Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Em Bé Thông Minh / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Ý Nghĩa Của Truyện Cổ Tích Em Bé Thông Minh

Phân tích ý nghĩa của truyện cổ tích Em bé thông minh – Bài viết của Trang Nhung chuyên văn Lê Hồng Phong

“Em bé thông minh” là câu chuyện về cậu bé tài trí, thông minh, từ đó tác giả muốn ca ngợi trí tuệ của con người. Em hãy phân tích ý nghĩa của truyện cổ tích Em bé thông minh.

1. Mở bài

Giới thiệu truyện Em bé thông minh: Ngay trong đời sống bình thường ông cha ta đã sáng tác ra những câu truyện cổ tích kiểu về nhân vật thông minh. Tiêu biểu đó là câu truyện “Em bé thông minh”

2. Thân bài

– Nêu ý nghĩa của truyện em bé thông minh: Qua câu truyện đã đề cao tài trí của người lao động trong cuộc sống

Phân tích truyện Em bé thông minh:

+ Giới thiệu về em bé thông minh: Nhân vật thông minh tài trí ở đây chỉ là một em bé, không có dòng dõi khoa bảng cao sang, càng không phải là một người lớn tuổi từng trải, chỉ là một em bé nhà con thợ cày khoảng 7 – 8 tuổi

+ Lần đầu đối đáp trí thông minh với ông quan: Khi được một ông quan hỏi rằng trâu cày một ngày được mấy đường, em bé thần đồng đã hỏi vặn lại

+ Hai lần vặn lại những thử thách của vua: Ngay khi vào gặp vua em còn thông minh sắc xảo, lừa vua mắc bẫy để “tương kế tựu kế”, dùng ngón võ “gậy ông đập lưng ông”

+ Lần cuối cùng giúp vua thắng quan sứ nước láng giềng: đẩy lên tình huống cao trào khi em bé thông minh giúp vua thắng được sứ thần ngoại quốc, giữ thể diện và thanh danh cho dân tộc, đất nước

3. Kết bài

Ý nghĩa của câu truyện em bé thông minh: Tuy nhiên những tài trí trong nhân vật của tác giả dân gian mang ý nghĩa thực tiễn nhiều hơn, chưa hình thành được nhân vật tài trí theo lối uyên bác, cao siêu, lỗi lạc.

Dân tộc Việt Nam ta vốn có trí thông minh vừa ứng xử nhanh, vừa đối đáp giỏi, điều này đã được ăn học ghi nhận và truyền tải lại vào trong các giai thoại đi sứ và ngay trong đời sống bình thường ông cha ta đã sáng tác ra những câu truyện cổ tích kiểu về nhân vật thông minh. Tiêu biểu đó là câu chuyện “Em bé thông minh”.

Nổi bật trong câu truyện này chính là ý nghĩa của truyện, truyện đã nêu lên một gương mặt đại diện cho tài trí của Việt Nam – một em bé thông minh thần đồng con nhà thợ cày. Qua câu truyện đã đề cao tài trí của người lao động trong cuộc sống. Nhân vật thông minh tài trí ở đây chỉ là một em bé, không có dòng dõi khoa bảng cao sang, càng không phải là một người lớn tuổi từng trải, chỉ là một em bé nhà con thợ cày khoảng 7 – 8 tuổi. Đó là một chi tiết khẳng định rằng tài trí Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, đó là trí của tác giả dân gian, của những con người lao động.

Ngay khi vào gặp vua em còn thông minh sắc xảo, lừa vua mắc bẫy để “tương kế tựu kế”, dùng ngón võ “gậy ông đập lưng ông” khiến cho đấng chí tôn cũng phải cười dàn hòa “công nhận thằng bé thông minh lỗi lạc”, tuy nhiên phải đến tình huống bắt “một con chim sẻ dọn thành ba cỗ thức ăn” thì nhà vua khi ấy mới phụ hẳn trí thông minh của em. Em xin lại vua hãy rèn từ chiếc kim đen khâu vá thành ba con dao để thịt chim sẻ, vẫn là chiêu thức “gậy ông đập lưng ông” nhưng lần này thâm thúy hơn, có chút giễu cợt. Tất cả những tình huống trước là để đẩy lên tình huống cao trào khi em bé thông minh giúp vua thắng được sứ thần ngoại quốc, giữ thể diện và thanh danh cho dân tộc, đất nước. Như vậy, qua bốn lần thử sức, là bốn tình huống thử thách, tài trí của em bé thông minh đã được bộc lộ sáng ngời. Đó chính là trí khôn mà dân gian ta đã hun đúc tạo nên một nhân vật tài trí trong truyện cổ tích. Em đã trở thành một gương mặt tài trí của Việt Nam, đề cao tài trí của người lao động trong cuộc sống.

Tuy nhiên những tài trí trong nhân vật của tác giả dân gian mang ý nghĩa thực tiễn nhiều hơn, chưa hình thành được nhân vật tài trí theo lối uyên bác, cao siêu, lỗi lạc, có những phát minh và đóng góp vĩ đại cho đất nước. Bởi do xã hội phong kiến chưa cho phép người xưa sáng tạo ra những nhân tài như thế.

Theo chúng tôi

Phân Tích Nhân Vật Cậu Bé Thông Minh Trong Truyện Cổ Tích “Em Bé Thông Minh”

Phân tích nhân vật cậu bé thông minh trong truyện cổ tích “Em bé thông minh”. ( Văn lớp 6).

Bài làm

Sự thông minh, trí khôn của con người đặc biệt là người dân lao động luôn được ông cha ta ca ngợi. Trong văn học dân gian, truyện cổ tích về nhân vật có trí khôn chiếm số lượng lớn. Cậu bé thông minh trong truyện cổ tích cùng tên đã để lại trong lòng bao đứa trẻ thế hệ Việt Nam nhiều ấn tượng sâu sắc.

Tác giả dân gian không chỉ tạo ra những chi tiết làm nổi bật sự thông minh của con người mà mỗi một câu chuyện, một chi tiết thể lại có mức độ tăng dần về độ khó và tính quan trọng của câu đố. Ở đây, các thử thách của nhà vua dành cho em bé thông minh tăng dần mức độ. Nó không còn đơn thuần là một câu hỏi, câu đố của nhà vua, mà còn là câu hỏi của xứ thần nước khác. Nếu cả một quốc gia mà không ai giải được câu đố oái oăm của nước bạn thì thật sự xấu hổ. Nhưng rồi một câu hỏi hóc búa làm quan đại thần ai cũng toát mồ hôi thì em bé thông minh lại giúp giải dễ dàng. Xứ giả nước láng giềng đố rằng làm sao luồn được sợi chỉ qua vỏ ốc xoắn. Em bé nhanh trí giải đáp bằng một bài hát đồng dao. Cách giải quyết câu đố của em bé khiến ai nấy đều nể phục:

Tang tình tang! Tang tình tang!

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,

Bèn thời lấy giấy mà bưng,

Bền thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang….

Giải được câu đố, cậu bé thông minh không những cứu cả triều đình mà còn cứu cả một đất nước. Bởi lẽ, sứ giả nước láng giềng đưa ra câu đố nhằm mục đích kiểm chứng xem nước Nam có nhân tài hay không. Cậu bé thông minh giải được câu đố một cách dễ dàng đã khiến họ từ bỏ ý định muốn xâm lược. Từ đó cậu bé đã góp sức giữ gìn nền hòa bình của đất nước.

Tóm lại qua những lần giải đố tăng dần mức độ khó, tác giả dân gian ca ngợi trí thông minh của người dân. Hình ảnh cậu bé thông minh cùng truyện cổ tích cùng tên đã trở thành biểu tượng đẹp mãi trường tồn trong trái tim mỗi con người Việt Nam bao thế hệ.

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Truyện Cổ Tích Em Bé Thông Minh

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Em bé thông minh

Bài làm

Dùng với loại cổ tích thần kì như truyện Sọ Dừa, truyện Tấm Cám, Thạch Sanh,… kho tàng truyện dân gian nước ta còn có loại cổ tích sinh hoạt, cổ tích sinh hoạt gần như không có yếu tố thần kì, được cấu tạo theo cách “xâu chuỗi” các mẩu chuyện từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, vổ cùng hấp dẫn.

Truyện Em bé thông minh là một áng cổ tích như thế. Có thế coi tác phẩm thuộc loại truyện “Trạng”. “Trạng” là người thông minh, tài trí hơn người, có khả năng ứng đáp linh hoạt, hoá giải được mọi bài toán, câu đố hiểm hóc. Truyện “Trạng” đề cao trí khôn dân gian, kinh nghiệm sống được vận dụng sáng tạo, đem lại tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên mà thâm thuý. Điều thú vị là nhân vật “Trạng” trong các truyện này nhiều người chẳng được học hành, theo đòi sách vở như các ông Tiến sĩ, Trạng nguyên mà chỉ là một anh nông dân nghèo rớt mồng tơi hoặc một em bé còn ăn bám bố mẹ. Chính em bé đó, bằng trí thông minh, tài ứng đối đã khiến mọi người sửng sốt thán phục.Em bé đó là nhân vật trung tâm của truyện Em bé thông minh. Trí khôn của em không chỉ khiến nhiều người khảm phục mà đã nhiều lần cứu nguy cho cả làng, cả nước, cho ngàn vạn người.

1. Trí khôn, mưu kế của em bé được thử thách như thế nào?

a) Em bé đã phải bốn lần đối mặt với câu đố, bốn bài toán trí tuệ hóc búa. Lần thứ nhất, em phải đáp lại câu đố của quan: “Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”.

Lần thứ hai, em phải tìm ra thâm ý của nhà vua: nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ. Lần thứ ba cũng là thâm ý, thử thách của vua: từ con chim sẻ “phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Và lần thứ tư, vừa là lời thách đố vừa trêu tức, “chơi xỏ” của sứ thần nước ngoài đối với triều đình, với toàn dân tộc ta là xâu một sợi chỉ qua ruột con ốc vặn rất dài.

Lần thứ hai, nhà vua thử thách hai bố con. Con số gấp đôi. Lần thứ ba, nhà vua thách đố cả dân làng. Số người bị lôi vào trận đấu trí tuệ tăng gấp mười, gấp trăm lần rồi! Đến lần thứ tư thì… đáng sợ quá. Sứ thần nước khác thách đố cả triều đình, gồm toàn những người quyện cao, trí sáng. Cứ mỗi lần như thế, hầu như mọi người, già trẻ, lớn bé, dân thường, vua chúa đểu… bị đẩy vào thế… bí. Dân làng thì “lo lắng, không hiểu thế là thế nào, coi dó là tai hoạ”. Vua quan thì “vò đầu suy nghĩ”, “lắc đầu bó tay”. Trong khi đó, em bé – nhân vật chính của câu chuyện – vốn bị mọi người thờ ơ, coi thường, thì vẫn bình thản như không, thậm chí “còn đùa nghịch ở sau nhà”. Dường như đối với em, mọi sự trên đời, mọi lời thách đố chẳng có gì ghê gớm, khó khăn.

Nó là cuộc đời diễn biến hằng ngày mà em từng thấy, từng chơi đùa vui vẻ, hồn nhiên như tâm hồn, trí tuệ của tuổi thơ trong sáng. Mỗi lần kể vẽ một câu đố, tác giả truyện cổ tích này không chỉ đặt ra tình huống đơn giản là sự đối đầu giữa người đố và em bé, một người đối với một người, người lớn đối với trẻ em. Không! Tình huống đố và yêu cầu giải đố mỗi lúc một tăng cao, cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ đó, ngầm một sự so sánh thú vị: lần thứ nhất so sánh em bé với người cha, lần thứ hai so sánh em với dân làng, lần thứ ba khi em bé đố lại thì là so sánh chính em với nhà vua và đến lần thứ tư, rõ ràng người kể chuyện muốn so sánh một mình em bé với cả triều đình gồm vua, quan, các ông trạng, các đại thần. Cả bốn lần, nhờ sự so sánh ấy, vị trí em bé được đề cao, trí tuệ em bé toả sáng dần. Em bé, em là… thần đồng đấy ư?

2. Vị thần đồng ấy có trí thông minh như thế nào khi giải các câu đố?

b) Kết thúc câu chuyện, em bé thông minh được, vua phong là “Trạng nguyên”, “Vua lại xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han”.

Đấy là phần thưởng đích đáng để khẳng định, tôn vinh vị thần đồng. Lời tôn vinh, sự khẳng định ấy có phải chỉ vì em bé thông minh, trí sáng hơn người? Đúng! Nhưng chưa đủ. Điểu đáng tôn vinh, đáng quý trọng nữa là mục đích, tác dụng, hiệu quả của những bài toán trí tuệ mà em bé đã giải. Trong bốn lần giải đố thì lần thứ hai và thứ tư đặc hiệt thú vị. Lần thứ hai, từ ba thúng gạo nếp vua ban và ba con trâu đực, em bé đã giúp cho dân làng biến “một tai hoạ” thành “một bữa ăn sướng miệng”. Lần thứ tư, em bé chỉ cất tiếng hát vui vẻ “tang tình tang, tính tình tang…” mà các triều thần “mừng như mở cờ trong bụng” và sứ giả nước láng giềng phải thán phục. Sau sự “thán phục” này chắc chắn viên sứ giả sẽ trở về tâu với vua nước họ phải bỏ cái ý định ngông cuồng là “lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta”. Như vậy, trí khôn của một em bé đã cứu nguy cho ngàn người, hoá giải những âm mưu đen tối. Trí khôn nói riêng, sự thông minh, tài năng sáng tạo của con người nói chung ứng dụng vào cuộc sống không phải để tỏ ra mình thông minh, hơn đời mà cần hướng vào một mục đích cao cả, để gỡ rối, cứu nguy, để đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người. Hiểu như thế, chúng ta càng thêm mến yêu em bé thông minh, coi trọng việc rèn giũa trí khôn, sự sáng tạo. Tóm lại, truyện cổ tích Em bé thông minh là loại cổ tích sinh hoạt mà nhân vật trung tâm là nhân vật người thông minh – kiểu nhân vật rất phổ biến trong kho tàng cổ tích Việt Nam và thế giới. Truyện đề cao sự thông minh và trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố, vượt những thử thách oái oăm), từ đó tạo nên tiếng cười vui vẻ, hổn nhiên trong đời sống hằng ngày. Tôn vinh trí khôn là việc nên làm, nhưng việc cần tiếp tục làm là phải biết dùng trí khôn để phục vụ cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phức cho mọi người.

Phát Biểu Cảm Nghĩ Sau Khi Đọc Truyện Cổ Tích Em Bé Thông Minh

Đề bài phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích em bé thông minh. Bài làm của một học sinh lớp 6 ở Tuyên Quang có cách cảm nhận hay và cách làm văn mạch lạc.

Mở bài: Giới thiệu về truyện cổ tích Em bé thông minh

Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam cổ rất nhiều truyện kì thú kể về những em bé tài trí, thông minh tuyệt vời. Phần lớn là những chú bé tóc còn để chỏm, cưỡi trâu chăn trâu… Thế mà đã bao phen làm cho các quan đại thần phải kinh ngạc, sứ Tàu phải “lác mắt”, nhà vua và hoàng hậu hết lời ban khen, trọng thưởng. Chú bé trong truyện “Em bé thông minh” là một trong muôn nghìn gương sáng mà dân gian quý mến, trân trọng.

Thân bài: Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện cổ tích Em bé thông minh

Trí thông minh của em bé được trổ tài trong bổn lần.

Lần thứ nhất, trước câu hỏi oái oăm của tên quan: “Trâu… cày một ngày được mấy đường?” Thì em bé đã hỏi vặn lại: “Ngựa… đi một ngày được mấy bước?”. Em đã lấy cái không xác định để giải đáp cái không xác định. Thể thức này ta thường bắt gặp trong nhiều truyện dân gian. Ví dụ hỏi: “Trên đầu có bao nhiêu sợi tóc” thì vặn lại: “Lỗ mũi có bao nhiêu sợi lông?”v.v…

Lần thứ hai, vua ban cho làng em 3 thúng gạo nếp, ba con trâu đực, hạn trong mỗi năm, trâu ấy phải đẻ thành 9 con. Thật kì quặc vì trâu đực sao đẻ được? Có loại trâu nào đẻ được 3 con trong một năm? Lệnh vua ai dám chống lại? Dí dỏm ở chỗ: Cả làng thì lo, còn em bé lại có cách xử trí rất “lạ”: Giết hai trâu, đem hai thúng gạo nếp đồ xôi, cả làng ăn… một trận cho sướng miệng; còn một thúng gạo nếp, một con trâu thì đem bán đi để hai cha con em làm lộ phí lên kinh một chuyến. Em đã tìm cách gặp được vua. Lời đối đáp của em rất thông minh. Em gặp vua và em khóc vì mẹ em đã chết mà cha em không đẻ được một em bé nào nữa. Câu hỏi ngây thơ ngộ nghĩnh của em đã làm cho ông vua phì cười cất nghĩa: “Bô mày lù giếng đực thì làm sao đề được!”. Em đã “giương bẫy” để vua mắc mưu, và em có hỏi vặn lại: “Thế sao làng chúng con lụi có lệnh trên bắt nuôi 3 con trâu đực cho đề thành 9 con để nộp đức vua?…”. Em bé rất thông minh vì đà biết sử dụng phép luận suy là lấy cái vô lí, cái phi lí để giải thích, để bác bỏ cái phi lí, cái vô lí: Đàn ông không đẻ được thì trâu đực cũng không đẻ được, đó là chuyện đương nhiên!

Vua vẫn chưa tin em bé này thông minh, nên đã sai sứ mang đến một con chìm sẻ bắt cha con em phải dọn thành 3 cỗ thức ăn. Em đã gửi sứ giả 1 chiếc kim đem về tâu với đức vua rèn cho một con dao. Trong điều kiện thủ công lạc hậu, thô sơ thì một cái kim không thể nào rèn được một con dao. Đã không có dao, hoặc chưa có dao thì chưa thể giết được sẻ để dọn cỗ cho vua. Rất dí dỏm, thú vị. Em bé thông minh lắm: Em đã lấy cúi không thể nào lùm được để giải thích sự việc không thể nào làm được! Không thể nào rèn được 1 chiếc kim thành một con dao cũng như không thể giết 1 chim sẻ dọn thành 3 cỗ thức ăn được!

Lần thứ tư em đọ trí với sứ giả một nước láng giềng “cũng như Trạng Quỳnh gặp sứ Tàu thuở nào!”. Làm sao xâu sợi chỉ luồn qua đường ruột con ốc xoắn? Trong lúc Trạng nguyên, đại thần, văn võ bá quan vô kế khả thi thì em bé ung dung, hát lên một bài vè:

“Tang tình tang! Tính tình tang!

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng,

Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang!.,”

Câu đố tưởng là hóc hiểm nhưng đối với em bé thật là dễ ợt! Em đã làm cho vị sứ giả nước láng giềng phải thán phục khi nhìn thấy con kiến càng kéo sợi chỉ qua ruột con ốc xoắn.

Sau 4 lần trổ tài, em bé đã được phong trạng nguyên, được ở gần vua để vua tiện hỏi han, nghĩa là em đã trở thành thái sư của hoàng đế! Ông nông dân có đứa con như thế mới sướng chứ!

Truyện cổ tích “Em bé thông minh” na ná một truyện Trạng Quỳnh. Truyện hàm chứa nhiều chất dí dỏm, hài hước. Một em bé 7, 8 tuổi (nghĩa còn sợ ma, nghĩa là còn…) thế mà được phong trạng nguyên, trở thành cố vân đầu triều cho hoàng đế, làm cho sứ giả nước láng giềng phải trố mắt thán phục. Cuộc sông lam lũ, nên nhân dân ta tưởng tượng ra một câu chuyện dí dỏm để mua vui, để yêu đời…

Kết bài: Bài văn phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện cổ tích Em bé thông minh

Truyện đề cao trí khôn dân gian. Em bé thông minh tiêu biểu cho trí khôn dân gian, mẫn tiệp, sắc sảo trong ứng xử. Qua truyện cổ tích này, nhân dân ta thể hiện lòng quý mến, trân trọng những con người thông minh, tài trí trong xã hội, đồng thời khẳng định: trí khôn, sự thông minh, tính sáng tạo là vô giá! Ai cũng phải rèn luyện trí thông minh.

Từ khóa tìm kiếm: Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện cổ tích em bé thông minh Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện em bé thông minh Cảm nghĩ về truyện em bé thông minh Cam nghi ve truyen em be thong minh Truyen em be thong minh Cảm nghĩ về truyện em bé thông minh ngữ văn lớp 6 Theo chúng tôi