Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Thánh Gióng / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Truyện Cổ Tích Thánh Gióng

Vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà kêu lên: – “Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!”.

Vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà kêu lên: – “Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!”.

Bỗng bà cảm thấy rùng mình khi đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Và từ đó bà có mang. Đủ ngày tháng, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng bé đã lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói hay biết cười.

Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc Ân rất hung tàn, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân vương. Chúng đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi lại chúng. Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm tướng tài để giúp vua cứu nước.

Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng. Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền bảo đùa con rằng:

– Con ơi! Con của mẹ chậm đi chậm nói thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!

Không ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng:

– Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!

Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người tới nhà ai nấy cho là một sự lạ. Sau cùng một người nói:

– Ta cứ đi mời sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì.

Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhìn thấy chú bé Gióng liền hỏi rằng:

– Mày là đứa trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến đây để làm gì?

Gióng trả lời rất chững chạc:

– Về bảo với nhà vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc dữ cho!

Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu với nhà vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn đã xong nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi cách để chở đến cho chú bé Gióng.

Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con:

– Con ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi rồi, biết làm thế nào bây giờ con?

Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói:

– Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!

Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng cứ nấu lên được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên vô cùng khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo khoai, trâu, rượu, hoa quả, bánh trái mang đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu thì Gióng ăn vợi hết bấy nhiêu, mà vẫn đòi ăn không nghỉ.

Sau đó, Gióng lại bảo tiếp:

– Mẹ kiếm vải cho con mặc.

Người ta lại đua nhau mang vải lụa tới may áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt trội một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm. Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm đến nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm:

– Ta là tướng nhà Trời!

Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và dân làng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên, phun thẳng ra đằng trước một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng chục con sào. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng.

Nhưng tướng giặc Ân vương vẫn còn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang. Bỗng chốc gươm gãy, Gióng không chút bối rối, thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán bỏ chạy khắp nơi, Ân vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn cho nước nhà. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.

Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng thiên vương.

Ngày nay chúng ta còn thấy vẫn còn những dấu vết như dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, người ta bảo đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Những cây tre mà Gióng đã nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).

Tóm Tắt Truyện Thánh Gióng &Amp; Ý Nghĩa Hình Tượng

Bài tóm tắt số 1

Theo dân gian kể lại đời vua Hùng thứ 6 có cặp vợ chồng nghèo tuy đã lớn tuổi, ăn ở phúc đức nhưng mãi vẫn chưa có con. Khi ra đồng thấy vết chân lạ, bà vợ ướm thử thì về bỗng nhiên thụ thai, kì lạ thay đến 12 tháng cậu bé mới ra đời. Rất vui mừng hai vợ chồng đặt tên là Gióng, không như các đứa trẻ cùng lứa đến 3 tuổi mà Gióng không nói không cười.

Đời vua Hùng thứ 6, giặc ngoại xâm đang xâm chiếm bờ cõi, trước tình hình nguy cấp, nhà vua sai sứ giả đi tìm người tài giỏi trong nước để đánh đuổi giặc ngoại xâm.Khi nghe sứ giả rao, Gióng xin được đánh giặc và yêu cầu nhà vua phải trang bị vũ khí để đánh giặc.

Nhà vua rất mừng rỡ và sai người gấp rút làm ngay vũ khí để Gióng đánh giặc. Về phần mình từ khi gặp sứ giả Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ. Sứ giả mang vũ khí đến Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt giết giặc. Trận chiến ác liệt, roi sắt gãy, Gióng nhổ bụi tre bên đường dùng làm vũ khí để giết sạch kẻ địch. Sau khi đánh tan giặc ngoại xâm, Gióng lên đỉnh núi Sóc Sơn, phi về trời.

Để ghi nhớ công lao đánh giặc của Gióng, người dân lập đền thờ và tổ chức lễ hội hàng năm.

Bài tóm tắt số 2

Truyện kể rằng vào thời vua Hùng thứ 6, có đôi vợ chồng nghèo dù lớn tuổi nhưng mãi vẫn chưa có con. Người vợ tình cờ ra đồng thấy vết chân lạ bằng ướm thử, về nhà có thai và đến 12 tháng sau sinh hạ một cậu con trai. Từ khi sinh ra đến 3 tuổi mà cậu vẫn không nói không cười khiến đôi vợ chồng rất lo lắng.

Thời điểm vua Hùng thứ 6, giặc Ân đang lớn mạnh và muốn xâm chiếm nước ta, vua sai sứ giả đi tìm người hiền tài, giỏi giang cứu nước. Nghe thấy lời sứ giả nói, Gióng cất lời và nói rằng hãy trang bị vũ khí để Gióng đánh giặc.

Vua rất vui mừng, ra lệnh gấp rút hoàn thành vũ khí để Gióng đánh giặc. Từ khi Gióng gặp sứ giả bỗng trở nên khác thường, ăn bao nhiêu cũng không đủ, lớn nhanh như thổi. Sứ giả mang vũ khí đến Gióng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, trên tay cầm roi sắt xông trận giết giặc. Giặc chết như ngã rạ, roi sắt bị gãy, Gióng nhổ cả bụi tre bên đường làm vũ khí quét sạch giặc.Khi đánh tan kẻ thù, Gióng lên núi Sóc vã phi thẳng về trời.

Dấu tích còn lại của trận chiến năm xưa là những ao hồ, bụi tre vàng óng. Nhân dân lập đền thờ và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương.

ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng

Từ truyện cổ tích Thánh Gióng các em học sinh hãy nêu ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng, hình tượng đó thể hiện điều gì ? lời giải chi tiết các em tham khảo.

Thánh Gióng hình tượng người anh hùng đánh giặc ngoại xâm tiêu biểu trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước. Thánh Gióng được sinh ra rất kỳ lạ từ một người mẹ nghèo được mẹ và nhân dân nuôi dưỡng. Gióng chiến đấu chống lại giặc ngoại xâm bằng tất cả lòng yêu nước và mong muốn bảo vệ làng quê, đất nước.

Hình tượng Thánh Gióng mang trong mình sức mạnh của cả thiên nhiên và con người, của sự hiện đại lẫn thô sơ, sức mạnh đó như dung hòa và kết tinh lại tạo thành sức mạnh to lớn đủ sức quật ngã mọi kẻ thù to lớn.

Từ thực tế trong công cuộc đánh giặc bảo vệ đất nước của cha ông ta, hình tượng Thánh Gióng được thần thánh hóa và trở thành nhân vật anh hùng, với tinh thần ý chí quật khởi trong cuộc chiến chống giặc ngoại bang xâm lược. Bên cạnh đó hình tượng Thánh Gióng cũng nói lên một thời đại lịch sử của đất nước – Vua Hùng với nền nông nghiệp trồng lúa nước phát triển, người dân luôn phải chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước.

Truyền thuyết Thánh Gióng dù mang yếu tố kỳ ảo, hoang đường nhưng cũng nói lên sự đoàn kết của nhân dân khi có kẻ thù xâm lược và lòng yêu nước tinh thần quật khởi sẵn sàng chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù. Đồng thời nhân dân cũng mong muốn một hình tượng lý tưởng để chống lại kẻ thù mạnh gấp nhiều lần.

Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Tấm Cám

Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ. Người chị tên là Tấm còn em là Cám. Mẹ của Tấm đã mất từ sớm, còn cha cũng qua đời sau đó mấy năm. Để lại Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám.

Bà mẹ kế vô cùng cay nghiệt và độc ác. Ngày qua ngày, bà ta bắt Tấm phải làm hết những công việc nặng nhọc trong nhà từ việc chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo, đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Ngược lại, Cám lại vô cùng được chiều chuộng, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm bất cứ việc gì.

Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng xúc tép và hứa rằng: “Nếu đứa nào bắt được đầy giỏ tép thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ”. Nghe lời của mẹ, Tấm chăm chỉ siêng năng nên chẳng mấy chốc mà đã được một giỏ đầy vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, dạo hết từ ruộng nọ sang ruộng kia, hái hoa bắt bướm nên mãi đến chiều mà chẳng bắt được gì.

Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.

Nghe Cám nói vậy, Tấm tin là thật nên liền xuống ao tắm rửa cho sạch. Nhân cơ hội đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi chạy nhanh về nhà. Lúc lên bờ Tấm thấy chỉ còn lại chiếc giỏ trống không, Tấm ngồi xuống và bưng mặt khóc.

Nghe thấy tiếng khóc của Tấm, ông Bụt hiện lên và hỏi:

Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi :

– Con làm sao lại khóc ?

Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Thôi con hãy nín đi ! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói :

– Chỉ còn một con cá bống.

– Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này :

Bống bống bang bang

Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy !

Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấỵ

Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ gì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.

Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt.

Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:

– Con làm sao lại khóc ?

Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm :

– Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho !

Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời bụt dặn.

Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

– Con hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.

Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy suốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:

– Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem.

Bụt bảo:

– Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp.

– Nhưng ngộ nhỡ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.

– Con cứ bảo chúng nó thế này:

Rặt rặt (con chim sẻ ) xuống nhặt cho tao

Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết

Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo:

– Con làm sao lại khóc?

– Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.

– Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một cái áo mớ ba, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi giầy thêu. Đào lọ thứ ba thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuông đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giầy xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giầy còn lại rồi chen vào biển người.

Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ nhặt ngay được một chiếc giầy thêu của Tấm lúc nẫy đánh rơi xuống đó. Vua ngắm nghía chiếc giầy không chán mắt. Bụng bảo dạ:” Chà, một chiếc giầy thật xinh! Người đi giầy này hẳn phải là trang tuyệt sắc”.

Lập tức Vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ:

– Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giầy đấy!

Mụ dì ghẻ bĩu môi:

– Con nỡm, chuông khánh còn chẳng ăn ai nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!

Nhưng khi Tấm đặt chân vào giầy thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giầy giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.

Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:

– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.

Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi :

– Dì làm gì dưới gốc thế ?

– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.

Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim Vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó:

– Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.

Rồi chim Vàng anh bay thẳng vào cung rồi đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:

– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.

Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám.

Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn.

Thấy mất Vàng anh, vua hỏi, Cám đáp:

– Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim, nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.

Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc vọng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.

Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:

– Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình :

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị.

Chị khoét mắt ra

Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó có một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm:

– Thị ơi thị à, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉng thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.

Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ.

Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng.

Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi :

– Trầu này ai têm?

– Trầu này con gái lão têm – bà lão đáp.

– Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt.

Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.

Cám Thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa, thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị :

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Chị làm thế nào mà đẹp thế ?

Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:

– Có muốn đẹp không để chị giúp !

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:

– Ngon ngỏn ngòn ngon ! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng.

Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì kinh hoàng lăn đùng ra chết.

XEM VIDEO TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM

BÀI VĂN PHÂN TÍCH Ý NGHĨA TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM

Dịu dàng là thế Tấm ơi

Mà sao em phải thiệt thòi, vì sao?

Phận nghèo hôm sớm dãi dầu

Hóa bao nhiêu kiếp, ngọt ngào, đa đoan.

Tấm Cám – thiên truyện cổ tích ngàn đời sau vẫn còn day dứt mãi khôn nguôi trong lòng người đọc. Là tác phẩm khác biệt nhất trong những truyện cổ tích ta đã từng gặp, hình tượng nhân vật được khắc họa thành công đến nỗi in sâu vào trí nhớ của biết bao thế hệ. Họa và nhạc, thơ và văn hội tủ trong một tác phẩm của những người dân chưa qua trường lớp đào tạo nào. Đây là tác phẩm hội tủ đầy đủ nhất những ý nghĩa nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm.

Vài nét về tác phẩm

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.

Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Tấm làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tôm tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, mụ nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Tấm đi vừa đôi hài và trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày kế giết chết. Tấm chết đi lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, cuối cùng trở lại làm người sống cùng bà hàng nước. Một hôm, vua tình cờ đi quá liền ghé vào hàng nước. Nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng liền dò hỏi bà. Cuối cùng, vua và Tấm đã được đoàn tụ.

Ý nghĩa của tác phẩm

Khắc họa những mâu thuẫn cơ bản của xã hội phong kiến

Tấm Cám đào rất sâu những mâu thuẫn tồn tại trong hiện thực, thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc của người tác giả. Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữ mẹ ghẻ – con chồng:

Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng

Mâu thuẫn này phát triển từ thấp đến cao: ban đầu chỉ là những hơn thua về vật chất, tinh thần, sự ganh ghét mẹ ghẻ con chồng,…Khi đó, Tấm luôn là người nhường nhịn, chịu thua thiệt. Càng về sau mâu thuẫn chuyển thành sự đố kị, một mất một còn, tiêu diệt lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ. Mẹ ghẻ không có được tình yêu thương thật sự, quá ích kỉ và tính toán thiệt hơn. Điều này khiến mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng không thể giải quyết, buộc phải có một bên thua cuộc. Con riêng của chồng ngày xưa phải chịu rất nhiều khổ cực mà lại không có tiếng nói. Vì vậy tác giả mới lên tiếng mạnh mẽ bóc trần và đả kích nó.

Thứ hai là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất luôn được khắc họa trong tất cả các truyện cổ tích. Nhưng đối với Tấm Cám, mâu thuẫn này được khắc họa sâu hơn bất kì tác phẩm nào khác. Cái ác được đưa lên đỉnh điểm khiến người ta phải phẫn nộ. Cái ác liên tục bày mưu tính kế, chặn đứng con đường tiến tới hạnh phúc của Tấm. Mức độ độc ác tăng theo từng chi tiết truyện khiến người đọc phải phẫn nộ, không thể không căm phẫn.

Con đường đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm – khi người tốt không còn phụ thuộc vào thế lực siêu nhiên mà đã biết phản kháng

Ở những tác phẩm khác, nhân vật thường giựa vào sự giúp đỡ của ông Bụt, bà tiên, hoặc thân thế khác biệt để có thể sống sót qua những thủ đoạn của phe phản diện. Nhưng với Tấm Cám, Tấm được xây dựng với tính cách mạnh mẽ, phản kháng mãnh liệt để dành bằng được hạnh phúc đáng ra thuộc về mình đã bị cướp.

Sự phản kháng này được thể hiện qua những lần hóa thân của Tấm. Lúc đầu, tấm chỉ biết khóc lóc, hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của thần linh, mâu thuẫn được giải quyết nhanh chóng. Song về sau, khi mâu thuẫn được đưa lên đỉnh điểm, tính cách của Tấm theo đó cũng trở nên mạnh mẽ theo, không còn khóc mà đã biết dùng lời nói và hành động để đe dọa mẹ con Cám:

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra

Những hành động này rất phù hợp với quá trình phát triển trong tư tưởng đấu tranh của Tấm. Dù bị mẹ con Cám tìm mọi cách tận diệt, Tấm vẫn tái sinh dưới các dạng thức khác nhau (chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị). Càng về sau, Tấm càng đấu tranh quyết liệt để giành lại sự sống. Qua những lần biến hóa, dân gian muốn khẳng định: cái thiện không bao giờ chịu khuất phục, chính nghĩa không bao giờ đầu hàng, cái thiện sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ lẽ phải và công lí. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất làm nên chiến thắng.

Bài học về ác giả ác báo

Hai mẹ con Cám 5 lần 7 lượt tìm mọi cách hãm hại Tấm, tìm mọi cách không cho Tấm ngóc đầu lên được, giết chết Tấm chưa đủ, chúng còn tiêu diệt cả những hóa thân của Tấm, không cho Tấm trở về với thế giới con người. Nhưng điều gì đến thì nó cũng sẽ phải đến dù sớm hay muộn, hai mẹ con Cám đã bị trừng phạt thích đáng cho những gì mà họ đã gây ra.

Rất nhiều người cho rằng Tấm trả thù 2 mẹ con Cám như vậy là quá độc ác, quá khác so với hình ảnh một cô Tấm thảo hiền, yếu đuối. Nhưng kết thúc truyện như vậy mới thấy rõ giá trị nhân văn của tác phẩm, thấy rõ những triết lí mà tác giả dân gian muốn gửi gắm. Mẹ con Cám đã bao lần hãm hại Tấm, đã giết chết Tấm không biết bao nhêu lần, Tấm cần phải mạnh tay để cái ác không có cơ hội tồn tại và phát triển.

Tấm Cám xứng đáng là một trong tác phẩm hay nhất của văn học dân gian Việt Nam.

Ý Nghĩa Của Truyện Cổ Tích Sọ Dừa

Truyện cổ tích hấp dẫn người đọc bởi truyện đã chiếu rọi ánh sáng lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Để khắc hoạ nhân vật và cấu trúc nên cốt truyện, dân gian rất quan tâm, chú trọng đến các hành động của nhân vật chứ không quan tâm mô tả ngoại cảnh, ngoại hình và tâm lý nhân vật. Hình tượng nhân vật trong truyện cổ tíc h rất đa dạng, trong đó có kiểu nhân vật xấu xí. Các nhân vật xấu xí với vẻ ngoài dị dạng như con cóc, con dê, con ếch… có sự đối lập với vẻ xấu xí bên ngoài là vẻ đẹp bên trong của các nhân vật với tính cách hiền lành, chân thật, cao thượng và có một tâm hồn trong sáng, tình yêu chân thành. Sọ Dừa là điển hình cho kiểu nhân vật này, phân tích nhân vật và tác phẩm ta có thể thấy truyện dạy ta rất nhiều bài học triết lí.

Tóm tắt truyện cổ tích Sọ Dừa

Có đôi vợ chồng già hiếm muộn con cái, phải đi ở cho nhà phú ông. Một hôm bà vợ vào rừng hái củi, uống nước trong cái sọ dừa, về nhà có mang, ít lâu sau sinh ra một đứa bé kì dị, không chân không tay, tròn như một quả dừa. Thấy đứa bé biết nói, bà giữ lại nuôi và đặt luôn tên là Sọ Dừa.

Thương mẹ vất vả, Sọ Dừa nhận chăn đàn bò nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào cũng béo mượt. Ba cô con gái nhà phú ông thay nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kênh kiệu thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô út đối đãi với cậu tử tế.

Phát hiện ra vẻ đẹp bên trong cái vẻ kì dị của Sọ Dừa, cô út đem lòng thương yêu. Sọ Dừa nhờ mẹ đến nhà phú ông hỏi vợ. Phú ông thách cưới thật lo nhưng thấy Sọ Dừa mang đủ đồ thách cưới đến, đành phải gả cô út cho chàng. Ngày cưới, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai trẻ đẹp khiến hai cô chị vô cùng ghen tức.

Nhờ chăm chỉ đèn sách Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử đi, sứ nước ngoài. Trước khi đi chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để đề phòng tai hoạ.

Sọ Dừa đi vắng, hai người chị tìm cách hãm hại cô út, đẩy cô xuống biển hòng cướp chồng em. Nhờ có các đồ vật chồng đưa cho, cô út thoát chết, được chồng cứu trên đường đi sứ về. Hai vợ chồng đoàn tụ. Hai cô chị xấu hổ bỏ nhà đi biệt tích.

Ý nghĩa của truyện cổ tích Sọ Dừa

Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người

Sọ Dừa là hình tượng điển hình nhất cho kiểu nhân vật có ngoại hình xấu xí nhưng lại có vẻ đẹp bên trong ngời sáng, đẹp đẽ và nhân hậu. Đọc truyện cổ tích Sọ Dừa, có thể thấy mối quan hệ giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật. Về hình thức bề ngoài, Sọ Dừa dị dạng (tròn như sọ dừa) đối lập với phẩm chất bên trong (thông minh, tài giỏi). Sự đối lập giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của Sọ Dừa khẳng định giá trị bản chất và chân chính của con người

Người xưa có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, ý muốn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn con người mới là cái quyết định, không nên có sự khinh miệt đối với ngoại hình xấu xí của một con người. Sự thật đã chứng minh, Sọ Dừa có khả năng làm tốt tất cả những việc mà những người bình thường có thế làm được, thậm chí tốt hơn. chàng chăn bò rất giỏi, thổi sáo rất hay, tự tin (chăn bò, giục mẹ hỏi con gái phú ông làm vợ và lo đủ sính lễ theo điều kiện phú ông đặt ra), thông minh (thi đỗ Trạng nguyên), có tài dự đoán tương lai chính xác (khi đi xứ, đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn vợ phải luôn giắt trong người). Điều đó chứng tỏ vẻ đẹp bên trong mới là vẻ đẹp vĩnh cửu và trường tồn.

Ca ngợi vẻ đẹp của Sọ Dừa, truyện đồng thời cũng phản ánh một hiện thực bất công trong cuộc sống, những con người bất hạnh có ngoại hình xấu xí phải chịu đựng sự chê bai dè bỉu của người đời. Họ không dám lên tiếng mà để cho những áng truyện viết thay họ

Kín đáo truyền tải thông điệp yêu thương những người khác mình.

Để yêu thương một người là một điều tương đối dễ dàng, nhưng để yêu thương ai đó khác mình lại là một điều thật khó. Con người ta vẫn thường tự tin mình có tấm lòng nhân hậu, vị tha cho đến khi đối mặt với những người khác biệt mình, họ tự cho mình có quyền được phán xét, được bình phẩm người khác, họ tự cho mình quyền được đặt bản thân lên trên quyền được sống và yêu thương của đồng loại. Sọ Dừa không chỉ đơn thuần là câu chuyện cổ tích viết cho trẻ con, nó là một lưỡi dao rất tinh tế xoáy sâu vào hiện thực của sự thật, vừa đủ để ta nhận ra rằng liệu có chăng ta cần phải học cách yêu thương lại từ đầu. Ta cần yêu phẩm chất và tài năng của họ, công nhận sự nỗ lực của họ. Các nhân vật này không phải là quái vật mà chỉ là sự khác biệt, họ xứng đáng được đối xử như những người bình thường khác. Ta nên hành xử với họ như cách cô Út đã làm với Sọ Dừa

Khi đánh giá con người: phải xem xét toàn diện, không chỉ dừng lại ở biểu hiện bề ngoài. Đó là ý nghĩa nhân bản, thể hiện đạo lý truyền thống của nhân dân. Truyện còn đề cao lòng nhân ái: “Thương người như thể thương thân”. Chính lòng nhân ái sẽ đem lại hạnh phúc cho con người.

Khát vọng được đổi đời

Xã hội phong kiến được biết tới là xã hội phân biệt giàu nghèo, tầng lớp vô cùng lớn. Không phải ngẫu nhiên mà có câu thơ:

Con vua thì lại làm vua

Con sãi ở chùa thì quét lá đa

Một sự thật là những người ở tầng lớp dưới rất khó để tiếp cận với địa vị cao chỉ bằng tài năng của mình. Những con người bần cùng không có cơ hội để thực hiện ước mơ của mình, họ phải chịu miệt thị bởi ngoại hình xấu xí, sự nghèo khó cũng như đau khổ mà họ không đáng phải gánh, họ không biết phải gửi những lời than này đi đâu, chỉ biết viết vào những truyện cổ tích. Sọ Dừa có hình dạng xấu xí nhưng cuối cùng đã được trút bỏ lốt, cùng cô út hưởng hạnh phúc, còn hai cô chị phải bỏ nhà trốn đi. Qua kết cục này, người lao động xưa thể hiện những mơ ước về sự đổi đời: Sọ Dừa từ thân phận thấp kém, xuất thân trong một gia đình đi ở, dị hình xấu xí… trở thành người đẹp đẽ, có tình thương và thông minh tài giỏi, được hưởng hạnh phúc.

Đó là sự đổi ngôi giữa các tuyến nhân vật, kẻ lương thiện tài năng cần được quay trở về với đúng vị trí mình, đó đã là chân lý muôn thuở .

Như vậy, Sọ Dừa đã truyền tải rất nhiều ý nghĩa hay đến bạn đọc, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, kín đáo lên án xã hội bất công, đồng thời thể hiện khát vọng chiến thắng cái ác của người dân

Thảo Nguyên