BÀI LÀM
TIỂU DẪN
Những nét chính về tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 – 1585) quê ở Hải Phòng.
Ông làm quan dưới triều Mạc.
Ông cáo quan về quê, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông mở trường dạy học.
Mặc dù về ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm vân tham vấn cho triều đình nhà Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình quốc công nên có tên gọi là Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc.
Ông để lại tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập (Khoảng 700 bài) và tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi (Khoảng 170 bài).
Những nét chính về tác phẩm
– Nhàn là bài thơ Nôm trong Bạch Vân quốc ngữ thi.
– Nhan đề bài thơ do người đời sau đặt.
– Nội dung bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi.
ĐỌC HIỀU VĂN BẢN
Câu 1.
Hai Câu thơ đầu:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Cách dùng ố từ “một” và các danh từ trong câu thơ thứ nhất cho thấy sự giản dị trong lối sống của nhà thơ. Ông chỉ cần chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc cần câu để câu cá theo thú vui của mình.
Nhịp điệu câu thơ chậm rãi nhưng vẫn thể hiện thấp thoáng niềm vui, cùng sự ung dung tự tại của một con người đang rất bình tâm, bình thản.
Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh sống của tác giả rất bình dị, đơn sơ. Tuy không giàu có nhưng tâm trạng ông luôn mãn nguyện, vui vẻ và hòa đồng với thiên nhiên, với tất cả mọi người xung quanh.
Câu 2.
Nơi “vắng vẻ” mà tác giả để cập đến ở đây chính là chốn bình yên, thanh bình như quê hương nơi ông đang ở. Về nghĩa bóng, nơi “vắng vẻ” còn là nơi mà không có sự ganh đua, bon chen về danh lợi, về lợi lộc.
Ngược lại, chốn “lao xao” trong ý niệm của tác giả chính là chốn quan trường, nơi mà ngày ngày người ta phải sống bon chen, phải lừa lọc, phải đấu đá lẫn nhau.
Tác giả tự nhận mình là người “dại” khi tìm nơi “vắng vẻ” để sống. Vì nơi này không có lương bổng, cũng không có kẻ hầu người hạ, chỉ hoàn toàn là cuộc sống bình dị đơn sơ như bao người dân thường khác. Còn kẻ “khôn” tìm đến chốn quan trường, chốn “lao xao” để sống với những đấu đá, những bon chen của lề luật, của quan chức, của lợi danh.
” Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao “
Sự đối lập trong hai câu thơ giữa “dại” và “khôn”, giữa “vắng vẻ” và “lao xao” đã góp phần thể hiện quan điểm và triết lý sống rất rõ ràng của tác giả. Ông không ham mê danh lợi hay tiền tài, mà chỉ cần một cuộc sống an yên, tự tại.
Câu 3.
Các sản vật và khung cảnh trong hai câu thơ 5,6 :
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
Những sản vật trong câu thơ hoàn toàn từ thiên nhiên : măng trúc, giá.
Nếp sống sinh hoạt cũng thuận theo tự nhiên : Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Chỉ hai câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã trưng bày nếp sống của mình trong cả bốn mùa. Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, đạm bạc mà thanh cao.
Giá trị nghệ thuật của hai câu thơ : Nhịp điệu câu thơ vẫn nhẹ nhàng, chậm rãi như một tiếng đàn du dương về cuộc sống bình dị và êm đềm.
Câu 4.
Hai câu thơ cuối :
“Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hai câu thơ có ý dẫn điển Thuần Vu Phần uống rượu say nàm ngủ gưới gốc cây hòe, rồi mơ thấy mình ở nước Hèo an, được công danh phú quý rất mực vinh hiển. Sau bừng mắt tỉnh dậy thì hóa ra đó là giấc mộng, thấy dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Từ đó điển này có ý : phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.
Nguyễn Bỉnh Khiêm cố ý nhắc đến câu chuyện trên để ý nói đến cuộc sống hiện tại của mình. Ông không mong chi cuộc sống giàu sang phú quý, cũng chẳng mong làm quan chốn quan trường chật chội nhiều xô bồ lẫn lộn. Ông chỉ cần một cuộc sống thanh bình, giản dị và đơn sơ.
Tuy nhiên, bất cứ lúc nào có thể giúp được triều đình việc gì, ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn.
Câu thơ thể hiện ông không những là người có học thức uyên thâm, thấu hiểu cuộc sống chốn quan trường, mà còn là người có tâm hồn thanh cao, trong sáng và đáng kính.
Câu 5.
Quan niệm sống Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là :
– Không vất vả, cực nhọc
– Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân
– Xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao.
– Hòa hợp với tự nhiên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một người có học thức, có cốt cách thanh cao. Ông sống nhàn không phải vì sợ vất vả, cực nhọc, cũng không phải để tránh những phiền lụy đến bản thân mình. Bởi ông vẫn luôn sẵn sàng tham vấn cho triều đình mỗi khi vua cần. Hơn nữa, sống ở quê, ông vẫn mở lớp dạy học với mục đích đào tạo nhân tài cho đất nước, truyền đạt cái hay cái đẹp cho học trò. Đó là một cuộc sống rất bình dị mà thanh cao, rất đáng trân trọng.
Ông sống hòa hợp với thiên nhiên, tự thân vận động nuôi dưỡng bản thân mình với những món ăn giản dị từ thiên nhiên như măng trúc, như giá. Ông lấy đó là niềm vui cho cuộc sống chứ không phải sự thiếu thốn hay cực nhọc.
Ông về quê sống là vì không được vua chấp thuận đề nghị chém đầu mười tám lộng thần. Nhưng khi về quê, ông vẫn luôn hướng lòng mình đến triều đình.
Tất cả những quan niệm và cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện trong bài thơ cho thấy ông là một người có cốt cách thanh cao, trong sạch, liêm khiết và yêu nước, thương dân.