Ý Nghĩa Của Bài Thơ Bình Ngô Đại Cáo / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Bài Viết Phân Tích “Bình Ngô Đại Cáo”

Chia sẻ cách lập dàn ý phân tích tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và bài văn mẫu hay nhất của các em học sinh giỏi năm 2019.

I. Dàn Ý Phân Tích Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo

– Giới thiệu chung về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo’ (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,…)

a. Nêu tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập

– Tiền đề chính nghĩa:

+ “Nhân nghĩa”: một phạm trù tư tưởng i của Nho giáo, chỉ mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức

+ Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” phải gắn liền với “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải “trừ bạo”

– Chân lí độc lập khách quan:

+ Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng

+ Lối so sánh các triều đại phong kiến cho thấy tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó khẳng định nền độc lập của dân tộc và thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc

+ Kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó

b. Vạch rõ tội ác của kẻ thù

– Làm sáng rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh

– Tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.

– Chính sách thuế khóa nặng nề, vô lí

– Hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên trên đất nước ta.

c. Quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta

– Hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi:

+ Đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy Lê Lợi cũng xuất thân từ nhân dân

+ Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở để đứng lên dấy binh khởi nghĩa

+ Dẫu trong hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.

– Quá trình chiến đấu của quân ta:

Nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực, thiếu thốn lương thực,…

Nghĩa quân vẫn luôn tràn đầy lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng

+ Giai đoạn phản công và giành thắng lợi:

Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,…

Tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp và cuối cùng nghĩa quân của ta đã dành thắng lợi, khiến bọn giặc phải khiếp sợ.

Khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Điều đó cho thấy tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần nhân văn của quân và dân ta.

– Giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc

– Lời tuyên bố ấy vừa thể hiện lòng tự hào dân tộc vừa cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.

Khái quát những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” và nêu cảm nhận của bản thân.

II. Bài Văn Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 2019

Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.

Lưu Công tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh

Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợn, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc

Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ,

Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợn của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.

Đen đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.

Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.

Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay.

Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.

Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.

dàn ý bình ngô đại cáo

dàn ý bài bình ngô đại cáo

phân tích bình ngô đại cáo

bình ngô đại cáo dàn ý

dàn bài bình ngô đại cáo

dàn ý bài bình ngô đại cáo

dàn ý phân tích bài thơ bình ngô đại cáo

Bình Luận Facebook

.

Tư Tưởng Nhân Nghĩa Được Thể Hiện Trong Suốt Bài Bình Ngô Đại Cáo

Đề bài: Mở đầu bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Em hãy giải thích câu trên và chứng minh rằng tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo.

Cuộc đời Nguyễn Trãi là một tấm gương sáng ngời về khí tiết thanh cao và lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Nguồn gốc sâu xa tạo nên tâm hồn lớn ấy là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa này xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của ông, từ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến đến lúc cuộc kháng chiên thắng lợi hoàn toàn, từ khi Lê Lợi dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới đến khi bốn phương biển cả thanh bình trong bài Bình Ngô đại cáo. Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi viêt:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Ta hãy tìm hiểu nội dung ý nghĩa câu trên, qua đó chứng minh rằng tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo.

Trong cuộc đời thường, nhân và nghĩa thể hiện đạo lí làm người, một tôn chỉ trong xã hội ta ngày xưa, là đạo lí của con người đối với con người, đạo lí của con người đối với cuộc đời;

Mới mong đời chị được ăn lộc trời.

Đạo lí nhân dân vẫn thường chê trách kẻ tham vàng bỏ ngãi như câu ca dao Nam Trung Bộ:

Dứt đường nhân ngãi lâu dài bỏ em.

Ở Bình Ngô đại cáo, nhân sinh mang nội dung tư tưởng sâu rộng, tích cực hơn: Nhân thể hiện bằng hành động chăm lo đời sống người dân được an vui: Nghĩa thể hiện qua hành động diệt trừ lũ bạo ngược để an dân:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nội dung câu trên có thể tóm tắt: xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa, ta nhắm mục đích yên dân, vì muốn yên dân ta phải ra tay hành động trừ bạo. Như vậy, thực hiện nhân nghĩa cốt nhằm mục đích duy nhất là đem lại hạnh phúc, an vui cho người dân. Cho nên vì thương dân (điếu) mà ta khởi binh đánh dẹp (phạt) để diệt (trừ) lũ giặc hung bạo (bạo). So với tư tưởng nhân nghĩa trong văn chương bình dân cũng như trong văn chương bác học nước ta, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo có ý nghĩa sâu sắc: Tất cả vì nhân dân, vì hạnh phúc ấm no, vì sự an cư lạc nghiệp của người dân. Tư tưởng nhân nghĩa này đã thể hiện suốt trong bài Bình Ngô đại cáo.

Thật vậy, Nguyễn Trãi đã tự hào giở lại từng trang lịch sử của dân tộc qua bài Cáo. Lịch sử từng ghi rằng những triều đại nhân nghĩa đều lấy việc yên dân làm gốc. Những kẻ tham bạo, hành động trái nhân nghĩa đều thất bại:

Lưu cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích phải tiêu vong.

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

Chúng đã gây ra quá nhiều tội ác trên đất nước ta, làm cho cuộc sống của nhân dân vô cùng cơ cực. Đó là những cảnh cực nhọc, hiểm nguy khi giặc bóc lột sức dân, vơ vét tài sản quý:

Người bị bắt xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.

Ngoài ra còn những thuế má, phu phen nặng nề:

Nặng nề những nỗi phu chúng tôi xây nhà, mai đắp đất…Nặng thuế má sạch không đầm núi.

Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo

Như vậy, còn đâu đời sống an vui hạnh phúc xưa kia, những nếp nghề truyền thống cũng không tồn tại được: tan tác cả nghề canh cửi. Quả thật tội ác của giặc Minh đã làm cho:

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nếu nhân nghĩa không chỉ là nhân tâm mà còn là thiên lí, thì quả thật nhân nghĩa đã bị bọn cuồng Minh làm bại hoại tổn thương. Cho nên:

Ai bảo thần dân chịu được?

Ta giữ đại nghĩa chí nhân, chính nghĩa tất thắng, chí nhân tất thành:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Cho nên sau bao năm nếm mật nằm gai, khắc phục gian nan, nghĩa quân phản công với khí thế sĩ khí đã hăng, quân Thanh càng mạnh, còn giặc thì Nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân.

Đợt tiến công còn tỏ rõ thế tất thắng của nghĩa quân:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Nổi gió to quét sạch lá khô,

Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ.

Trái lại, bọn giặc đã hành động trái nhân nghĩa nên lúc này hoàn toàn bại vong: Chủ tướng thất thế, Cụt đầu tướng lãnh tử vong, tự vẫn lê gối tạ tội, trói tay xin hàng, quân lính sợ bóng mà vỡ mật, xéo lên nhau để chạy thoát thân, cởi giáp ra hàng như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

Như vậy, sau mười năm nằm gai nếm mật ta đã hoàn toàn chiến thắng. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện qua lòng nhân đạo đưa đến chủ trương hoà bình, như lời của Bình Định Vương Lê Lợi:

Phục thù báo oán, đó là thường tình của người ta, không thích giết người, đó là bán tâm của kẻ nhân giả. Và người ta đã hàng mà lại giết, thì không gì không lành hơn nữa . Để hả mối giận một sớm mà mang tiếng giết hàng muôn đời, thì sao bằng để sống ức vạn người mà hết mối chiến tranh cho hậu thế, khiến sử xanh ghi chép, nghìn thuở lưu thơm, như thế chẳng phải là lớn sao?

Cho nên, ta theo đức hiếu sinh của trời: Thần vũ chăng giết hại, thể lòng trời ta mờ đường hiếu sinh.

Hơn nữa, đó cũng là nguyện vọng hoà bình của nhân dân hai nước. Bọn vua quan nhà Minh đã bắt dân lành vào lính, xua quân sang Đại Việt, quân lính đó là Những kẻ vô tội (….) đã bị các người (tướng lãnh) lừa dối. (Quân trung từ mệnh tập). Cho nên cuộc kháng chiến chống quân Minh đặt trên cơ sở nhân nghĩa để trừ bạo nhưng đồng thời cũng dựa trên cơ sở nhân nghĩa để chấm dứt chiến tranh, đặt mục đích hoà bình đó chính là tài năng, đức độ của nhà quân sự nhìn xa, trông rộng ; dập tắt chiến tranh, ngưng cuộc binh đao mới là võ (chữ võ gồm chữ chỉ là ngưng lại, ghép với chữ quan là cây giáo). Cho nên kết thúc hoàn toàn cuộc chiến, Nguyễn Trãi đã tự hào:

Chẳng những mưu kế kì diệu,

Cũng là chưa thấy xưa nay.

Bình Ngô đại cáo là một Thiên cổ hùng văn, tổng kết cả một cuộc kháng chiến thần thánh vô cùng gian lao nhưng tuyệt vời anh dũng của dân tộc ta suốt mười năm dài. Tác phẩm toát lên tư tưởng chỉ đạo làm nền gốc cho mọi chủ trương, đường lối, chiến thuật, ngoại giao, chính trị tài tình, đưa đến thắng lợi vinh quang xây dựng nền hoà bình bền vững. Đó chính là tư tưởng nhân nghĩa.

Soạn Bài Bình Ngô Đại Cáo Lớp 10

(Soạn văn ) – Anh (Chị) hãy Soạn bài Bình Ngô Đại Cáo lớp 10 . ( Bài soạn của học sinh giỏi trường THPT Phan Bội Châu).

– Tác phẩm viết bằng chữ Hán: Bình Ngô Đại Cáo, ức trai thi tập.

– Tác phẩm viết bằng chữ nôm: Quốc âm Thi tập.

– Ngoài ra còn cuối: ” Dư địa chỉ” là sách địa lí cổ.

– Để lại khối lượng lớn văn chính luận.

– Với tư tưởng chủ đạo, yêu nước, thương dân.

– Tác phẩm văn chính luận đạt tới nghệ thuật mẫu mực.

– Các tác phẩm tiêu biểu: Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập.

– Nội dung: Ghi lại chân dung Nguyễn Trãi người anh hùng vĩ đại.

. Lí tưởng cao cả: Hòa quyện nhân nghĩa, yêu nước thương dân.

. Phẩm chất, ý trí của người anh hùng.

. Sự cứng cỏi, thanh cao của người anh hùng.

– Ghi lại chân dung con người trần thế.

+ Tình yêu thiên nhiên, quê hương, gia đình, đất nước.

+ Biết đau thương trước thói đời đỏ đen.

Hoàn cảnh sáng tác: Sau khi quân ta đại thắng nhà Minh. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết đại cáo Bình Ngô.

Thể loại: Cáo, viết theo thể văn biền ngẫu.

Mặt khác lại có sự sáng tạo Nguyễn Trãi.

– Mục đích: Công bố rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngô.

– Vốn là quan niệm của đạo nho, là mối quan hệ tốt đẹp, trên cơ sở tình thương đạo lí.

+ Một mặt, kế thừa, chắt lọc từ của đạo Nho.

+ Mặt khác, đêm đến một nd mới: Nhân nghĩa không chỉ là ” yêu dân” mà còn là ” trừ bạo”.

* Khẳng định chân lí độc lộc, chủ quyền của một dân tộc.

+ Phong tục, tập quán cũng khác.

+ Triều đại từng thời: Lịch sử riêng, chế độ riêng.

+ Cách sử dụng: ” Từ trước, đã lâu, đã chia”, ” đã khác…”

Sự tồn tại, hiển nhiên, vốn có lâu đời.

+ Nghệ thuật so sánh: Cùng với DC lịch sử chặt chẽ.

TL: Nêu nguyên lí chính nghĩa ở phần mở đầu bài cáo làm cơ sở, căn cứ vững chắc triển khai toàn nội dung bài cáo.

– Tố cáo âm mưu xâm lược của kẻ thù.

+ Luận điệu: Phú Trần, giệt Hồ.

+ Thực tế: Thừa cơ gây họa, mượn gió bẻ măng.

+ Hủy hoại môi trường sống.

Nội dung: Khốn khổ, điêu linh.

– Nghệ thuật viết cáo trạng:

+ Sử dụng hình ảnh có tính hình tượng:

+ Giọng văn: Nhân dân, thống thiết, uất hận.

+ Lấy cái vô hạn để diễn tả cái vô hạn ” Độc ác thay…sạch mùi”.

– Câu hỏi tu từ: ” Ai bảo thần nhân chịu được”.

Nỗi căm hờn chất chứa nhân dân.

TL: Bản cáo trạng tội ác được xây dựng trên cơ sở nhân nghĩa và lập trường dân tộc. Vì thế lời văn đanh thép, thống thiết, hùng hồn.

* Khắc họa hình tượng chủ Tướng Lê Lợi.

– Cách xưng hô ” ta đây” khiêm nhường.

– Dựa vào thiên nhiên đánh giá.

– Xuất thân: Chốn hoang dã.

– Căm giặc nước, đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quen ăn vì giận…

– Thiếu người tài ” Tuấn kiệt…mùa thu”.

– Thiếu lương thực, lương hết mấy tuần.

– Trong khi quân địch là lúc đương mạnh.

– Cốt lõi: Sức mạnh đoàn kết.

– Đường nối chiến lược, chiến thuật, linh hoạt.

– Đề cao tư tưởng nhân nghĩa.

– Tư tưởng nhân văn tiến bộ với đương thời.

Nghệ thuật: Nhân hóa, phóng đại.

Khung cảnh chiến trường: ” Ghê gớm… phải mờ”.

– Kết quả: ” Ngày mười tám… cùng kế tự vận”.

– Phía kẻ thù: Ham sống, sợ chết, hèn nhát, thảm bại.

– Kết quả: Trí cùng lực kiệt.

– Nghệ thuật viết đoạn văn: Động từ mạnh, hình ảnh so sánh, câu văn dài ngắn.

– Đối với kẻ thù: Mở đường cứu sinh, cấp ngựa thuyền, lương thực về nước.

– Đối với quan ta: Nghỉ ngơi.

+ Muốn xác định nền thái bình vững chắc.

– Sự kết hợp sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại.

Văn Mẫu Nghị Luận Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo

– Tác giả: Nguyễn Trãi là nhà quân sự tài ba, là nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.

– Tác phẩm: “Bình Ngô Đại Cáo” tựa bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc được viết vào khoảng cuối năm 1428..

– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nho giáo: mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.

– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nguyễn Trãi:

+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”).

+ Tư tưởng mới: vì dân mà trừ bạo tàn (” trừ bạo”)

– Dẫn chứng thuyết phục: văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng, phong tục phong phú, lịch sử lâu đời.

– Thái độ của Nguyễn Trãi:

+ So sánh ngang bằng triều đại Đại Việt và Trung Hoa.

+ Gọi vua Đại Việt là ” Đế” ( vua phương Bắc trước nay chỉ gọi ta là Vương)

– Phép liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô,…

b.2. Soi chiếu lí luận vào thực tiễn

– Bóc lột nhân dân:

+ Vơ vét tài nguyên nước ta.

+ Phá hoại môi trường, tự nhiên sinh thái của ta.

b.3. Diễn biến cuộc khởi nghĩa

– Xuất thân: nông dân.

– Căn cứ khởi nghĩa: “núi Lam Sơn dấy nghĩa”

– Giai đoạn đầu:

+ Khó khăn về vật dụng quân trang cũng như lương thực thực phẩm.

+ Tính thần của quân và dân: gắng chí, quyết tâm.

– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi: biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta.

– Sự thất bại nhục nhã của giặc:

+ Cởi áo giáp xin hàng (Thượng Hoàng Thư Phúc)

– Tuyên bố đất nước hoà bình, mở ra kỉ nguyên mới.

– Hình ảnh về tương lai đất nước: ” xã tắc từ đây…vững chắc”

– Nội dung: Tác phẩm khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và thay mặt vua Lê, tuyên cáo thành lập triều đại mới.

– Nghệ thuật: thể cáo được vận dụng tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương, biện pháp liệt kê, phóng đại,…

Khẳng định giá trị của tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và tài năng của Nguyễn Trãi.

Nếu “Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì ” Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng được tôn xưng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai. Bằng ngòi bút và tư tưởng vượt trước thời đại của mình, Nguyễn Trãi đã tạo nên một thiên anh hùng ca, vừa có giá trị văn học vừa có giá trị lịch sử sâu sắc.

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba, đóng góp quan trọng cho việc thành lập nhà Lê mà ông còn là một nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông để lại tiếng thơm cho đời bởi những tư tưởng nhân nghĩa ông gửi gắm trong từng tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong số ấy là “Bình Ngô Đại Cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482, tựa một bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay vua Lê Lợi thảo bản cáo này để tuyên bố sự thắng lợi của quân và dân ta. Nhan đề tác phẩm có nghĩa là: bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô (tên gọi hàm ý khinh bỉ thay cho giặc Minh).

Trước hết, Nguyễn Trãi đặt ra tiền đề lí luận cho những lí lẽ của mình. Ông đi vào khẳng định cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Nếu trong Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí thì đến Nguyễn Trãi, ông đã tiếp thu và mở rộng phạm vi nhân nghĩa ra:

Nhân nghĩa không chỉ là việc làm cho dân hạnh phúc mà còn cả việc trừ bạo tàn, diệt những kẻ làm dân khốn đốn Đây hoàn toàn là một lời khẳng định đanh thép về bản chất của ta và địch: ta chính nghĩa, địch phi nghĩa. Qua đó còn thể hiện sự tuyên bố về quốc gia và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã tài tình nêu ra một loạt các dẫn chứng thuyết phục cho chân lí độc lập không thể chối cãi của dân tộc: có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục phong phú và lịch sử lâu đời,… Song hành với đó, các từ ” từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” góp phần củng cố thêm sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta. Bản thân Nguyễn Trãi cũng có ý thức về chủ quyền độc lập cao độ khi dùng phép so sánh ngang bằng khi so sánh triều đại Đại Việt ta và triều đại Trung Hoa. Trong khi vua phương Bắc trước nay chỉ gọi vua ta là “Vương” (chức cai quản một vùng đất nhỏ) thì Nguyễn Trãi khẳng khái gọi “Đế” (danh gọi vua của một nước). Chỉ một chữ đó thôi nhưng cũng thể hiện lòng kiêu hãnh của một nước nhỏ về diện tích lãnh thổ nhưng không hề nhỏ về lòng tự tôn dân tộc. Các danh tướng của giặc lần lượt được liệt kê chỉ thêm tô đậm lời cảnh cáo về kết cục của kẻ chống lại chân lí: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống,… Tư tưởng nhân nghĩa làm tiền đề cho lời tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia và chắc chắn rằng dòng giống con Rồng cháu Tiên sẵn sàng đánh đổi tất cả để giữ vững quyền tự do độc lập đó.

Soi chiếu lí luận vào thực tiễn, hình ảnh nhân dân ta quằn quại đau đớn dưới gót giày thống trị của giặc Minh không khỏi khiến người đời xót xa:

Nguyễn Trãi đã vạch trần sự bịp bợm, giả dối của những kẻ cướp nước với ý đồ xâm lược nước ta (“nhân”, “thừa cơ”) mà lại giao giảng những thứ đạo lí lừa đời. Chúng bóc lột nhân dân ta đến kiệt cùng: tàn sát người vô tội, vơ vét tài nguyên, phá hoại môi trường,… Một sự hủy diệt tàn bạo khiến trời đất cũng phải căm phẫn. Hình ảnh phóng đại ” Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội nước Đông Hải ko rửa hết mùi” với sự ví von tội ác của giặc trước sự vô cùng vô tận của tự nhiên thêm phần khẳng định tội ác không thể nào gột rửa của kẻ thù. Dường như trong lồng ngực chúng không còn là trái tim, là dòng máu của một con người mà là khối sắt không có cảm giác. Chúng như những con quỷ khát máu lúc nào cũng nhe nanh đi đòi mạng những người dân lành. Câu hỏi tu từ mở ra cũng là lúc thái độ nhân dân phẫn uất đến cùng cực:

Vũ trụ ngàn năm còn chẳng xuôi lòng trước bàn tay độc ác của quân thù nữa là người dân!

Như một kết quả tất yếu khi nước tràn li, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã nổ ra, đòi lại hòa bình cho đất nước. Mở đầu là hình tượng vị anh hùng Lê Lợi ”

Xuất thân từ nông dân, mang theo lòng căm thù giặc sâu sắc, con người tài trí hết mực ấy một lòng thực hiện lí tưởng cao cả. Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc nước nhà không thành. Những câu văn khắc sâu thêm ý chí, lòng quyết tâm vì đại nghĩa của một vị chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc. Giai đoạn phản công và giành thắng lợi được tác giả sử dụng phép liệt kê nhằm nhấn mạnh thêm không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta. Đối lập với chiến thắng tất yếu ấy là sự thất bại nhục nhã ê chề của giặc:

Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch tiến quân ra Bắc. Giặc thì huy động tổng lực cố thủ, ta thì hừng hực quyết thắng. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:

Nghệ thuật phóng đại (“thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”) khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến cũng như sự bại vong của giặc Minh. Với tấm lòng nhân nghĩa nghìn đời, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn” thì quân và dân ta chọn cách ứng xử nhân đạo với những kẻ cướp nước bại trận:

Ta không cần phải đuổi cùng giết tận, Nguyễn Trãi thực sự thanh cao khi biết việc bây giờ không phải khiến mất thêm bất kì sinh mạng nào mà cần tập trung lo cho binh sĩ, lo cho nhân dân sau những ngày binh đao dồn dập.

Niềm tin của nhân dân sau những ngày đại thắng thêm vững mạnh. Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê, tuyên cáo với toàn thiên hạ rằng đất nước đã hoà bình, mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc – kỉ nguyên độc lập, tự do:

Giọng điệu vô cùng hào sảng, hình ảnh về tương lai đất nước chưa bao giờ ngời sáng hơn thế. Vua dân chung một lòng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước. Vậy là trên mọi miền quê, dưới mỗi mái nhà, độc lập, tự do và sự yên bình đã thực sự trở lại. Cuối cùng, Nguyễn Trãi không quên nhắn gửi lời biết ơn chân thành tới ông cha ta:

Thật vậy, “”Bình Ngô Đại Cáo” là một áng văn chương hùng tráng, với hơi văn cuồn cuộn.” Tác phẩm ngùn ngụt chí khí khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và lời tuyên bố thành lập triều đại mới. Lòng yêu nước, chiến thuật quân sự đúng đắn đã khiến quân thù phải khiếp sợ mà lui. Nguyễn Trãi bằng ngòi bút điêu luyện của mình, đã vận dụng tài tình thể cáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương. Biện pháp liệt kê, phóng đại cũng được đan xen triệt để, tạo nên những hiệu quả nghệ thuật thật tuyệt vời.

“Bình Ngô Đại Cáo” thực sự là một áng thiên cổ hùng văn. Qua đó, Nguyễn Trãi thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền độc lập dân tộc, khẳng định truyền thống yêu nước ngàn đời. Khí thế ấy còn vang vọng trong bài ngâm bên sông như Nguyệt hôm nào:

(Nam quốc sơn hà)

Bình Luận Facebook

.