình nghệ thuật, mà một trong số đó là truyện cười dân gian, bởi truyện cười dân gian là lời đả kích thâm thúy, sâu cay nhất và khả năng truyền đạt cũng nhanh nhất, sâu rộng nhất. Đặc biệt nó được truyền bằng miệng nên tránh được búa rìu của nhà cầm quyền. Có thể nói, truyện Nhưng nó phải bằng hai mày thể hiện tập trung cao độ khả năng hài hướng, đả kích của tác giả dân gian trong cách lựa chọn chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ, người kể, ngôn ngữ nhân vật cũng như tổ chức cốt truyện,…
Trong truyện Nhưng nó phải bằng hai mày hành động ăn hối lộ được thể hiện qua hành động và ngôn ngữ trắng trợn, trơ trẽn của viên lí trưởng. Truyện kể về hai người Ngô và Cải do tranh chấp cãi vã xảy ra gây gổ đánh đập lẫn nhau. Rồi cả hai cùng nhau kéo ra tòa nhờ quan xử kiện. Câu chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như không có chuyện cả hai anh Ngô và Cả đều tìm cách hối lộ, đi cửa sau với quan để được xử thắng án.
Buổi tối hôm đó, Cải tới nhà ông lý trưởng vốn được mệnh danh là cha mẹ của dân để hối lộ quan năm xu, nhờ quan bênh vực con trên công đường, quan xử cho con thắng cho thằng Ngô kia nếm thử đòn roi.
Sáng hôm sau, trên công đường giờ xử án khi lý trưởng xử án đã quyết định cho Ngô thắng kiện và xử lý Cải mười roi. Lúc này Cải rất hoang mang, liền một mực kêu oan, rồi để cho quan nhớ chuyện tối qua mình đã hối lộ cho quan năm xu. Cải bền dơ bàn tay ra làm ám hiệu.
Cải muốn lý trưởng nhớ lại những gì đã hứa với mình tôi qua, nhưng, màn kịch đóng lại trước mặt Cải khi quan nói “Tao biết mày phải…nhưng nó lại phải bằng hai mày…”
Lúc này, thì Cải hiểu ra mọi chuyện, tiền mất tật mang vừa bị ăn đánh mười roi, vừa mất năm xu cho quan còn gì oan ức hơn. Nhưng tất cả những bi hài kịch này đều do con người tạo ra mà thôi. Nếu như Cải và Ngô cứ đường đường chính chính thì có lẽ chẳng ai phải mất tiền, cũng chẳng ai phải chịu oan ức như vậy.
Câu nói “Nhưng nó phải bằng hai mày” tự nó đã đủ khả năng gây cười vì đã là lẽ phải, đã là “chân lí chỉ có một”, không thể cả hai đều phải, lại càng không có chuyện người này “phải bằng hai” người kia. Khi đặt câu nói của lí trưởng trong hoàn cảnh hắn đã nhận lối lộ của Ngô gấp hai lần Cải lót tay cho hắn thì tường cười không dừng lại ở mức độ hài hước mà đa trở thành lời đả kích mạnh mẽ về một nhân cách: thói ăn hối lộ trắng trợn, có thể bẻ cong cả chân lí. Lí trưởng không chỉ ăn hối lộ của một bên, mà ăn của cả hai bên. Điều đó khiến lí trưởng phải lí giải hình phạt là: “Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày”. Tiếng cười bật ra mạnh mẽ hơn khi lời nói của thầy lí được kết hợp với hành động của hắn: “Xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt”. Hành động này cũng là một “phát ngôn” nhưng lại là loại “thông điệp” ngầm.
Về cấu trúc, truyện Nhưng nó phải bằng hai mày đã được tổ chức một cách thông minh để tiếng cười càng trở nên thâm thúy, sâu sắc. Mở đầu là lời người kể khen: “viên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi”. Tiếp theo, tác giả dân gian để cho cái “giỏi” của y được thể hiện bằng một vụ xử kiện cụ thể giữa Cải và Ngô và kết cục người nghe nhận ra được cái “giỏi” của lí trưởng ở đây là giỏi ăn tiền, ăn của đút lót, của hối lộ của cả hai bên mà bên nào cũng phải chịu. Cứ theo cách xử kiện nầy thì khi vào vụ kiện mỗi bên dù đúng hay sai đều phải tăng cường của đút lót thì mới mong hằng thắng.
Những tên riêng trọng truyện (Cải, Ngô) là tên những cây cối thường gặp trong đời thường nhằm chỉ những người lao động nghèo khổ, thật thà không hiểu biết về pháp luật. Họ không thể nhận thức được lẽ phải, đúng sai của mình mà chỉ biết “chạy” quan. Thực tế trong truyện cho thấy rằng đúng, sai chỉ có chạy quan thật nhiều tiền thì mới thoát được khỏi vòng lao lí. Cũng phải nói thêm rằng hành vi hối lộ cũng là hành vi xấu, là tội lỗi đáng bị lên án, nhưng xét trong hoàn cảnh cụ thể chúng ta thấy Cải và Ngô là những nhân vật đáng thương hơn là đáng trách, họ vừa là sản phẩm của xã hội thối nát vừa là nạn nhân của cái xã hội ấy. Rõ ràng việc họ đút lót cho quan trên là do thực trạng xã hội bắt buộc, khi mà lẽ phải được định giá bằng đồng tiền. Thực trạng xã hội đó là cơ sở để cha ông ta khái quát thành câu tục ngữ: “Vô phúc đáo tụng đình” (Vô phúc phải đến kiện cửa quan).
Thu Thủy