Truyện Cổ Tích Sọ Dừa Văn Học Lớp 6

Đề 2: Đóng vai bà mẹ Sọ Dừa, hãy kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa

Đề 3: Phân tích và nêu cảm nghĩ về truyện “Sọ Dừa”.

Đề 4: Cảm nhận về nhân vật Sọ Dừa qua truyện cổ tích “Sọ Dừa”mà em đã học.

Đề 5: Cảm nghĩ của em về nhân vật bà mẹ và nhân vật phú ông trong truyện cổ tích “Sọ Dừa”

Đề 1: Kể lại truyện cổ tích “Sọ dừa”.

Ngày xưa, một bà nghèo khổ vào rừng hái củi. Khát nước quá, bà thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước mưa, bà bưng lấy uống, về nhà, thụ thai, bà đẻ ra một cục thịt có mắt, có mũi, nhưng không mình mẩy tay chân. Bà buồn lắm, đặt tên là Sọ Dừa. Mấy năm sau. Sọ Dừa cũng chỉ lăn theo mẹ mà chẳng biết làm được việc gì. Mẹ già càng buồn. Bỗng một hôm Sọ Dừa thưa với mẹ muốn sang nhà phú ông đi ở chăn bò. Phú ông ngẫm nghĩ rồi ưng thuận. Sọ Dừa chăn bò giỏi lắm, con nào cũng được ăn no và béo tốt. Phú ông có ba cô con gái xinh đẹp vẫn thay nhau đem cơm nước cho Sọ Dừa. Bữa nọ, cô út vào đến bãi chăn bò bỗng nghe tiếng sáo véo von. Cô lắng tai nghe và rón rén sau một bụi cây nấp rình xem thì thấy một chàng trai tuấn tú đang ngồi trên võng đào say sưa thổi sáo. Nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm dưới gốc cây. Cô út đem lòng thương mến và hết lòng săn sóc Sọ Dừa.

Mấy tháng sau, Sọ Dừa đòi mẹ đến hỏi cô gái phú ông làm vợ. Thương con nên mẹ phải đi mà lòng băn khoăn lắm. Phú ông cười mỉa:

“Sọ Dừa muốn làm cơn rể nhà này cũng được thỏi. Hui mẹ con bà sắm đủ mười mâm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm, và… một chĩnh vàng cốm đem sang làm lễ vấn danh!”.

Ngày hôm sau, hai mẹ con Sọ Dừa mang đủ lễ vật sang. Ngạc nhiên quá, phú ông cho gọi ba cô con gái lại. Hai cô chị bĩu môi, nguýt dài. Cô út e lệ, cúi mặt tỏ ý bằng lòng. Sau ngày cưới vợ, Sọ Dừa hiện thành một thư sinh dùi mài kinh sử. Năm ấy, Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên, làm quan, được vua sai đi sứ. Trước lúc lên đường, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, hai quả trứng gà, một con dao, và dặn phải mang theo người để phòng thân. Hai chị gái đã rủ em út đi thuyền rồi bất ngờ đẩy em xuống biển cho chết đuối để chiếm chồng em! Một con cá kình nuốt chửng cô út vào bụng. Sẵn dao, cô đâm chết cá, cá nổi lên dạt vào một hải đảo. Vợ Sọ Dừa mổ bụng cá chui ra, bước lên hoang đảo. Cô đánh lửa nướng cá ăn. Hai quả trứng nở thành đôi gà rất đẹp. Một hôm gà cất tiếng gáy vang:

“O…ó…o!…Ò…ó…o…

Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về…”

Tức thì, một con thuyền cắm cờ đuôi nheo cập đảo. Quan trạng lên đảo. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Sọ Dừa mở tiệc ăn mừng đi sứ về. Bà con họ hàng kéo đến đông lắm. Có cả hai cô chị… Cuối bữa tiệc, Sọ Dừa đưa vợ ra chào hai họ, bà con anh em. Hai cô chị vội lén ra về, sau đó đi đâu không ai biết.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Ý Nghĩa, Bài Học Rút Ra Từ Truyện Treo Biển Lớp 6

Ý nghĩa – bài học từ truyện Treo Biển

Người bán cá trong truyện treo biển là hoàn toàn bình thường để giới thiệu mặt hàng kinh doanh. Tấm biển lời thông báo tạo nên sự quan tâm chú ý của người qua đường. Tấm biển “Ớ đây có bán cá tươi” được nhiều người nhận xét và truyện mang lại tiếng cười từ chi tiết đó.

Bốn người góp ý về nội dung của tấm biển. Ông thì đề nghị bỏ chữ tươi, ông thứ hai đề nghị bỏ chữ ở đây, ông thứ ba đề nghị bỏ chữ có bán, ông thứ tư đề nghị bỏ chữ cá. Điều đáng cười là ở chỗ cách bắt bẻ chữ của họ trái với chức năng của tấm biển. Họ tách từng yếu tố ra khỏi nội dung tấm biển, việc tách chữ nghĩa khiến công dụng của tấm biển sẽ mất đi. Yếu tố gây cười đó là sự góp ý vô lý, bắt bẻ chữ nghĩa không có cơ sở.

Chia bố cục:

– Phần 2: Còn lại: đóng góp về nhà hàng treo biển cũng như sự tiếp thu của nhà hàng.

Câu 1:

Phân tích nội dung tấm biển cửa hàng gồm có: “Ở đây bán cá tươi” chia ra các yếu tố gồm có:

– Ở đây: chỉ rõ địa điểm.

– Có bán: chỉ rõ cửa hàng bán.

– Cá: chỉ ra mặt hàng đang được cửa hàng bày bán.

– Tươi: chất lượng của hàng hóa, tức là còn tươi và ngon.

Câu 2

Sau khi tấm biển treo lên có một số người đóng góp ý kiến. Với bốn người góp ý về cái biển như sau:

– Người thứ nhất nói về chữ “tươi”

– Người thứ hai hướng tới chữ “ở đây”

– Người thứ ba nhằm vào chữ “có bán”

– Người thứ tư nhằm vào chữ “cá”

Câu 3

Một số chi tiết gây cười cho người đọc khiến đây là truyện cười vì:

+ Nhà hàng treo một tấm biển “ai cũng biết”

+ Khi thấy khách hàng phản hồi phần lớn chê bài thì vội vã sửa theo mỗi người mà không có chính kiến.

Câu 4 (đã có bên trên)

Vừa rồi chúng tôi đã nêu các nội dung ý nghĩa, bài học truyện Treo Biển. Đây là truyện cười trong chương trình Lớp 6. Một số thông tin trên hy vọng giúp các em hiểu bài học này hơn.

Chúc tất cả học sinh học tốt.

Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Thạch Sanh

Giới thiệu chung về truyện cổ tích Thạch Sanh

Giới thiệu chung về cổ tích Thạch Sanh

Nguồn cảm hứng toàn mạch của câu truyện cổ tích dựa vào sự ra đời của Thạch Sanh. Thạch Sanh là con một trong gia đình tiều phu tốt bụng. Từ nhỏ, chàng đã sống trong sự nghèo khổ. Nguồn thu nhập chính của gia đình là từ nghề kiếm củi. 

Nhưng xuất thân của chàng vô cùng đặc biệt. Chành chính là con của Ngọc Hoàng cho đầu thai xuống hạ giới. Mẹ chàng đã mang thai chàng trong bụng tới mấy năm mới sinh ra.

Từ bé, Thạch Sanh đã được các thiên thần dạy cho võ nghệ tinh luyện và các phép thần thông biến hoá. Điều này mang ý nghĩa tô đậm xuất thân và quá trình lớn lên kỳ lạ và đặc biệt của Thạch Sanh. Đồng thời, chi tiết đó giúp làm tăng tính hấp dẫn của mạch câu chuyện.

Truyện cổ tích Thạch Sanh mang nhiều giá trị nghệ thuật cao

Truyện cổ tích Thạch Sanh mang tính nghệ thuật cao. Kết cấu và cốt truyện logic, mạch lạc đầy tính hấp dẫn. Tình tiết truyện được sắp xếp một cách khéo léo và vô cùng hoàn chỉnh. Tác giả còn xây dựng hình tượng hai nhân vật Thạch Sanh – Lý Thông đối lập nhau hoàn toàn. Điều dó tạo nên một cốt truyện vững chắc và logic. Tất cả các chi tiết và yếu tố thần kỳ được cấu thành đều mang ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh có thẩm mỹ cao.

Ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh chủ yếu ngợi ca những chiến công rực rỡ và ca ngợi những phẩm chất đáng quý của người anh hùng dân gian. Đồng thời, câu chuyện cũng thể hiện những mơ ước cháy bỏng về sự đổi đời, thoát nghèo của người nông dân. Hiện thực hoá ước mơ cái thiện thắng cái ác, chính nghĩa ắt thắng gian tà, người tốt sẽ được đền đáp kết quả xứng đáng, hoà bình chắc chắn thắng chiến tranh, các dân tộc sống trong hòa bình sẽ luôn được yên ổn, hạnh phúc và phát triển.

Ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh

Từng chi tiết nhỏ trong câu chuyện đều góp phần mang tới ý nghĩa tốt đẹp cho câu truyện cổ tích Thạch Sanh. Mỗi ý nghĩa là bài học mà cha ông muốn gửi tới thế hệ con cháu đời sau. Chính vì thế, chúng ta phải biết trân trọng, phải cảm nhận thật sâu sắc về truyện cổ tích này. Một vài ý nghĩa có thể điểm qua như sau:

Ý nghĩa tiếng đàn trong truyện Thạch Sanh

Ý nghĩa tiếng đàn trong truyện Thạch Sanh

Âm nhạc là yếu tố luôn được cho là có phép màu thần tiên. Đây cũng là chi tiết khá phổ biến và đặc biệt trong mọi thể loại truyện cổ dân gian Việt Nam. Tiếng đàn được cất lên ở đây đại diện cho điều tốt, cái thiện kết hợp cùng với tinh thần yêu chuộng hoà bình của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Tiếng đàn như một loại vũ khí vô hình đặc biệt có khả năng cảm hoá tinh thần và thu phục kẻ thù giặc ngoại xâm. Tiếng đàn đã được xây dựng thành một chi tiết đặc biệt thần kỳ không chỉ trong truyện cổ tích Thạch Sanh mà còn ở những câu chuyện cùng thể loại khác nữa. 

Bên cạnh đó, tiếng đàn được sử dụng như một liều thuốc cứu công chúa khỏi căn bệnh nan y. Từ đó, Thạch Sanh có cơ hội được giải oan và vạch trần bộ mặt thật của Lý Thông. Điều này tượng trưng cho công lý luôn chiến thắng.

Tiếng đàn được xây dựng với vai trò quan trọng xuyên suốt mạch câu chuyện. Chúng được cảm hóa nhờ người thổi đức độ. Tình tiết tuy hư cấu nhưng lại vô cùng ý nghĩa.

Ý nghĩa niêu cơm thần trong truyện cổ tích Thạch Sanh

Ý nghĩa niêu cơm thần trong Thạch Sanh

Khi tất cả quân của 18 nước cùng với chư hầu kéo sang, Thạch Sanh đã nhanh chóng gảy đàn cho chúng nghe. Trước khi ra về, Thạch Sanh còn chiêu đãi thêm món niêu cơm thơm ngon cho bọn chúng ăn. Điểm kỳ lạ là cứ xới hết thì niêu cơm lại đầy, không có dấu hiệu vơi đi.

Hình ảnh niêu cơm thần trong câu chuyện dân gian này mang tới cho người đọc rất nhiều ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh. Mà những ý nghĩa ấy được người dân Việt dùng để ứng dụng trong cuộc sống về sau này rất nhiều.

Thay vì sử dụng vũ lực để chống vũ lực, Thạch Sanh đã dùng tới trí thông minh của mình để thu phục quân thù. Điều đó thể hiện một tư tưởng ưa chuộng hoà bình, yêu nước, nhân nghĩa của toàn thể nhân dân ta.

Qua hình ảnh chi tiết này, tác giả còn phản ánh mơ ước, mong muốn của toàn thể nhân dân ta về một cuộc sống ấm no hạnh phúc và dân giàu nước mạnh.

Ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh đầu tiên ở đây đó là đánh giặc không nhất thiết phải dùng tới vũ lực. Đôi khi, chiến thắng giặc ngoại xâm chỉ đơn giản là xuất phát từ cái tâm, bản chất lương thiện của lòng người. 

Như thế, chi tiết niêu cơm đã một phần thể hiện rõ ràng tư tưởng nhân đạo và đạo lý làm người của nhân dân ta. Điều đó góp phần tạo nên một hình tượng Thạch Sanh nghĩa hiệp, nhân từ trong mắt người đọc. Chúng cũng mang tới bài học cho đời sau về việc xử lý khôn khéo, mang lại hiệu quả cảm thụ cao.

Ý nghĩa của kết truyện cổ tích Thạch Sanh

Ý nghĩa của kết truyện cổ tích Thạch Sanh

Kết thúc truyện mang tới cho người đọc một ý nghĩa vô cùng to lớn. Cái thiện sẽ luôn thắng cái ác. Người tốt chắc chắn sẽ luôn gặp được may mắn và đền đáp thành quả một cách xứng đáng. 

Qua ý nghĩa của kết truyện cổ tích Thạch Sanh, tác giả cũng mong muốn hướng người đọc hướng thiện. Hãy sống theo lối sống có đạo đức, sống cho mình và cho cả những người xung quanh. 

Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Tấm Cám

Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ. Người chị tên là Tấm còn em là Cám. Mẹ của Tấm đã mất từ sớm, còn cha cũng qua đời sau đó mấy năm. Để lại Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám.

Bà mẹ kế vô cùng cay nghiệt và độc ác. Ngày qua ngày, bà ta bắt Tấm phải làm hết những công việc nặng nhọc trong nhà từ việc chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo, đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Ngược lại, Cám lại vô cùng được chiều chuộng, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm bất cứ việc gì.

Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng xúc tép và hứa rằng: “Nếu đứa nào bắt được đầy giỏ tép thì sẽ được thưởng một cái yếm đỏ”. Nghe lời của mẹ, Tấm chăm chỉ siêng năng nên chẳng mấy chốc mà đã được một giỏ đầy vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, dạo hết từ ruộng nọ sang ruộng kia, hái hoa bắt bướm nên mãi đến chiều mà chẳng bắt được gì.

Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.

Nghe Cám nói vậy, Tấm tin là thật nên liền xuống ao tắm rửa cho sạch. Nhân cơ hội đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi chạy nhanh về nhà. Lúc lên bờ Tấm thấy chỉ còn lại chiếc giỏ trống không, Tấm ngồi xuống và bưng mặt khóc.

Nghe thấy tiếng khóc của Tấm, ông Bụt hiện lên và hỏi:

Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi :

– Con làm sao lại khóc ?

Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Thôi con hãy nín đi ! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói :

– Chỉ còn một con cá bống.

– Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này :

Bống bống bang bang

Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy !

Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấỵ

Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ gì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.

Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt.

Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:

– Con làm sao lại khóc ?

Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm :

– Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho !

Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời bụt dặn.

Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

– Con hãy nhặt xong cho dì chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.

Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy suốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:

– Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem.

Bụt bảo:

– Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp.

– Nhưng ngộ nhỡ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.

– Con cứ bảo chúng nó thế này:

Rặt rặt (con chim sẻ ) xuống nhặt cho tao

Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết

Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo:

– Con làm sao lại khóc?

– Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.

– Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một cái áo mớ ba, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi giầy thêu. Đào lọ thứ ba thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuông đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giầy xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giầy còn lại rồi chen vào biển người.

Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ nhặt ngay được một chiếc giầy thêu của Tấm lúc nẫy đánh rơi xuống đó. Vua ngắm nghía chiếc giầy không chán mắt. Bụng bảo dạ:” Chà, một chiếc giầy thật xinh! Người đi giầy này hẳn phải là trang tuyệt sắc”.

Lập tức Vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ:

– Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giầy đấy!

Mụ dì ghẻ bĩu môi:

– Con nỡm, chuông khánh còn chẳng ăn ai nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!

Nhưng khi Tấm đặt chân vào giầy thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giầy giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.

Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:

– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.

Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi :

– Dì làm gì dưới gốc thế ?

– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.

Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim Vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó:

– Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.

Rồi chim Vàng anh bay thẳng vào cung rồi đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:

– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.

Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám.

Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn.

Thấy mất Vàng anh, vua hỏi, Cám đáp:

– Thiếp có mang, thèm ăn thịt chim, nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.

Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc vọng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.

Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:

– Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình :

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị.

Chị khoét mắt ra

Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó có một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm:

– Thị ơi thị à, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉng thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.

Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ.

Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng.

Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi :

– Trầu này ai têm?

– Trầu này con gái lão têm – bà lão đáp.

– Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt.

Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.

Cám Thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa, thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị :

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Chị làm thế nào mà đẹp thế ?

Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:

– Có muốn đẹp không để chị giúp !

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:

– Ngon ngỏn ngòn ngon ! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng.

Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì kinh hoàng lăn đùng ra chết.

XEM VIDEO TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM

BÀI VĂN PHÂN TÍCH Ý NGHĨA TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM

Dịu dàng là thế Tấm ơi

Mà sao em phải thiệt thòi, vì sao?

Phận nghèo hôm sớm dãi dầu

Hóa bao nhiêu kiếp, ngọt ngào, đa đoan.

Tấm Cám – thiên truyện cổ tích ngàn đời sau vẫn còn day dứt mãi khôn nguôi trong lòng người đọc. Là tác phẩm khác biệt nhất trong những truyện cổ tích ta đã từng gặp, hình tượng nhân vật được khắc họa thành công đến nỗi in sâu vào trí nhớ của biết bao thế hệ. Họa và nhạc, thơ và văn hội tủ trong một tác phẩm của những người dân chưa qua trường lớp đào tạo nào. Đây là tác phẩm hội tủ đầy đủ nhất những ý nghĩa nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm.

Vài nét về tác phẩm

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.

Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Tấm làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tôm tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, mụ nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Tấm đi vừa đôi hài và trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày kế giết chết. Tấm chết đi lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, cuối cùng trở lại làm người sống cùng bà hàng nước. Một hôm, vua tình cờ đi quá liền ghé vào hàng nước. Nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng liền dò hỏi bà. Cuối cùng, vua và Tấm đã được đoàn tụ.

Ý nghĩa của tác phẩm

Khắc họa những mâu thuẫn cơ bản của xã hội phong kiến

Tấm Cám đào rất sâu những mâu thuẫn tồn tại trong hiện thực, thể hiện sự trải nghiệm sâu sắc của người tác giả. Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữ mẹ ghẻ – con chồng:

Mấy đời bánh đúc có xương

Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng

Mâu thuẫn này phát triển từ thấp đến cao: ban đầu chỉ là những hơn thua về vật chất, tinh thần, sự ganh ghét mẹ ghẻ con chồng,…Khi đó, Tấm luôn là người nhường nhịn, chịu thua thiệt. Càng về sau mâu thuẫn chuyển thành sự đố kị, một mất một còn, tiêu diệt lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ. Mẹ ghẻ không có được tình yêu thương thật sự, quá ích kỉ và tính toán thiệt hơn. Điều này khiến mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng không thể giải quyết, buộc phải có một bên thua cuộc. Con riêng của chồng ngày xưa phải chịu rất nhiều khổ cực mà lại không có tiếng nói. Vì vậy tác giả mới lên tiếng mạnh mẽ bóc trần và đả kích nó.

Thứ hai là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất luôn được khắc họa trong tất cả các truyện cổ tích. Nhưng đối với Tấm Cám, mâu thuẫn này được khắc họa sâu hơn bất kì tác phẩm nào khác. Cái ác được đưa lên đỉnh điểm khiến người ta phải phẫn nộ. Cái ác liên tục bày mưu tính kế, chặn đứng con đường tiến tới hạnh phúc của Tấm. Mức độ độc ác tăng theo từng chi tiết truyện khiến người đọc phải phẫn nộ, không thể không căm phẫn.

Con đường đấu tranh giành hạnh phúc của Tấm – khi người tốt không còn phụ thuộc vào thế lực siêu nhiên mà đã biết phản kháng

Ở những tác phẩm khác, nhân vật thường giựa vào sự giúp đỡ của ông Bụt, bà tiên, hoặc thân thế khác biệt để có thể sống sót qua những thủ đoạn của phe phản diện. Nhưng với Tấm Cám, Tấm được xây dựng với tính cách mạnh mẽ, phản kháng mãnh liệt để dành bằng được hạnh phúc đáng ra thuộc về mình đã bị cướp.

Sự phản kháng này được thể hiện qua những lần hóa thân của Tấm. Lúc đầu, tấm chỉ biết khóc lóc, hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của thần linh, mâu thuẫn được giải quyết nhanh chóng. Song về sau, khi mâu thuẫn được đưa lên đỉnh điểm, tính cách của Tấm theo đó cũng trở nên mạnh mẽ theo, không còn khóc mà đã biết dùng lời nói và hành động để đe dọa mẹ con Cám:

Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra

Những hành động này rất phù hợp với quá trình phát triển trong tư tưởng đấu tranh của Tấm. Dù bị mẹ con Cám tìm mọi cách tận diệt, Tấm vẫn tái sinh dưới các dạng thức khác nhau (chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị). Càng về sau, Tấm càng đấu tranh quyết liệt để giành lại sự sống. Qua những lần biến hóa, dân gian muốn khẳng định: cái thiện không bao giờ chịu khuất phục, chính nghĩa không bao giờ đầu hàng, cái thiện sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ lẽ phải và công lí. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất làm nên chiến thắng.

Bài học về ác giả ác báo

Hai mẹ con Cám 5 lần 7 lượt tìm mọi cách hãm hại Tấm, tìm mọi cách không cho Tấm ngóc đầu lên được, giết chết Tấm chưa đủ, chúng còn tiêu diệt cả những hóa thân của Tấm, không cho Tấm trở về với thế giới con người. Nhưng điều gì đến thì nó cũng sẽ phải đến dù sớm hay muộn, hai mẹ con Cám đã bị trừng phạt thích đáng cho những gì mà họ đã gây ra.

Rất nhiều người cho rằng Tấm trả thù 2 mẹ con Cám như vậy là quá độc ác, quá khác so với hình ảnh một cô Tấm thảo hiền, yếu đuối. Nhưng kết thúc truyện như vậy mới thấy rõ giá trị nhân văn của tác phẩm, thấy rõ những triết lí mà tác giả dân gian muốn gửi gắm. Mẹ con Cám đã bao lần hãm hại Tấm, đã giết chết Tấm không biết bao nhêu lần, Tấm cần phải mạnh tay để cái ác không có cơ hội tồn tại và phát triển.

Tấm Cám xứng đáng là một trong tác phẩm hay nhất của văn học dân gian Việt Nam.

Lập Dàn Ý Kể Lại Một Truyện Đã Biết (Truyền Thuyết, Cổ Tích) Lớp 6

Lập dàn ý Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) lớp 6 Lập dàn ý Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em

Lập dàn ý Kể lại một truyện đã biết (truyền thuyết, cổ tích) bằng lời văn của em lớp 6 bao gồm các dàn ý chi tiết cho từng đề bài giúp các em học sinh củng cố kỹ năng cách làm bài kể chuyện cổ tích bằng lời văn, chuẩn bị cho bài viết văn lớp 6 số 1. Mời các em học sinh tham khảo chi tiết.

1. Truyền thuyết Thánh Giónglớp 6

I. Mở bài

“Thánh Gióng” là một truyện dân gian đáng yêu nhất (trong kho tàng văn học Việt Nam).

– Anh hùng Gióng tiêu biểu cho lòng yêu nước, quyết tâm thắng giặc ngoại xâm của nhân dân ta, đặc biệt của thỉếu niên Việt Nam.

II. Thân bài

1) Cậu bé làng Gióng ra đời

– Đời Hùng Vương thứ 6

– Cha mẹ cậu Gióng: chăm làm ăn, phúc đức, ao ước có con.

– Mẹ cậu Gióng ra đồng, đặt chân mình lên vết chân khổng lồ trên đường ướm thử, về nhà thụ thai mười hai tháng.

– Cậu bé làng Gióng ra đời: Mặt mũi khôi ngô, ba tuổi vẫn không biết đi, biết nói, biết cười.

2) Sự lớn lên kì diệu của cậu bé Gióng

– Giặc Ân, thế rất mạnh, đến xâm chiếm nước ta. Vua truyền sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.

– Cậu Gióng nói lời đầu tiên với mẹ: Mời sứ giả, lời thứ hai: tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, mũ sắt.

– Cậu Gióng lớn nhanh như thổi (ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ), cha mẹ Gióng nhờ bà con, làng xóm gom góp thóc gạo nuôi Gióng, ai cũng sẵn lòng.

3) Chàng trai làng Gióng xung trận

– Thế nước rất nguy, giặc đến chân núi Trâu, người người hoảng hốt, sứ giả đem ngựa, roi, áo giáp sắt đến cho Gióng.

– Cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ, mặc giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt: vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang.

– Tráng sĩ phi ngựa tiến thẳng tới nơi có giặc; đánh đón đầu giặc; giết hết lớp này đến lớp khác; giặc chết như rạ. Roi sắt gẫy, tráng sĩ nhổ tre cạnh đường quật vào giặc; ngựa phun lửa. Giặc tan tác.

4) Tráng sĩ Gióng bay lên trời

– Đuổi giặc đến núi Ninh Sóc, tráng sĩ cởi bỏ giáp sắt, cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.

– Nhớ ơn cứu nước, Vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà.

5) Vết tích còn lại

– Làng Gióng và đền thờ Phù Đổng Thiên Vương. Hội Gióng vào tháng tư hàng năm.

– Những bụi tre đằng ngà, bị ngựa phun lửa cháy, ngả màu vàng óng, ở huyện Gia Bình.

– Những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp; lửa do ngựa phun ra thiêu cháy một làng nay gọi là làng Cháy.

III. Kết bài

Niềm ao ước được một lần về dự hội Gióng, về thăm quê hương Phù Đổng Thiên Vương, niềm tự hào củà nhân dân nước Việt, của thiếu niên Viêt Nam.

Tham khảo chi tiết các bài văn mẫu: Văn mẫu lớp 6: Kể lại truyện Thánh Gióng bằng lời văn của em

2. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh

I. Mở bài

Giới thiệu chung về sự việc và nhân vật. Thời vua Hùng Vương thứ mười tám có con gái tên là Mị Nương, vua truyền lệnh kén rể.

II. Thân bài

Kể lại diễn biến của sự việc, theo trình tự:

– Có hai chàng trai đến cầu hôn Mị Nương: một người ở vùng núi Tản Viên, tên gọi là Sơn Tinh. Một người ở vùng biển, tên gọi là Thủy Tinh. cả hai đều tài giỏi hơn người. Vua phân vân không biết chọn ai nên ra điều kiện: ai đem lễ vật đến trước thì người đó là chồng Mị Nương.

– Sơn Tinh đến trước lấy được Mị Nương.

– Thủy Tinh đến sau không lấy được Mị Nương nên nổi giận.

– Thủy Tinh và Sơn Tinh giao chiến với nhau.

III. Kết bài

– Hằng năm, Thủy Tinh làm mưa gió đánh Sơn Tinh. Đây là chi tiết mà người xưa muốn giải thích về hiện tượng lũ lụt thường xảy ra trong năm.

Tham khảo chi tiết các bài văn mẫu: Văn mẫu lớp 6: Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em

3. Truyện cổ tích Thạch Sanh lớp 6

A. Mở bài

– Giới thiệu truyện cổ tích “Thạch Sanh”.

B. Thân bài (diễn biến sự việc)

– Mở đầu

– Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.

– Thắt nút

– Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.

– Phát triển

– Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Lý Thông cướp công.

– Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.

– Mở nút

– Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Vua tìm ra sự thật, kết tội Lý Thông.

– Kết thúc

– Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không được, kéo sang đánh …

C. Kết bài.

– Ý nghĩa câu chuyện: “Ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.

4. Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên

I. Mở bài

– Tập trung kể về nguồn gốc dân tộc và đất nước, về công cuộc dựng nước và giữ nước là truyền thuyết dân gian về thời các vua Hùng.

– Truyện “Con Rồng cháu Tiên” giới thiệu với mọi người nguồn gốc thật đẹp, thật đáng tự hào của dân tộc Việt Nam.

II. Thân bài

1) Sự xuất hiện của Thần Lạc Long Quân

– Thuở xưa đất Lạc Việt có nhiều yêu quái (Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh…) quấy nhiễu, dân lành không yên ổn làm ăn.

– Thần Lạc Long Quân nòi Rồng, thường ở dưới Thủy cung, thinh thoảng lên giúp dân trừ yêu quái, dạy dân chăn nuôi, trồng trọt và cách àn ở.

2) Cuộc gặp gỡ Rồng Tiên

– Nàng Âu Cơ dòng họ Thần Nông, đẹp tuyệt trần, từ vùng núi cao phương Bắc nghe đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, đến thăm.

– Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu nhau, kết nghĩa vợ chồng, chung sống ở cung điện Long Trang.

3) Bọc trứng kì diệu

Âu cơ có thai, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm con trai hồng hào, khôi ngô, tự lớn lên như thổi.

4) Cuộc chia tay hùng vĩ

– Lạc Long Quân ở dưới nước, Âu Cơ ở trên cạn nên không thể sống với nhau mãi, đành phải chia tay với lời hẹn: “Khi có việc phải giúp đỡ lẫn nhau”.

– Lạc Long Quân mang 50 người con xuống biển, Âu Cơ mang 50 người con lên núi, các con chia nhau cai quản các phương.

5) Vị vua Hùng đầu tiên của nước Văn Lang

– Người con cả làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Từ đấy, lệ truyền ngôi: Con trưởng thay cha, danh hiệu Hùng Vương không thay đổi.

– Triều đình có tướng văn, tướng võ. Con trai vua là quan lang con gái là mẹ nàng.

III. Kết luận

Người Việt Nam luôn tự hào là con Rồng cháu Tiên.

5. Truyện cổ tích “Cây tre trăm đốt”

1. Mở bài

– Giới thiệu câu chuyện

2. Thân bài

– Mở đầu

+ Giới thiệu anh trai cày hiền lành và lão nhà giàu tham lam, lừa lọc.

– Thắt nút:

+ Lão lừa dối “sẽ gả con gái” cho anh.

– Phát triển

+ Anh quần quật làm giàu cho lão suốt ba năm.

+ Lão nhà giàu gả con gái với diều kiện anh phải đi tìm được cây tre trăm đốt

+ Anh trai cày không tìm được nhưng nhờ có Bụt ra tay giúp đỡ, anh đã thành công và mừng rỡ gánh về.

– Mở nút: Khi thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới hiểu âm mưu thâm độc của lão nhà giàu và anh ra tay trừng phạt.

– Kết thúc: Lão nhà giàu phải gả con gái cho anh trai cày. Hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc.

3. Kết bài

– Nêu cảm nghĩ

– Rút ra bài học

Theo chúng tôi