Ý Nghĩa Hình Ảnh Kết Của Bài Thơ Đồng Chí / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Dàn Ý Cảm Nhận Về Hình Ảnh “Đầu Súng Trăng Treo” Trong Bài Thơ Đồng Chí

Đề bài: Em hãy lập dàn ý cảm nhận về hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí.

Bài làm

+ Mở bài:

– Giới thiệu qua về bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tuyệt phẩm ca ngợi hình ảnh người lính nơi chiến trường.

Trong đó, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” có sức gợi tả vô cùng độc đáo. – Nó hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp vừa mang nét oai hùng, vừa lãng mạn trữ tình.

+Thân bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

– Hình ảnh những câu thơ gợi tả lên được những gian khổ của người lính trong cuộc chiến đấu tranh giành độc lập dân tộc, đầy cam go, khốc liệt.

– Đêm giữa rừng hoang vắng, sương từ muối, buốt giá phủ trắng che hết mặt người, trong hoàn cảnh phải canh gác vất vả không được nghỉ ngơi nhưng những người lính không hề cảm thấy mệt mỏi mà vẫn có tâm, hồn vô cùng thi sĩ, khi nhìn thấy ánh trăng vô cùng huyền diệu.

– Hình ảnh những người lính trong ba câu thơ trên hiện lên rõ nét “đứng cạnh bên nhau” họ không cô đơn giữa núi rừng bao la, không hề cô đơn giữa bốn bề rộng lớn.

– Họ có những người đồng chí, đồng đội, những người anh em tuy không cùng huyết thống nhưng lại thân thiết hơn máu thịt ruột già.

– Những người lính sẵn sàng nghênh đón kẻ thù với tâm thế vô cùng chủ động, dù kẻ thù của chúng ta có là thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ hùng mạnh, vũ khí trang bị tối tân thì những người lính của chúng ta cũng không hề nao núng run sợ.

– Hình ảnh “Đầu súng” tượng trưng cho chiến tranh, bom đạn, chết chóc, hoàn toàn đối lập với “Trăng treo” một hình ảnh lãng mạn, trữ tình,mềm mại. Nhưng khi chúng được đặt bên cạnh nhau thì lại trở thành một bức tranh hoàn hảo, vô cùng tuyệt tác.

+Kết

– Tác giả Chính Hữu đã vẽ lên một bức tranh bằng thơ, vô cùng tinh tế, có sức lan tỏa vô cùng to lớn, lấy cái lãng mạn, để làm tăng sự khắc nghiệt của thực tế.

– Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay của tác giả Chính Hữu, trong đó hình ảnh thành công nhất của bài thơ chính là đã xây dựng được đó chính là hình ảnh “đầu súng trăng treo”.

Hình Ảnh Người Lính Trong Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kín &Amp; Đồng Chí

Người lính trong những thơ ca luôn là đề tài quan trọng, hình ảnh người lính trong cả bài thơ Tiểu đội xe không kính và Đồng chí đều thể hiện rất đậm nét. Em hãy nêu cảm nghĩ về hình ảnh người lính trong bài thơ Tiểu đội xe không kính trong chương trình Văn 9.

Hình ảnh người lính trong bài thơ về tiểu đội xe không kính

Trong suốt bề dày lịch sử những người lính bao giờ cũng có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, qua cả 2 tác phẩm bài thơ Tiểu đội xe không kính và Đồng chí đều là những hình ảnh rõ nét về phẩm chất của người lính, đó là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm chống Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời kỳ đánh Mỹ.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời vào năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp, người lính của “Đồng chí” lđến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó:

“Quê hương anh nựớc mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”…

Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ra đời trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, những người lính thời kì đều đã rời ghế nhà trường,tuổi đời còn trẻ:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Cả 2 bài đều có hoàn cảnh, điều kiện khác nhau dẫn đến nhận thức về chiến tranh của những người lính chống Pháp còn đơn giản như thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong “Đồng chí”, tình cảm thiêng liêng là tình đồng chí, đồng đội. Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ý chí, tinh thần yêu nước được thể hiện.

Đồng chí bài thơ nói về tình đồng chí thiêng liêng, hình ảnh giàu sức gợi “đẩu súng trăng treo”. Bài thơ “Bài thơ về tiểu dội xe không kính” xây dựng bằng bút pháp lãng mạn – hiện thực. Sự khó khăn trong chiến đấu vẫn được nhận thức rõ ràng:

“Không có kính rồi xe không có đèn,

Không có mui xe thùng xe có xước”.

Họ vẫn vượt lên mọi khó khăn thể hiện sự yêu đời, lạc quan:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”

“ừ thì gió bụi”

“ừ thì ướt áo”,…

Bài thơ “Đồng chí” nhà thơ đã tạo nên hình ảnh người lính với tình đồng đội cao quý, thiêng liêng sẵn sàng vượt qua sự khó khăn, thiếu thốn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khắc họa tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời, lạc quan và tin tưởng vào chiến thắng ngày mai.

Tuy rằng hoàn cảnh có những sự khác nhau do thời điểm cuộc chiến khác nhau, nhưng nhìn chung người lính vẫn thể hiện được tinh thần đoàn kết, lạc quan, sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng và ngày toàn thắng đó là những nét đẹp của người lính của nhân dân.

Trong thời điểm lịch sử nào đi chăng nữa những người lính cụ Hồ hiện lên gần gũi, giản dị niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm. Cả hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mang âm hưởng sử thi hào hùng của văn học nước nhà xuyên suốt thời gian kháng chiến chống Pháp và Mỹ.

Phân tích hình ảnh người lính lái xe trong Tiểu đội xe không kính

Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ Tiểu đội xe không kính là trọng tâm và xuyên suốt bài thơ. Em hãy phân tích hình tượng người lính lái xe trong bài thơ này.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ xuất sắc và tiêu biểu về những người lính thời kì kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ là hình tượng người lính quả cảm, lạc quan dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Hình ảnh những chiếc xe không kính cùng hình tượng người lính lái xe là những hình ảnh chính trong bài thơ. Hình ảnh những chiếc xe không kính góp phần tạo nội dung mới mẻ cho bài thơ qua đó ta cũng thấy được tinh thần lạc quan và quyết tâm của những người lính khi thực hiện nhiệm vụ lái xe.

Bài thơ mở đầu với những những nét khốc liệt của chiến tranh và cái nhìn hài hước:

“Không có không phải xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Những đoàn xe tiếp ứng bị tàn phá không chỉ biến dạng về hình dáng mà những tấm kính trên thân xe đều bị phá hủy “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Đối lập với những tàn phá của bom đạn đó chính là tinh thần lạc quan, kiên cường của những người lính lái xe, sự ung dung với sự quyết tâm “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” những người lính lái xe không hề hoảng sợ mà vẫn giữ vững tinh thần tuyệt vời.

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái”

Những câu thơ nhanh đều đặn, lái xe nhìn cảnh vật nhìn thấy gió, nhìn thấy con đường đến nhìn thấy cả sao trời và cánh chim… từ buồng lái đã vỡ hết kính chắn gió, gió vào xoa mắt đắng. Làn gió đã ùa vào như thể làm giảm đi vị đắng nơi khoé mắt. Mắt đắng vì thức nhiều đêm để lái xe liên tục từ đêm này sang đêm khác. Con đường cũng vì thế như chạy ngược về phía người lái và trở thành con đường chạy thẳng vào tim.

“Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mùi rồi thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Xe di chuyển mà không có kính có thể gây nhiều trở ngại cho người lính lái xe nhưng đó không thể tạo ra được những trở ngại trong tinh thần. Kẻ thù có thể tàn phá được những chiếc xe, gây trở ngại cho quân ta nhưng điều đó sẽ càng cháy lên ngọn lửa căm thù, quyết tâm của những người lính. Xe vẫn chạy vì miền Nam thân yêu bởi trong xe luôn có một trái tim.

Bài viết về những cảm nhận về hình ảnh người lính trong bài thơ Tiểu đội xe không kính hay và ý nghĩa sẽ là tư liệu cho học sinh.

Viết Đoạn Văn Cảm Nhận Ý Nghĩa 3 Dòng Thơ Cuối Của Bài Thơ Đồng Chí

Viết đoạn văn cảm nhận ý nghĩa 3 dòng thơ cuối của bài thơ “Đồng chí”

Điểm nhấn cuối cùng và ấn tượng nhất trong bài thơ Đồng chí động lại ở ba câu thơi cuối. Trong bức tranh ấy, nổi lên cảnh rừng đêm giá rét là ba hình ảnh: người lính, khẩu súng, vầng trăng. Dù hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt với “Rừng hoang sương muối” nhưng người lính vẫn “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp cho họ vượt qua sự giá rét và oai nghiêm trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bên cạnh đó, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh giữa rừng khuya mà gần gũi và thân thương như một người bạn. “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra bởi liên tưởng phong phú, sùng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ. Chính Hữu đã rất thành công khi sử dụng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi và gắn bó sâu sắc với cuộc đời người lính làm hiện rõ hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt và lý tưởng cao đẹp của họ. Giữa thiên nhiên, hoàn cảnh và lý tưởng ngỡ như đối lập mà lại rất hòa hợp. Thiên nhiên tạo nền cho lý tưởng tỏa sáng. Bởi thế, càng nhìn ngắm, càng thấy đẹp đẽ. Rừng thiêng nước độc, nghĩ đến đã thấy rùng mình nhưng lại là người bạn, là căn nhà thân thiết, cùng người lính đánh giặc. Nói như nhà thơ tố Hữu: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.

Cảm nhận ý nghĩa 3 câu thơ cuối bài thơ Đồng chí

Viết về đề tài tình cảm trong chiến tranh vốn là đề tài đước các văn nghệ sĩ hết sức quan tâm. Đóng góp vào kho tàng ấy, nhà thơ Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí” đã tái hiện lại hình ảnh người lính chống Pháp một cách chân thực, giàu tính lãng mạng. “Đồng chí” là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến. Đó là tình cảm gắn bó, sẻ chia được gửi vào 3 câu cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”.

Trong những giây phút đối mặt với kẻ thù, tình đồng chí càng trở nên cao đẹp, thiêng liêng. Điều kiện chiến đấu thử thách gian lao: “rừng hoang, sương muối” nhưng những người lính không đơn độc, không rét buốt; bên cạnh họ là tình đồng đội ấm áp: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.

Hơn lúc nào hết, người lính thấm thía tình đồng đội, cùng chia sẻ với nhau sự sống và chết. Có đồng đội, họ có tư thế chiến đấu hiên ngang, chủ động, họ biến cái không thể thành có thể, làm cho những gian lao, khó nhọc trở nên nhẹ nhàng.

Biểu tượng “Đầu súng trăng treo” là một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, đậm chất thơ. Câu thơ có sự kết hợp nhuần nhị giữa hai bút pháp nghệ hiện thực và lãng mạn. Cuộc chiến đấu gian khổ ác, liệt là hiện thực trước mắt. Còn ánh trăng bền vững trên cao là biểu tượng của ước mơ, hạnh phúc và an vui. Hình ảnh còn là sự hài hòa giữa hai tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ; giữa hai tính chất: trữ tình và chiến đấu.

Cách xây dựng những câu thơ sóng đôi biểu hiện sự gắn bó, sẻ chia những gian nan, nhọc nhằn trong cuộc sống chiến đấu chống kẻ thù chung. Ngôn từ chọn lọc, chân thực, cô đọng và hàm súc → diễn đạt một ý tưởng trọn vẹn đi dọc suốt bài thơ: Tình đồng đội đồng chí thắm thiết – điểm tựa tin cậy cho người lính những khi đối mặt với hiểm nguy – cái chết.

Chiến tranh đã đi qua nhưng những năm tháng lịch sử ấy là thời khắc không thể nào quên. Nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ “Đồng chí” đã góp thêm vào trang sử hào hùng của dân tộc một hình tượng văn học mơi: hình tượng người lính Cụ Hồ và ý nghĩa cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí. Những người lính ấy đã hi sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh vệ quốc, mãi mãi được những người đời sau ghi nhớ

“Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm nên Đất Nước”.

(Nguyễn Khoa Điềm)

Hình Ảnh Người Lính Trong Hai Tác Phẩm Đồng Chí Và Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Đề bài: Phân tích hình ảnh người lính trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Và có lẽ vì thế nên mỗi bài thơ đều mang đến sự đồng điệu giữa cảm xúc của người đọc, người nghe và tâm hồn thi sĩ của tác giả. Đặc biệt, những bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính trong hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ lại càng khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống chiến đấu gian khổ của dân tộc hơn. Tuy nhiên, hình ảnh người lính mỗi thời kì lại có những nét tương đồng và khác biệt, nên những bài thơ trong mỗi thời kì cũng khắc hoạ hình ảnh hai người lính khác nhau, mà tiêu biểu là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

Sự khác biệt đầu tiên của họ là hoàn cảnh chiến đấu và xuất thân. Những vần thơ của bài “Đồng chí” được Chính Hữu dùng ngòi bút của mình viết nên vào tháng 5.1948. Đây là những năm tháng đầu tiên giặc Pháp quay trở lại xâm lược nước ta sau cách mạng tháng 8, nên cuộc sống vô cùng khó khăn vất vả, nhất là đối với hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề ở chiến khu. Hiểu được nỗi đau của dân tộc, những người nông dân nghèo ở mọi nẻo đường đất nước đã bỏ lại sau lưng ruộng đồng, “bến nước gốc đa” để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.

Khác với Chính Hữu, Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vào tháng 5.1969. Thời gian này là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong thời khốc liệt nhất. Anh giải phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ ra đi khi vai còn vươn cánh phượng hồng, lòng còn phơi phới tuổi thanh xuân. Những anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy chẳng màng đến tương lai đang rộng mở đón chào, đôi chân họ bị níu chặt nơi mặt trận vì hai từ “yêu nước”.

Và vì hoàn cảnh, xuất thân khác nhau nên dẫn đến lí tưởng chiến đấu và ý thức giác ngộ cũng không tránh khỏi khác nhau. Trong bài “đồng chí”, nhận thức về chiến tranh của người lính còn đơn giản, chưa sâu sắc. Họ chỉ biết chiến đấu để thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, giành lại tự do, giành lại quyền làm người mà thôi. Trong tim họ, tình đồng chí đồng đội là món quà thiêng liêng, quý giá nhất mà họ nhận được trong suốt quãng thời gian dài cầm súng.

Còn trong thời chống Mĩ, khái niệm về tinh thần yêu nước, thống nhất nước nhà đã khắc sâu vào tâm trí mỗi con người nơi chiến khu. Họ hiểu được điều ấy là vì giai đoạn này, khi miền Bắc đã đi vào công cuộc xây dựng CNXH thì miền Nam lại tiếp tục chịu đựng khó khăn bởi sự xâm lược của đế quốc Mĩ. Và “thống nhất” trở thành mục tiêu quan trọng hàng đầu của dân tộc ta. Trong trái tim chảy dòng máu đỏ của người Việt Nam, những người lính Trường Sơn mang trong mình tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng giải phóng miền Nam cùng tình đồng chí đã hình thành từ thời kháng chiến chống Pháp.

Thật thiếu sót nếu như so sánh hai bài thơ mà không nói về vẻ đẹp của chúng. “Đồng chí” là hiện thân của vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sâu sắc. Tình đồng chí được thể hiện thật tự nhiên hoà huyện trong tinh thần yêu nước mãnh liệt và chia sẻ giữa những người bạn với nhau. Còn “bài thơ về tiểu đội xe không kính” là sự khắc hoạ nổi bật của nét trẻ trung, tinh thần lạc quan, dũng cảm với tinh thần yêu thần yêu nước rừng rực cháy trong tim. Khát vọng và niềm tin của họ được gửi vào những chiếc xe không kính, thứ đưa họ vượt dãy Trường Sơn thẳng tiến vì miền Nam yêu dấu.

Thế nhưng, những người lính ấy, dù trong thời kì nào thì cũng có những nỗi nhớ không nguôi về quê nhà. Sống giữa chiến trường với tình đồng chí thiêng liêng, lòng những người nông dân bỗng quặng thắt mỗi khi hình ảnh mẹ già, vợ dại, con thơ hiện về. họ cảm thấy thật xót xa khi nghĩ đến ruộng đồng bỏ không cỏ dại, gian nhà trống vắng lại càng cô đơn.

Người lính chống Mĩ lại khác, nỗi nhớ của họ là sự vấn vươn nơi mái trường, là sự nuốc tiếc những trang vở còn tinh tươm. Họ buồn vì phải khép lại ước mơ rực rỡ trên hành trình đi đến tương lai. Nhưng họ hiểu rằng trách nhiệm với quê hương vẫn còn đó, nên họ quyết tâm chiến đấu hết mình. Họ biến con đường ra trận thành ngôi nhà chung gắn kết những trái tim vì tinh thần chống giặc ngoại xâm làm một.

Bàn về nghệ thuật của hai bài thơ, ta không khó để thấy rằng chúng có nét khác biệt tương đối rõ ràng. Chính Hữu dùng bút pháp lãng mạn, xây dựng trong thơ của mình biểu tượng nên thơ của tình đồng chí: “đầu súng trăng treo”. Cảm hứng dâng trào lên rồi lại lắng đọng trong tâm hồn, hoá thành hình ảnh của chiến đấu và hoà bình, mang đến cho đời một bài thơ đầy chất trữ tình nhưng cũng không kém phần hấp dẫn. Ngược lại, Phạm Tiến Duật xây dựng hình ảnh người lính bằng những gì có thực trong cuộc sống chiến đấu gần gũi nhất: “xe không kính”. Hình ảnh thơ này thật sự quá độc đáo, khiến người đọc nhiều lần ngỡ ngàng vì sự phá cách và nét đơn giản nhưng cũng ngập tràn chất thơ của “bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

Nhưng dù khác nhau từ hoàn cảnh, xuất thân cho đến lí tưởng chiến đấu, họ vẫn cùng chung một mục tiêu duy nhất: chiến đấu vì hoà bình, độc lập, tự do của tổ quốc. Họ lấy quyết tâm làm nền tảng, tinh thần làm cơ sở để vững bước đến tương lai được dựng nên bởi tình đồng chí. Dù biết rằng trong cuộc chiến một sống một còn ấy, đã có không ít những người phải hi sinh, nhưng đó lại là động lực lớn hơn chắp cánh cho ước mơ của những người chiến sĩ bay xa, bay cao. Hình tượng người lính ở hai thời kì đều chất chứa những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ mà chúng ta cần phải trân trọng và yêu quý.

Nói tóm lại, người lính mãi mãi là biểu tượng tươi đẹp và sinh động nhất của chiến tranh, dù là thời kì chống Pháp hay chống Mĩ. Họ hiện lên quá đỗi gần gũi và thân thương, với nghĩa tình đồng đội ấm áp đã, đang và sẽ mãi mãi ấp ủ trong trái tim. Họ là những cây xương rồng rắn rỏi, cố gắng vươn lên giữa xa mạc mênh mông khô cằn. Họ là ngọn đèn thắp sáng con đường của quê hương chúng ta, đưa đất nước đi đến hoà bình và phát triển như ngày hôm nay.

Nguồn Edufly