Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Tấm Cám / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Tấm Cám

Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ. Người chị tên là Tấm còn em là Cám. Mẹ của Tấm đã mất từ sớm, còn cha cũng qua đời sau đó mấy năm. Để lại Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám.

Bà mẹ kế vô cùng cay nghiệt và độc ác. Ngày qua ngày, bà ta bắt Tấm phải làm hết những công việc nặng nhọc trong nhà từ việc chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo, đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Ngược lại, Cám lại vô cùng được chiều chuộng, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm bất cứ việc gì.

Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng xúc tép và hứa rằng: “Nếu đứa nào bắt được đầy giỏ tép thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ”. Nghe lời của mẹ, Tấm chăm chỉ siêng năng nên chẳng mấy chốc mà đã được một giỏ đầy vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, dạo hết từ ruộng nọ sang ruộng kia, hái hoa bắt bướm nên mãi đến chiều mà chẳng bắt được gì.

Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.

Nghe Cám nói vậy, Tấm tin là thật nên liền xuống ao tắm rửa cho sạch. Nhân cơ hội đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi chạy nhanh về nhà. Lúc lên bờ Tấm thấy chỉ còn lại chiếc giỏ trống không, Tấm ngồi xuống và bưng mặt khóc.

Nghe thấy tiếng khóc của Tấm, ông Bụt hiện lên và hỏi:

Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi :

– Con làm sao lại khóc ?

Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Thôi con hãy nín đi ! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói :

– Chỉ còn một con cá bống.

– Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này :

Bống bống bang bang

Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy !

Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấỵ

Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ gì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.

Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt.

Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:

– Con làm sao lại khóc ?

Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm :

– Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho !

Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời bụt dặn.

Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

– Con hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.

Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy suốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:

– Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem.

Bụt bảo:

– Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp.

– Nhưng ngộ nhỡ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.

– Con cứ bảo chúng nó thế này:

Rặt rặt (con chim sẻ ) xuống nhặt cho tao

Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết

Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo:

– Con làm sao lại khóc?

– Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.

– Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một cái áo mớ ba, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi giầy thêu. Đào lọ thứ ba thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuông đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giầy xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giầy còn lại rồi chen vào biển người.

Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ nhặt ngay được một chiếc giầy thêu của Tấm lúc nẫy đánh rơi xuống đó. Vua ngắm nghía chiếc giầy không chán mắt. Bụng bảo dạ:” Chà, một chiếc giầy thật xinh! Người đi giầy này hẳn phải là trang tuyệt sắc”.

Lập tức Vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ:

– Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giầy đấy!

Mụ dì ghẻ bĩu môi:

– Con nỡm, chuông khánh còn chẳng ăn ai nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!

Nhưng khi Tấm đặt chân vào giầy thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giầy giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.

Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:

– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.

Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi :

– Dì làm gì dưới gốc thế ?

– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.

Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim Vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó:

– Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.

Rồi chim Vàng anh bay thẳng vào cung rồi đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:

– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.

Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám.

Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn.

Thấy mất Vàng anh, vua hỏi, Cám đáp:

– Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim, nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.

Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc vọng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.

Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:

– Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình :

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị.

Chị khoét mắt ra

Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó có một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm:

– Thị ơi thị à, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉng thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.

Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ.

Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng.

Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi :

– Trầu này ai têm?

– Trầu này con gái lão têm – bà lão đáp.

– Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt.

Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.

Cám Thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa, thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị :

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Chị làm thế nào mà đẹp thế ?

Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:

– Có muốn đẹp không để chị giúp !

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:

– Ngon ngỏn ngòn ngon ! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng.

Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì kinh hoàng lăn đùng ra chết.

XEM VIDEO TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM

BÀI VĂN PHÂN TÍCH Ý NGHĨA TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM

Dịu dàng là thế Tấm ơi

Mà sao em phải thiệt thòi, vì sao?

Phận nghèo hôm sớm dãi dầu

Hóa bao nhiêu kiếp, ngọt ngào, đa đoan.

Tấm Cám – thiên truyện cổ tích ngàn đời sau vẫn còn day dứt mãi khôn nguôi trong lòng người đọc. Là tác phẩm khác biệt nhất trong những truyện cổ tích ta đã từng gặp, hình tượng nhân vật được khắc họa thành công đến nỗi in sâu vào trí nhớ của biết bao thế hệ. Họa và nhạc, thơ và văn hội tủ trong một tác phẩm của những người dân chưa qua trường lớp đào tạo nào. Đây là tác phẩm hội tủ đầy đủ nhất những ý nghĩa nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm.

Vài nét về tác phẩm

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.

Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Tấm làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tôm tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, mụ nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Tấm đi vừa đôi hài và trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày kế giết chết. Tấm chết đi lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, cuối cùng trở lại làm người sống cùng bà hàng nước. Một hôm, vua tình cờ đi quá liền ghé vào hàng nước. Nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng liền dò hỏi bà. Cuối cùng, vua và Tấm đã được đoàn tụ.

Ý nghĩa của tác phẩm

Khắc họa những mâu thuẫn cơ bản của xã hội phong kiến

Tấm Cám đào rất sâu những mâu thuẫn tồn tại trong hiện thực, thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc của người tác giả. Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữ mẹ ghẻ – con chồng:

Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng

Mâu thuẫn này phát triển từ thấp đến cao: ban đầu chỉ là những hơn thua về vật chất, tinh thần, sự ganh ghét mẹ ghẻ con chồng,…Khi đó, Tấm luôn là người nhường nhịn, chịu thua thiệt. Càng về sau mâu thuẫn chuyển thành sự đố kị, một mất một còn, tiêu diệt lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ. Mẹ ghẻ không có được tình yêu thương thật sự, quá ích kỉ và tính toán thiệt hơn. Điều này khiến mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng không thể giải quyết, buộc phải có một bên thua cuộc. Con riêng của chồng ngày xưa phải chịu rất nhiều khổ cực mà lại không có tiếng nói. Vì vậy tác giả mới lên tiếng mạnh mẽ bóc trần và đả kích nó.

Thứ hai là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất luôn được khắc họa trong tất cả các truyện cổ tích. Nhưng đối với Tấm Cám, mâu thuẫn này được khắc họa sâu hơn bất kì tác phẩm nào khác. Cái ác được đưa lên đỉnh điểm khiến người ta phải phẫn nộ. Cái ác liên tục bày mưu tính kế, chặn đứng con đường tiến tới hạnh phúc của Tấm. Mức độ độc ác tăng theo từng chi tiết truyện khiến người đọc phải phẫn nộ, không thể không căm phẫn.

Con đường đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm – khi người tốt không còn phụ thuộc vào thế lực siêu nhiên mà đã biết phản kháng

Ở những tác phẩm khác, nhân vật thường giựa vào sự giúp đỡ của ông Bụt, bà tiên, hoặc thân thế khác biệt để có thể sống sót qua những thủ đoạn của phe phản diện. Nhưng với Tấm Cám, Tấm được xây dựng với tính cách mạnh mẽ, phản kháng mãnh liệt để dành bằng được hạnh phúc đáng ra thuộc về mình đã bị cướp.

Sự phản kháng này được thể hiện qua những lần hóa thân của Tấm. Lúc đầu, tấm chỉ biết khóc lóc, hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của thần linh, mâu thuẫn được giải quyết nhanh chóng. Song về sau, khi mâu thuẫn được đưa lên đỉnh điểm, tính cách của Tấm theo đó cũng trở nên mạnh mẽ theo, không còn khóc mà đã biết dùng lời nói và hành động để đe dọa mẹ con Cám:

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra

Những hành động này rất phù hợp với quá trình phát triển trong tư tưởng đấu tranh của Tấm. Dù bị mẹ con Cám tìm mọi cách tận diệt, Tấm vẫn tái sinh dưới các dạng thức khác nhau (chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị). Càng về sau, Tấm càng đấu tranh quyết liệt để giành lại sự sống. Qua những lần biến hóa, dân gian muốn khẳng định: cái thiện không bao giờ chịu khuất phục, chính nghĩa không bao giờ đầu hàng, cái thiện sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ lẽ phải và công lí. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất làm nên chiến thắng.

Bài học về ác giả ác báo

Hai mẹ con Cám 5 lần 7 lượt tìm mọi cách hãm hại Tấm, tìm mọi cách không cho Tấm ngóc đầu lên được, giết chết Tấm chưa đủ, chúng còn tiêu diệt cả những hóa thân của Tấm, không cho Tấm trở về với thế giới con người. Nhưng điều gì đến thì nó cũng sẽ phải đến dù sớm hay muộn, hai mẹ con Cám đã bị trừng phạt thích đáng cho những gì mà họ đã gây ra.

Rất nhiều người cho rằng Tấm trả thù 2 mẹ con Cám như vậy là quá độc ác, quá khác so với hình ảnh một cô Tấm thảo hiền, yếu đuối. Nhưng kết thúc truyện như vậy mới thấy rõ giá trị nhân văn của tác phẩm, thấy rõ những triết lí mà tác giả dân gian muốn gửi gắm. Mẹ con Cám đã bao lần hãm hại Tấm, đã giết chết Tấm không biết bao nhêu lần, Tấm cần phải mạnh tay để cái ác không có cơ hội tồn tại và phát triển.

Tấm Cám xứng đáng là một trong tác phẩm hay nhất của văn học dân gian Việt Nam.

Phân Tích Truyện Cổ Tích Tấm Cám

1. Truyện cổ tích Tấm Cám có thể chia làm hai phần lớn. Phần 1: Thân phận của Tấm và con đường đến với hạnh phúc của cô. Phần 2: Cuộc đấu tranh để giành và giữ hạnh phúc của Tấm. Hoặc có thể chia thành bốn phần nhỏ như sau:

– Phần 1 (Từ đầu đến “vào một việc gì”): Ở với dì ghẻ và Cám, Tấm bị hành hạ nhưng vẫn nuôi hi vọng.

– Phần 2 (Từ “Được ít lâu” đến “mà đẹp thế”): Vận may đến với Tấm khi Tấm thử vừa chiếc giày thêu, được làm hoàng hậu.

– Phần 3 (Từ “Vào cung vua” đến “thật xa cung vua”): Tấm bị hại, bị cướp mất chồng phải hóa thân vào chim vàng oanh, cây xoan đào, khung dệt cửi song vẫn không ngừng tố cáo kẻ ác.

– Phần 4 (Từ “Ớ đống tro” đến hết): Tấm hóa thân vào quả thị, về với bà lão, gặp lại nhà vua, tìm cách giết Cám và mụ dì ghẻ.

3. Từ mở đầu đến kết thúc truyện, thái độ phản kháng của Tấm đối với hành vi tàn ác của mẹ con Cám ngày càng tiến triển. Nếu như ở phần 1, thái độ của Tấm là cam chịu và than khóc, thì ở phần 3 và 4, thái độ của Tấm là ăn miếng trả miếng, đấu tranh quyết liệt cho đến lúc tiêu diệt được kẻ ác. Tất nhiên Tấm phải dựa vào các yếu tô’ kì ảo như Bụt và phép luân hồi của Bụt. Song Tấm vẫn còn dựa vào con người nữa như bà lão bán nước và ông vua yêu vợ. Sự trở về với cuộc đời của Tấm ở cuối truyện nói lên quan niệm nhân hậu của nhân dân: Nhân dân không muôn kẻ mồ côi bất hạnh như Tấm chịu mãi thiệt thòi.

4. Truyện Tấm Cám phản ánh ước mơ về một cuộc sống công bằng trong xã hội, về quan niệm “ở hiền gặp lành”. Người hiếu hạnh đẹp nết, đẹp người phải được hạnh phúc. Kẻ ác phải bị trừng trị.

5. Truyện Tấm Cám là truyện cổ tích thần kì vì có nhiều chi tiết kì ảo như: Bụt hiện lên, cá bống nghe được tiếng người; xương bống đem chôn cho trang phục đẹp; chim giúp Tấm nhặt gạo, nhặt thóc; chiếc giày thêu hoa giúp Tấm nên duyên. Rồi tiếp đó là bôn cuộc hóa thân mà cuộc hóa thân nào cũng ấn tượng cả: hóa thân thành chim vàng anh biêt hót véo von, hóa thân thành cây xoan đào để vua mắc võng, hóa thân khung cửi dệt cảnh cáo kẻ cướp chồng, hóa thân trong quả thị chờ ngày hội ngộ. Ngay chi tiết tắm nước sôi để nước da trở nên trắng đẹp mà Cám ngờ nghệch thực hiện cũng là một chi tiết thần kì, bởi nếu chỉ tinh ý một chút thì đời nào Cám lại thực hiện cuộc tự sát chóng vánh ấy.

5. Truyện Tấm Cám có chi tiết mời trầu đức vua, nhờ miếng trầu cánh phượng têm khéo, đức vua nhận ra vợ mình. Đây quả là một hội ngộ thú vị bởi miếng trầu là biểu hiện văn hóa giao tiếp của người Việt. Gặp nhau “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, mời trầu là tiết mục giao duyên. Cho nên trong bài ca dao gặp hai anh đi câu thạch bàn, cô gái đã không nhận trầu vì “Thưa rằng bác mẹ em răn – Làm thân con gái chớ ăn trầu người”.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá bạc như vôi.

Cho đến xã hội hiện đại, trai gái lấy nhau vẫn có sự hiện diện của miếng trầu kết gắn lứa đôi.

Một số câu ca dao có miếng trầu (dẫn theo Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Xuân Kính):

– Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không.

– Từ ngày ăn phải miếng trầu,

Miệng thơm môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.

– Trầu xanh, cau trắng, chay vàng,

Cơi trầu bịt bạc thiếp chàng ăn chung.

Trầu xanh, cau trắng, chay hồng,

Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.

– Gặp nhau đưa một miếng trầu,

Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.

Về Truyện Cổ Tích Tấm Cám

Về truyện cổ tích Tấm Cám

Soạn bài: Hàn Mặc Tử và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Đã là người Việt Nam, trong thời thơ ấu của mình có mấy ai không từng được nghe kể chuyện Tấm Cám, và hình ảnh cô Tấm mồ côi ao ước chiếc yếm đào, ngồi khóc bên giếng vì mất bống, bị hắt hủi tội nghiệp đã làm lay động bao trái tim nhân hậu.

Kiểu truyện Người mồ côi rất quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam và nước ngoài, trong đó Tấm Cám là kiểu truyện phổ biến. Ở Pháp có truyện Lọ Lem, Đức có Cô Tro Bếp, Trung Quốc có Nàng Diệp Hạn, Thái Lan có Con cá vàng, Mianma có Truyện con rùa, Cămpuchia có Nêang – Cantóc…. Nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có những truyện tương tự Tấm Cám: Tua Gia Tua Nhi (Tày), Ý Ưởi Ý Noọng (Thái), Gầu Nà – Gầu Rềnh (Mông), Đôi giày vàng (Chăm), Ú và Cao (Hơ rê), Gơ liu- Gơ lát (Xơ rê)… Khác với những truyện tương tự Tấm Cám ở phương Tây, thường kể về cô gái mồ côi bất hạnh, chăm chỉ hiền lành được vào hoàng cung, lấy chồng hoàng tử và kết thúc ở đó. Truyện Tấm Cám còn có phần thứ hai, phản ánh cuộc đấu tranh gian nan và quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm. Cả hai phần của truyện đều thể hiện mơ ước thiện thắng ác và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam xưa.

1. Thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi

Truyện kể “mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi”, lời kể đã xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chợ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ còn thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều. Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con người dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. Bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hi vọng có cái yếm đào, Tấm khóc. Cái yếm đào chỉ là một món quà bé nhỏ, nhưng với cô Tấm nghèo khó, mồ côi, đang ở tuổi trăng tròn, lại chẳng bao giờ được nhận một món quà nào thì nó thật đáng quý. Vì vậy, dường như Tấm không chỉ khóc vì bị mất yếm đào mà còn vì chút hi vọng được nhận yêu thương cũng tan biến mất. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm, Tấm lại khóc. Chú bống nhỏ bé, được cô nhường nhịn, chăm chút yêu thương trong bát cơm hẩm san sẻ cho bống và câu gọi thiết tha “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”. Với cô gái mồ côi không được nhận sự chăm sóc nào như Tấm thì chăm chút cho bống là một nhu cầu tình cảm, nhu cầu được chăm chút và sẻ chia. Vì vậy, việc giết bống đâu phải để thoả mãn sự tham ăn của mẹ con Cám mà là để hành hạ Tấm, phá đi chỗ dựa tình cảm của cô gái đơn côi. Cục máu bầm nổi trên mặt giếng như bằng chứng không lời về sự tàn bạo, độc ác của hành động giết bống. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Dì ghẻ trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt. Đến đây, sự hành hạ chẳng cần phải che đậy như những lần trước. Hội làng là ngày vui nhất trong năm. Mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo đều được đi hội và chia sẻ niềm vui chung, thế mà riêng Tấm bị bắt ở nhà, cô càng lẻ loi hơn. Tấm lại khóc và dường như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau khổ của cô lên cao hơn.

Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội xưa. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn dì ghẻ – con chồng mà còn là biểu hiện cụ thể của xung đột thiện – ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chăm chỉ, lương thiện, đôn hậu (bắt được đầy giỏ tép, đi chăn trâu đồng xa, nhịn cơm dành nuôi bống,…) Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé nhỏ của Tấm là cái yếm đào; lén lút giết chết con bống là giết chết người bạn bé nhỏ của Tấm; trắng trợn trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô,… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gọi dậy niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.

Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai tác quái thì mâu thuẫn thiện – ác thể hiện càng sâu sắc, không thể dung hoà, tạo nên không khí căng thẳng buộc phải thay đổi.

Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn ấy theo hướng: dù lâu hay mau, dù gian nan khó khăn đến thế nào, song thiện nhất định sẽ thắng ác và người lương thiện nhất định sẽ được nhận hạnh phúc. Con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn rất đặc trưng của cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, truyện cổ tích thường sử dụng yếu tố kì ảo.

Truyện Tấm Cám, giải quyết mối xung đột thiện – ác cũng theo hướng thiện thắng ác và nhờ sự giúp sức của nhân vật Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi Tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm mất yếm đào – Bụt cho cá bống. Tấm mất bống – Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội – Bụt cho chim sẻ đến giúp Tấm, đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Bụt (tên gọi dân gian của Phật) vốn là nhân vật của Phật giáo, đã được dân gian hoá, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, nhiều quyền năng, xuất hiện đúng lúc để nâng đỡ mơ ước, chữa lại số phận hẩm hiu cho người nghèo. Cùng với Bụt, con gà biết cảm thông với Tấm, chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, cũng là yếu tố kì ảo, trợ giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa.

Những đau khổ của người mồ côi là có thực và phổ biến, còn hạnh phúc mà họ được hưởng thường rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may mắn cho họ. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.

Trong truyện Tấm Cám Việt Nam và những truyện tương tự của nước ngoài, các cô gái mồ côi đến với hạnh phúc nhờ đôi giày, vật báu trực tiếp đem lại may mắn. Nhờ chiếc giày cô gái đánh rơi mà nhà vua hay hoàng tử nhận ra người đẹp và kết hôn với cô. Hình ảnh đôi giày trong văn hoá một số nước có ý nghĩa giao duyên, là vật làm tin các chàng trai cô gái thường trao cho nhau trước hôn lễ. Các chú rể người Đức thường tặng cho vị hôn thê của mình một đôi giày trong lễ đính hôn. Khi cô gái ướm chân vào giày, chàng trai phải tự tay mình đóng nốt những chiếc đinh cuối cùng với hi vọng hôn nhân của họ sẽ bền chặt. Ở Trung Quốc, các cô gái dù chưa biết mặt người chồng tương lai của mình là ai vẫn cứ khâu một đôi giày vải hoặc tết một đôi giày rơm làm món quà tặng đầu tiên cho chồng. Ở Việt Nam, đôi giày không có ý nghĩa giao duyên, nhưng khi những người phụ nữ bình dân nghe tin loa truyền, ai đi vừa giày sẽ được làm hoàng hậu thì “đàn bà con gái trong đám hội chen nhau đến ướm chân vào giày”. Ướm chân hay chính là được một lần thử vận may của mình! Có ai không mơ ước hạnh phúc và có ai lại bỏ qua cơ hội kiếm tìm hạnh phúc cho mình. Ướm giày, họ hi vọng một may mắn tình cờ nào đó sẽ dẫn mình đến tương lai tốt đẹp. Nhưng truyện cổ tích không bao giờ có ngẫu nhiên cho những người bất kì. Chỉ có người đáng hưởng hạnh phúc nhất mới là người ướm chân vừa giày và nhận món quà may mắn của số phận. Ta hiểu rằng, đằng sau luỹ tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì diệu của người nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và nuôi nó sống động trong những câu chuyện kể.

Tấm nhờ chăm chỉ, lương thiện mà được Bụt giúp đỡ, từ cô gái mồ côi nghèo trở thành hoàng hậu. Đó cũng là con đường đến với hạnh phúc của các nhân vật thiện như Tấm trong truyện cổ tích châu Âu và thế giới. Điều đó một mặt phản ánh ước mơ thiện thắng ác, mặt khác còn nêu triết lí “ở hiền gặp lành”, một triết lí phổ biến trong truyện cổ tích.

2. Cuộc đấu tranh giành và giữ hạnh phúc của cô gái mồ côi

Các truyện cổ tích châu Âu cùng kiểu với truyện Tấm Cám của Việt Nam thường kết thúc khi cô gái mồ côi kết hôn với hoàng tử và hưởng hạnh phúc. Truyện Tấm Cám không chỉ dừng ở kết thúc phổ biến đó mà còn tiếp thêm một chặng nữa của cuộc đời nhân vật. Tấm trở thành hoàng hậu nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt. Cô Tấm lương thiện, hiếu thảo trèo cau hái quả cúng cha đã bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Cô Tấm hiền lành, ngây thơ vừa ngã xuống, một cô gái mạnh mẽ và quyết liệt hơn sống dậy, hoá thân trở về với cuộc đời, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Cuộc chiến đấu đó thật gian nan, quyết liệt nhưng cũng thật hấp dẫn đối với người nghe, người đọc truyện cổ tích. Bởi trong cuộc đời, những gì người mồ côi yếu thế, nhỏ nhoi không thể làm được thì cô Tấm đã thay họ thực hiện ” oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng.

Tấm thảo hiền bị dì ghẻ chặt cây sát hại mà không cam chịu chết. Cô hoá vàng anh, bay vào cung vua báo hiệu sự có mặt của mình trong lời nhắc nhở “Giặt áo chồng tao, thì giặt cho sạch, phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết. Tấm hoá cây xoan đào (khung cửi), tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ dội hơn “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khung cửi bị đốt cháy. Từ đống tro tàn chết chóc, Tấm hoá cây thị (quả thị) trở lại với đời. Trong sự hoá thân ấy có sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Phải chăng trong nhân vật Tấm đã hội tụ sự dịu dàng và tính cách bất khuất của phụ nữ Việt Nam từ xa xưa.

Tấm đã hoá thân, cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy, còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của Tấm phản ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa thiện với ác, đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu diệt của cái thiện. Phải chăng cô Tấm có thể chết đi sống lại, có thể tự mình hoá thân để trở lại với đời? Chính những người dân nhân hậu và giàu tình thương đã không nỡ để một cô gái lương thiện như Tấm phải chết oan ức trong thầm lặng. Họ đã mượn yếu tố kì ảo, thổi sức sống mãnh liệt cho nhân vật, di dưỡng sức sống tiềm tàng trong đó, vực nhân vật dậy “đi trả thù và sống tự do”. Nhân dân đã gửi gắm vào nhân vật Tấm lòng nhân đạo, tình yêu thương con người sâu sắc của mình.

Chim vàng anh, cây xoan đào (khung cửi), cây thị (quả thị) là những nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị thân thương trong cuộc sống dân dã. Đó cũng là những hình ảnh đẹp của làng quê, làm nên ấn tượng thẩm mĩ cho câu chuyện. Nếu như ở phần đầu truyện, mỗi lần Tấm khóc Bụt thường hiện lên ban tặng vật thần kì, thì ở phần sau, cuộc đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không còn thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy Tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Cũng chính nhân dân lao động, những người có thân phận như Tấm, những người thấu hiểu và cảm thương cô Tấm thiệt thòi, đã gửi vào nhân vật ấy ý thức mãnh liệt giành và giữ hạnh phúc của mình. Đằng sau câu chuyện đã gửi gắm một chân lí: Hạnh phúc chỉ bền chặt khi ta biết dũng cảm giành và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết ngồi khóc, còn Bụt làm thay tất cả, thì đến đây chim vàng anh, khung cửi, quả thị (yếu tố kì ảo) không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hoá thân, tạm ẩn mình để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.

Sau bao lần hoá thân chống lại kẻ thù, Tấm trở về với cuộc đời, với làng quê bình dị, vẫn là cô gái đảm đang khéo léo trong miếng trầu têm cánh phượng. Nhờ miếng trầu mà nhà vua nhận ra người vợ đảm của mình và đưa Tấm về cung. Miếng trầu là hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống văn hoá Việt Nam, gắn với phong tục hôn nhân người Việt “Miếng trầu nên dâu nhà người”, “Miếng trầu ăn ngọt như đường, đã ăn lấy của phải thương lấy người”…Miếng trầu mang ý nghĩa giao duyên như vậy đã có mặt trong sự hội ngộ của nhà vua và Tấm.

Nhưng sau nhiều lần chết đi sống lại trong lốt chim, cây, quả… dường như Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng nào mẹ con Cám còn hiện diện. Cô lừa Cám để nó sai người đào hố, giội nước sôi, tự tìm đến cái chết. Kết thúc đó nêu triết lí dân gian “ác giả ác báo”, phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt tận gốc kẻ thù. Cuối cùng, hạnh phúc đã trở về với Tấm như món quà tặng quý giá cho lòng chung thuỷ và sự dũng cảm của cô.

Sự hoá thân nhiều lần rồi trở về với cuộc đời của Tấm là biểu hiện sinh động của quan niệm về công bằng xã hội và hạnh phúc. Người lương thiện phải được nhận hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt, đó là quy luật của lòng nhân đạo, tình yêu thương con người. Người lao động không chờ đợi hạnh phúc đẹp và mơ hồ ở cõi nào khác, mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay trên mảnh đất mình từng gắn bó, ở nơi trần thế. Những lần hoá thân ấy của Tấm đã hàm chứa nhiều triết lí dân gian sâu sắc về hạnh phúc và đấu tranh, đúng như có nhà thơ đã viết:

Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta, Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp Rơi vào tay người đó là định luật, Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam.

Khi bàn về sự hoá thân của Tấm, có người cho đó là ảnh hưởng từ thuyết luân hồi nhà Phật (luân: vòng tròn, bánh xe; hồi: quay trở lại. Luân hồi là sự xoay vần liên tục. Một sinh vật sau khi chết sẽ chuyển sang hình hài một sinh vật khác: người, vật, cây cỏ… để trả nợ cho những gì kiếp trước mình đã phạm). Nhưng nếu có mượn thuyết luân hồi thì truyện Tấm Cám chỉ mượn hình thức để thể hiện mơ ước, tinh thần lạc quan của người lao động mà thôi. Bởi luân hồi nhà Phật là để chịu đau khổ do tội lỗi từ kiếp trước của mình, rồi sau đó tìm hạnh phúc ở cõi Niết bàn cực lạc xa xôi. Còn cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần không phải để chịu khổ đau, cũng không định tìm hạnh phúc đẹp nhưng mơ hồ ở cõi Niết bàn mà để quyết giành và giữ hạnh phúc có thực của mình ngay ở thế giới này. Đó là lòng lạc quan, yêu đời và tinh thần thực tế của người lao động khi sáng tạo truyện cổ tích.

Cuộc chiến đấu giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ gian nan, quyết liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện, của lòng nhân đạo và lạc quan theo quan niệm của nhân dân. Kết thúc có hậu trong truyện cổ tích là biểu hiện tập trung những ước mơ của tác giả dân gian. Hầu hết truyện cổ tích đều kết thúc có hậu: người nghèo sẽ giàu có, người mất vợ sẽ tìm lại được và sống hạnh phúc, người xấu xí, dị dạng trở nên xinh đẹp, người bị áp bức nhiều nhất sẽ bước lên địa vị tối cao, được làm vua hay hoàng hậu… Kết thúc đó mang đến ánh sáng và vẻ đẹp lãng mạn cho truyện cổ tích, làm cho nó có sức hấp dẫn đặc biệt đối với mọi thế hệ, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời và niềm khát khao vươn tới cái đẹp, cái thiện của nhân dân lao động Việt Nam xưa. Cô Tấm nghèo khổ, bị hành hạ, chết đi sống lại, cuối cùng đã tiêu diệt cái ác, gặp lại chồng, trở về làm hoàng hậu bên những người dân hiền lành tốt bụng. Kết thúc đó còn mang mơ ước đổi đời của những người lao động nghèo, là bức tranh về một xã hội lí tưởng có “vua hiền, tôi giỏi”. Trong xã hội mơ ước đó, người lao động hiền lành, lương thiện đã được hưởng hạnh phúc.

Cũng như nhiều truyện dân gian khác, truyện Tấm Cám có nhiều dị bản. Những bản kể ra đời ở thời trung đại đều kết thúc khi Tấm giết Cám, làm mắm gửi về cho dì ghẻ. Mụ ăn cứ tấm tắc khen ngon, đến khi ăn hết mới nhận ra đầu lâu con mình ở đáy hũ liền lăn đùng ra chết. Không ít người từng hài lòng trước sự trừng phạt ấy, bởi Tấm đã thay mặt cái thiện để tiêu diệt cái ác, thực hiện công lí mang tính nhân dân; thể hiện quan niệm và mơ ước về sự chiến thắng tuyệt đối, tự mình tiêu diệt tận gốc kẻ thù. Mẹ con Cám đã không từ thủ đoạn độc ác nào để hành hạ Tấm, từ lừa gạt đến trắng trợn bóc lột, từ lén lút giết Tấm đến công khai đốt cô thành tro bụi…Tội ác man rợ đó đáng bị trừng trị, hơn thế theo quan niệm “làm ác trả ác”, “hại nhân nhân hại” thì sự trừng phạt ấy là đích đáng. Nhưng hiện nay, tính chất thời đại đã thay đổi, hình thức trừng phạt ấy khiến cho nhiều người cảm thấy rùng rợn và ấn tượng đẹp về một cô Tấm thảo hiền, đôn hậu bị giảm đi. Vì vậy truyện cổ tích Tấm Cám lại tiếp tục số phận lịch sử của nó trên chặng đường truyền miệng, lời kể đã được thay đổi cho phù hợp với nhu cầu và quan niệm thẩm mĩ ở thời hiện đại mà nó đang lưu truyền.

Truyện Cổ Tích Cho Bé: Tấm Cám

Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ. Người chị tên là Tấm còn em là Cám. Mẹ của Tấm đã mất từ sớm, còn cha cũng qua đời sau đó mấy năm. Để lại Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám.

Bà mẹ kế vô cùng cay nghiệt và độc ác. Bà ta bắt Tấm phải làm hết những công việc nặng nhọc trong nhà. Ngược lại, Cám lại vô cùng được chiều chuộng, không phải làm bất cứ việc gì.

Một hôm, bà mẹ đưa cho hai chị em, mỗi người một cái giỏ để ra đồng xúc tép và hứa rằng: “Nếu đứa nào bắt được đầy giỏ tép thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ”. Nghe lời của mẹ, Tấm chăm chỉ siêng năng nên chẳng mấy chốc mà đã được một giỏ đầy vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, dạo hết từ ruộng nọ sang ruộng kia, hái hoa bắt bướm nên mãi mà chẳng bắt được gì.

Thấy Tấm đã bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.

Nghe Cám nói vậy, Tấm tin là thật nên liền xuống ao tắm rửa cho sạch. Nhân cơ hội đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi chạy nhanh về nhà. Khi lên bờ thấy chỉ còn lại chiếc giỏ trống trơn, Tấm ngồi xuống và bưng mặt khóc. Nghe thấy tiếng khóc của Tấm, ông Bụt hiện lên và hỏi:

– Tại sao con khóc?

Tấm đem hết sự tình kể lại cho Bụt nghe. Nghe xong, Bụt bảo rằng:

– Thôi con hãy nín đi! Bây giờ, con hãy thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm liền nhìn vào giỏ và phát hiện ra trong giỏ còn lại một con cá bống. Bụt lại cất lời tiếp:

– Con hãy đem con cá bống ấy về rồi thả nuôi trong giếng. Mỗi bữa con chừa lại một bát cơm cho bống ăn. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi thế này:

Bống bống, bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người

Nói xong thì Bụt biến mất. Thế là từ đó, nghe theo lời dặn của Bụt, Tấm thả cá bống xuống giếng và cho ăn hằng ngày. Mỗi khi nghe tiếng Tấm gọi, bống liền bơi lên mặt nước và ăn những hạt cơm của Tấm ném xuống. Chẳng mấy chốc mà bống lớn nhanh như thổi.

Ngày nào cũng thấy Tấm cứ sau bữa ăn đều mang cơm ra giếng nên mụ dì ghẻ sinh nghi nên bảo Cám đi rình. Cám sau khi nghe thấy Tấm gọi bống thì kể lại hết cho mẹ nghe. Tối hôm ấy, mụ dì ghẻ ngọt ngào bảo với Tấm rằng:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Nghe theo lời dặn, ngày hôm sau Tấm đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám đem cơm ra giếng và gọi bống lên ăn giống như Tấm gọi. Khi bống vừa ngoi lên mặt nước, mẹ con Cám liền bắt lấy bống rồi đem về nhà làm thịt.

Đến chiều sau khi dắt trâu về, Tấm ăn xong vẫn mang bát cơm để dành ra giếng nhưng gọi mãi không thấy bống ngoi lên như mọi khi. Cuối cùng, chỉ thấy cục máu nổi lên trên mặt nước. Thấy vậy, Tấm lại òa lên khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm đem sự tình kể lại. Nghe xong, Bụt bảo:

– Cá bống đã bị người ta ăn thịt mất rồi. Thôi, con đừng khóc nữa! Về nhà, con nhặt xương cá, bỏ vào bốn cái lọ rồi đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về và đi tìm xương bống theo lời Bụt. Nhưng tìm khắp các nơi mà không thấy đâu cả. Bỗng con gà ở đâu chạy ra và bảo Tấm:

– Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!

Sau khi được Tấm ném thóc cho, gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm nhặt lấy, bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường giống như lời Bụt dặn.

Không lâu sau đó, nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ, trai gái đều xúng xính quần áo mới nô nức đi xem hội. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Tấm xin được đi cùng thì mụ dì ghẻ nguýt dài rồi lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

– Khi nào nhặt được riêng gạo và thóc ra hai đấu thì mới được đi xem hội.

Nói xong, hai mẹ con Cám lên đường đi hội. Cảm thấy tủi thân, Tấm khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và hỏi:

– Làm sao con khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng và thưa với Bụt:

– Dì bắt con phải nhặt riêng thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi xem hội. Nhưng lúc con nhặt xong thì hội đã tan rồi, không còn gì mà xem nữa ạ.

Bụt nghe xong thì liền sai một đàn chim sẻ xuống sân nhặt thóc và gạo giúp Tấm, chỉ một loáng là xong. Nhưng tấm lại nức nở khóc vì không có quần áo đẹp để đi hội. Bụt lại bảo rằng:

– Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời và đào các lọ lên. Lọ thứ nhất mở ra là một bộ váy áo tuyệt đẹp, lọ thứ hai là một đôi hài thêu, lọ thứ ba là một con ngựa nhỏ xíu, nhưng khi vừa đặt xuống đất, con ngựa bỗng chốc biến thành ngựa thật. Lọ cuối cùng là một yên cương vững chắc. Tấm vui mừng không xiết, nhanh chóng thay đồ rồi lên đường vào kinh.

Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Thế nhưng, lúc đi qua một cây cầu đá, Tấm lỡ đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không làm cách nào lấy lên được.

Khi đoàn của nhà vua đi qua cầu, hai con voi dẫn đầu đoàn lại kêu rống lên và nhất quyết không chịu đi tiếp. Thấy lạ, vua bèn sai quân lính xuống dưới xem xét. Sau một hồi, họ mò được một chiếc hài thêu. Nhà vua ngắm nghía chiếc hài kĩ càng rồi hạ lệnh thông báo tất cả đàn bà con gái đi trẩy hội ướm thử, nếu ai đi vừa chiếc hài này thì vua sẽ lấy làm vợ.

Vậy là các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giày làm cho đám hội càng thêm náo nhiệt. Nhưng chẳng ai đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng qua thử nhưng không được. Thấy Tấm cũng đến, Cám nói với mẹ:

– Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử hài kìa!

Mụ dì ghẻ tỏ ý coi thường nói:

– Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!

Thế nhưng khi Tấm đặt chân vào hài thì vừa như in. Nhà vua vô cùng vui mừng và lập tức rước nàng vào cung.

Mặc dù sống trong hoàng cung rất sung sướng nhưng Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Tới ngày giỗ cha, nàng xin phép vua trở về nhà. Vốn đã đố kị với cuộc sống an nhàn của Tấm, nay thấy Tấm về thì mẹ con Cám lại bùng lên lòng ghen ghét, bày mưu giết Tấm.

Mụ dì ghẻ bảo Tấm:

– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.

Tấm vâng lời trèo lên cây cau, mụ dì ghẻ ở dưới cầm dao đốn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi :

– Dì làm gì dưới gốc thế ?

– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Cây cau đã đổ, Tấm ngã xuống ao chết. Mụ dì ghẻ cho con mình mặc quần áo của Tấm vào cung, nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Nhà vua vô cùng giận dữ nhưng không nói lời nào.

Tấm chết thì hòa thành chim Vàng Anh, bay đến vườn thượng uyển. Một lần Cám đang giặt áo cho vua, chim liền đậu trên cành cây và hót:

“Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”

Rồi chim Vàng Anh lại bay vào cung vua hót líu lo rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Đang lúc nhớ nhung Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:

– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo

Thấy thế, chim Vàng Anh bay lại rúc vào tay áo của nhà vua. Từ đó, vua chỉ mải mê yêu quý Vàng Anh, còn sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim. Cám tức tối về mách mẹ. Mụ dì ghẻ bảo Cám bắt chim làm thịt rồi lấy lý do nói dối vua. Thực hiện theo lời mẹ, Cám làm thịt chim nhân lúc vua đi vắng rồi đem lông chim chôn ở ngoài vườn.

Nơi chôn lông chim Vàng Anh lại mọc ra hai cây xoan đào, cành lá xum xuê, đẹp rợp bóng nên nhà vua sai lính mắc võng ở đó nằm chơi. Ngày nào vua cũng ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.

Cám lại về nhà mách mẹ. Mụ dì ghẻ mách nước cho Cám là chặt cây làm khung cửi. Về đến cung, trong một hôm gió bão, Cám đã sai thợ đốn cây, lấy gỗ đóng khung cửi. Khi vua hỏi thì Cám trả lời rằng:

– Cây bị đổ là do bão. Thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Thế nhưng khi Cám ngồi vào dệt thì lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi như đang rủa mình:

Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị. Chị khoét mắt ra

Cám sợ hãi, sau khi về nhà mách mẹ thì đem đốt khung cửi, đem tro đã đốt đem đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Từ đồng tro lại mọc lên một cây thị. Đến mùa ra trái, cây thị chỉ đậu được đúng một quả nhưng lại tỏa mùi hương thơm ngát. Một bà lão bán hàng nước gần đó khi đi qua ngửi thấy mùi thơm và nhìn thấy quả thị trên cành cao bèn giơ bị ra và nói lẩm bẩm:

– Thị ơi thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Khi bà lão vừa nói dứt lời thì quả thị rơi ngay xuống bị. Về nhà, bà lão cât trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía, ngửi mùi thơm. Cứ mỗi ngày khi bà lão đi chợ về thì đã thấy nhà cửa gọn gàng tinh tươm, cơm ngon canh ngọt dọn ra sẵn nên lấy làm lạ lắm. Vì thế, một hôm bà lão giả vờ đi chợ, đến nửa đường thì trở về, lén rình ở bụi cây sau nhà. Bà thấy Tấm chui ra từ quả thị, cầm chổi quét dọn nhà cửa, vo gạo thổi cơm, hái rau nấu canh. Thấy vậy bà lão mừng quá, xô cửa vào ôm lấy Tấm, xé vụn vỏ thị.

Từ đó, Tấm ở với bà lão hàng nước và giúp những việc nhà cho bà bán hàng. Trong một lần nhà vua đi vi hành liền ghé vào quán nước của bà lão. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Khi nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng, vua lại nhớ tới ngày trước vợ mình têm trầu cũng giống hệt như vậy, liền hỏi:

– Bà ơi, trầu này ai têm mà khéo vậy?

– Trầu này là do con gái bà têm – Bà lão thật thà đáp.

Nhà vua bèn ngỏ ý muốn gặp con gái bà lão. Khi Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra vợ mình ngày trước thì vui mừng lắm, nghe bà lão kể lại sự tình rồi đưa kiệu rước Tấm về trong cung.

Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa thì không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị:

– Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?

Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:

– Có muốn đẹp không để chị giúp?

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu giội nước sôi vào hố. Cám chết. Mụ dì ghẻ thấy vậy cũng lăn đùng ra chết…

Bài học rút ra từ truyện cổ tích Tấm cám

– Cái thiện luôn có một sức sống mãnh liệt, không bao giờ chịu khuất phục và đầu hàng trước cái ác.

– Xã hội luôn công bằng và công lý sẽ được thực hiện. Những người lao động chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng sẽ được hưởng hạnh phúc; kẻ tham lam, độc ác sẽ bị trừng trị. Điều này đúng với triết lý: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.