Ý Nghĩa Bài Thơ Cảnh Khuya Và Rằm Tháng Giêng / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài Cảnh Khuya Và Rằm Tháng Giêng

I.Đọc – hiểu văn bản

Câu 1. Hai bài “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” được làm theo thể thơ nào? Đặc điểm của nó?

-Hai bài thơ Cảnh khuya và rằm tháng giêng đều được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt.

-Đặc điểm:

+ Số chữ: Mỗi dòng thơ có 7 chữ (thất ngôn)

+ Số dòng: Mỗi bài có 4 dòng thơ (tứ tuyệt)

+ Hiệp vần: Chữ cuối cùng của các dòng 1 – 2 – 4.

Cảnh khuya: xa – hoa – nhà.

Rằm tháng giêng: viên – thiên – thuyền.

-Ngắt nhịp:

Cảnh khuya: Câu 1. ¾; Câu 2 + 3: 4/3; Câu 4. 2/5.

Rằm tháng giêng: Toàn bài 4/3.

Câu 2. Phân tích hai câu thơ đầu của bài thơ Cảnh khuya chú ý âm thanh và cách so sánh.

-Hai câu đầu của bài thơ thiên về tả cảnh – cảnh ở đây rất đẹp vừa có suối, có trăng, có hoa chốn non xanh nước biếc hữu tình.

-“Tiếng suối trong như tiếng hát xa” – Cảnh được bắt đầu từ âm thanh của suối – tiếng suối êm dịu từ xa vọng lại mơ hồ hư thực – vừa thể hiện sự tĩnh mịch của cảnh.

Câu 3. Hai câu cuối của bài Cảnh khuya thể hiện tâm trạng gì của tác giả? Trong hai câu thơ ấy có từ nào được lặp lại và điều đó có tác dụng như thế nào?

-Câu thơ mở ra hai thế giới tâm trạng của nhân vật, hai khía cạnh của một tâm hồn.

-Tác dụng sự lặp lại của từ chưa ngủ.

Câu 4. Hãy nhận xét về hình ảnh không gian và cách miêu tả không gian trong bài “Rằm tháng giêng”. Câu thứ hai có gì đặc biệt về từ ngữ và đã gợi ra vẻ đẹp của không gian đêm rằm tháng giêng như thế nào?

-Nhận xét về không gian miêu tả trong bài thơ:

+ Rộng bao la: bởi sự mở ra đến vô biên của dòng sông và bầu trời. Tràn ngập ánh trăng, trời trăng, sông trăng và con thuyền chơ đầy trăng.

+ Tràn ngập ánh trăng:

Tiêu đề của bài thơ đã thể hiện ý nghĩa đó, đây là ngày trăng đẹp nhất “Nguyệt chính viên”: “trăng ngày rằm”, hơn nữa đây là mùa trăng đầu tiên của năm, bao sự tinh khôi, mới mẻ, linh thiêng trong “rằm tháng giêng”.

+ Tràn đầy sức xuân: sông xuân, nước xuân, trời xuân, vạn vật căng nồng sự sống.

-Cách miêu tả:

+ Không miêu tả cụ thể chi tiết.

+ Chú ý sự khái quát của toàn cảnh và sự hài hòa giữa các cảnh vật.

-Nét đặc biệt về từ ngữ của câu thơ thứ hai:

+ Ba chữ xuân nối tiếp nhau: xuân giang, xuân thủy, xuân thiên.

+ Ý nghĩa: thể hiện sự tràn đầy của sức xuân và sắc xuân, tạo cảm giác sức sống ấy đang ùn ùn trỗi dậy, đây là một mùa xuân đang ở trong trạng thái chuyển động lớn dần, lớn dần lên.

Câu 5. Bài Nguyên tiêu gợi cho em nhớ tới những từ thơ, câu thơ và hình ảnh nào trong thơ cổ Trung Quốc có trong Ngữ văn 7, tập 1?

-Bài Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh gợi cho em nhớ đến bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế.

Phiên âm:

“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong như hỏa đối sầu miên.

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”.

Dịch thơ:

“Trăng tà chiếu qua kêu sương

Lửa chào cây bến, sầu vương giấc hồ.

Thuyền ai đậu bế Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn”.

-Đặc biệt là câu: Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền gần giống với câu: Dạ bá quy lai nguyệt mãn thuyền.

Giống nhau: Cả hai câu thơ đều diễn tả cảnh khuya tĩnh mịch thanh vắng, đều có hình ảnh con thuyền và dòng sông.

Khác nhau:

+ Con thuyền của Trương Kế dừng bến tĩnh tại, chìm khuất như thoát tục ẩn dật, gợi sự u uẩn.

+ Con thuyền của Hồ Chí Minh con thuyền của Cách mạng, con thuyền chở người lo đời, lo nước, phơi phới niềm tin.

Câu 6. Cảnh khuya và Rằm tháng giêng được viết trong những năm đầu khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hai bài thơ đó đã biểu hiện tâm hồn và phong thái của Bác Hồ như thế nào trong hoàn cảnh ấy?

Mặc dù ra đời trong hoàn cảnh hết sức khó khăn của đất nước, vận mệnh dân tộc đang nghìn cân treo sợi tóc, nhưng hai bài thơ vẫn thể hiện được phong thái ung dung, tình thần lạc quan của Bác, cụ thể là:

-Tâm hồn chan hòa thiên nhiên, say đắm thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh.

-Hình ảnh trong hai bài thơ mang đậm vẻ đẹp cổ điển, những hình ảnh quen thuộc của thơ ca cổ phương Đông: con thuyền, dòng sông, ánh trăng, giọng thơ khỏe khoắn, trẻ trung.

-Cả hai bài thơ đều thể hiện vẻ đẹp ung dung tự tại của người chiến sĩ Cách mạng, đêm ngày lo vận nước.

Câu 7. Hai bài thơ đều miêu tả cảnh trăng ở chiến khu Việt Bắc. Em hãy nhận xét cảnh trăng ở mỗi bài có nét đẹp riêng như thế nào?

Cả hai bài thơ đều đẹp như những bức tranh, nhưng mỗi bài thơ thể hiện một vẻ đẹp khác nhau.

-Cảnh khuya là cảnh trăng ngàn gió núi, trăng giữa rừng khuya, một cảnh trăng lung linh huyền ảo quấn quýt hòa quyện.

-Rằm tháng giêng là cảnh trăng trên dòng sông, một khung cảnh bao la bát ngát tràn đầy sức xuân.

II.Luyện tập.

Câu 2. Tìm đọc và chép một số bài thơ, câu thơ của Bác Hồ viết về cảnh trăng hoặc cảnh thiên nhiên.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

(Chiều tối – Nhật kí trong tù)

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

(Ngắm trăng – Nhật kí trong tù)

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”.

Bài Soạn Lớp 7: Cảnh Khuya Và Rằm Tháng Giêng

Tác giả:

Hồ Chí Minh ( 1890 – 1969 ), quê ở Làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Bác là vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, một nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước, một chiến sĩ cộng sản quốc tế, một Danh nhân văn hóa thế giới.

Tác phẩm:

Hoàn cảnh sáng tác : Hai bài thơ được Bác viết ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1946 – 1954 ).

Cảnh khuya (1947)

Rằm tháng giêng (1948)

Thể thơ: Thơ thất ngôn tứ tuyệt ( bài Rằm tháng giêng dịch theo thể lục bát ).

Trả lời:

Hai bài thơ Cảnh khuya và rằm tháng giêng đều được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt.

Đặc điểm:

Số chữ: Mỗi dòng thơ có 7 chữ (thất ngôn)

Số dòng: Mỗi bài có 4 dòng thơ (tứ tuyệt)

Hiệp vần: Chữ cuối cùng của các dòng 1 – 2 – 4.

Cảnh khuya: xa – hoa – nhà.

Rằm tháng giêng: viên – thiên – thuyền.

Ngắt nhịp:

Cảnh khuya: Câu 1. 3/4; Câu 2 + 3: 4/3; Câu 4. 2/5.

Rằm tháng giêng: Toàn bài 4/3.

Trả lời:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.

Giữa đêm rừng Việt Bắc thanh vắng, tiếng suối ở đâu róc rách, rì rào… Lúc ấy, tiếng suối ngân vang trong trẻo như chiếm lĩnh cả không gian rừng khuya yên vắng. Hai thanh trắc (tiếng suối) đến hai thanh bằng (trong thơ) rồi lại tiếp tục như vậy (tiếng hát), câu thơ đầu trong “Cảnh khuya” dường như mang cả âm thanh bổng trầm của tiếng suối chảy. Tiếng suối trong đêm ấy là Bác liên tưởng mới lạ của Bác liên tưởng đến âm thanh gì? Đó chẳng phải là cung đàn đơn lẻ, mà đối với Bác, âm thanh trong ngần ấy như “tiếng hát xa”. Lạ lùng làm sao, nhưng chính liên tưởng mới lạ của Bác đã giúp ta hiểu được rằng dù Việt Bắc có gian lao đến đâu, những tiếng suối – tiếng hát của rừng núi của các chiến sĩ đồng bào luôn vang xa trong đêm vắng, trong trẻo lạc quan… Âm thanh trong thơ Bác không lẻ loi như tiếng đàn cầm trong thơ Nguyễn Trãi mà vang lên như có sức sống, đầy vui tươi. Trong tiếng vang róc rách, thiên nhiên như phô bày hết vẻ đẹp trong sáng của mình: “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Hình ảnh “Trăng lồng cổ thụ” mang nét truyền thống của thơ cổ, khi kết hợp với hoa, hình ảnh ấy đã tạo nên vẻ đẹp đầm ấm, quấn quýt của thiên nhiên. Hai từ “lồng” liên kết ba sự vật xa nhau, khác hẳn nhau nhưng không tại tương phản mà dường như chúng hòa quyện lại, vẻ đẹp tôn nét đẹp kia vẽ nên một bức tranh trong sáng. Đọc câu thơ, ta có cảm giác như đang lạc vào chốn tiên, tận hưởng những đường nét, ánh sáng diệu kì mà thiên nhiên Việt Bắc vẽ nên, và ta còn có cảm giác tiếng suối cũng bay bổng, quấn quýt với hình ảnh “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Cảnh vật trong thơ Bác sao mà thân thiết với nhau đến thế! Mỗi nét đều nâng vẻ đẹp của nét khác nên, cái tĩnh hòa vào cái động, cái động làm nổi bật cái tĩnh, mảng sáng chén mảng tối tạo thành một tổng thể hoàn hảo lạ lùng.. Đâu phải ai cũng nhìn thấy điều ấy. Bác đã nghe và ngắm cảnh vật Việc Bắc trong đêm khuya bởi Bác thức cùng Việt Bắc.

Hai câu cuối của bài “Cảnh khuya” thể hiện tâm trạng gì của tác giả? Trong hai câu thơ ấy có từ nào được lặp và điều đó có tác dụng như thế nào?

Trả lời:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Hai câu cuối của bài “Cảnh khuya” thể hiện tâm hồn chiến sĩ – nghệ sĩ của Bác. Bác chưa ngủ vì rung động, say mê trước cảnh đẹp của trăng rừng và lo nghĩ đến vận mệnh của đất nước.

Hai chữ “chưa ngủ” được điệp lại hai lần, nó không chỉ sơ kết ba dòng thơ, biểu hiện tấm lòng nhà thơ với cảnh đẹp mà còn mớ ra một cung bậc cảm xúc mới nữa. Chưa ngủ được điệp lại và dẫn dắt theo một dòng thơ, dòng tình cảm bất ngờ, khơi sâu cảm xúc cả bài thơ: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Điệp từ chưa ngủ như cái bản lề khép mở hai phía tâm trạng của một con người: càng say mê, yêu mến cảnh Việt Bắc bao nhiêu thì Người càng thao thức nghĩ suy, lo lắng vé sự nghiệp kháng chiến, vé việc nước, việc dân bấy nhiêu. Hai nét tâm trạng ấy thống nhất trong Bác, thể hiện sự hài hoà phong thái thi sĩ và cốt cách chiến sĩ của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh.

Hãy nhận xét về hình ảnh không gian và cách miêu tả không gian trong bài “Rằm tháng giêng”. Câu thứ hai có gì đặc biệt về từ ngữ và đã gợi ra vẻ đẹp của không gian đêm rằm tháng giêng như thế nào?

Trả lời:

Không gian được miêu tả trong bài Rằm tháng riêng là một không gian rộng lớn của trời mây sông nước. Bầu trời, mặt nước, dòng sông như nối liền, trải rộng bởi sắc xuân bát ngát.

Cả dòng thơ thứ hai tràn ngập sức sống mùa xuân, câu thơ mở rộng ở cả hai chiều, chiều rộng xuân giang, chiều cao xuân thiên, khiến cho khung cảnh càng trở nên rộng rãi, khoáng đạt hơn. Đồng thời sử dụng liên tiếp ba chữ xuân cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi. Bác như một tao nhân mặc khách, ung dung thưởng tức không khí xuân nhẹ nhàng, yên bình.

Bài “Nguyên tiêu” gợi cho em nhớ tới những từ thơ, câu thơ và hình ảnh nào trong thơ cổ Trung Quốc có trong Ngữ văn 7, tập một?

Trả lời:

Bài Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh gợi em nhớ đến bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế.

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong như hỏa đối sầu miên

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Trăng tà chiếu qua kêu sương

Lửa chào cây bến, sầu vương giấc hồ.

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.

Câu cuối của bài Nguyên tiêu và câu thơ cuối của Trương Kế đều nói về lúc đêm khuya (dạ bán) và đều nói về hình ảnh con thuyền trên sông nước. Tuy vậy, điểm khác là ở chỗ, một bên “người khách” đến thăm tác giả là tiếng chuông chùa (Hàn Sơn), còn bên kia “người khách” ấy chính là trăng xuân chứa chan bát ngát, đượm tình.

“Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” được viết trong những năm đầu khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hai bài thơ đó đã biểu hiện tâm hồn và phong thái của Bác Hồ như thế nào trong hoàn cảnh ấy?

Trả lời:

Bác Hồ có thư thái ung dung và lạc quan để sáng tác cho ra đời hai bài thơ này.

Điều này thể hiện cụ thể ở chỗ:

Những rung động tinh tế và dồi dào của một tâm hồn nghệ sỹ trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, đã sáng tạo nên những bức tranh đẹp về cảnh trăng ở chiến khu Việt Bắc.

Tâm trạng của tác giả trong bài Cảnh khuya : mặc dù lo nghĩ việc nước đến tận canh khuya nhưng vẫn không quên cảm nhận vẻ đẹp kỳ thú của cảnh trăng rừng, của tiếng suối trong.

Cảnh con thuyền của vị lãnh tụ và các đồng chí sau lúc làm việc quân trở về, phơi phới nhẹ nhàng chở đầy ánh trăng.

Giọng thơ trong cả hai bài thơ khoẻ khoắn, trẻ trung, có sự suy tư, trăn trở nhưng vẫn hào hứng đầy tin tưởng.

Đặt trong hoàn cảnh sáng tác ở thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp 1947 – 1948, càng thấy rõ phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ trong hai bài thơ.

Hai bài thơ đều miêu tả cảnh trăng ở chiến khu Việt Bắc. Em hãy nhận xét cảnh trăng ở mỗi bài có nét đẹp riêng như thế nào?

Trả lời:

Hai bài thơ đều miêu tả cảnh trăng ở chiến khu Việt Bắc. Tuy nhiên, ở mỗi bài thì ánh trăng có một vẻ đẹp riêng:

Ở bài cảnh khuya: Cảnh ánh trăng Việt Bắc hiện ra lung linh, huyền ảo, hòa hợp, hữu tình.

Ở bài rằm tháng giếng: Cảnh đêm trăng rằm tháng giêng khoáng đạt, vằng vặc ánh trăng, tràn ngập sức xuân.

Tìm đọc và chép một số bài thơ, câu thơ của Bác Hồ viết về cảnh trăng hoặc cảnh thiên nhiên.

Trả lời:

Ngắm trăng (Nhật kí trong tù)

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

Giải đi sớm

Gà gáy một lần đêm chứa tan

Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn

Người đi cất bước trên đường thăm

Rát mặt đêm thu trận gió hàn.

Hoàn Cảnh Sáng Tác, Nội Dung Nghệ Thuật Bài Cảnh Khuya, Rằm Tháng Giêng

Hoàn cảnh sáng tác, nội dung nghệ thuật bài Cảnh khuya, Rằm tháng giêng

Cảnh khuya và Rằm tháng giêng đều là những bài thơ hay của tác giả Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác và những điểm chính về nội dung nghệ thuật của 2 bài thơ này.

I. Bài Cảnh khuya a. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ Cảnh khuya được Bác sáng tác vào giai đoạn đầu của kháng chiến chống Pháp, cụ thể vào năm 1947. Đây là giai đoạn nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, rút lui lên những vùng rừng núi, hiểm trở để thành lập căn cứ, lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp.

Trong một đêm trăng đẹp, Bác ngắm cảnh và viết lên những vầng thơ tuyệt đẹp. Bài thơ lột tả vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng đồng thời gửi gắm bên trong tâm sự của người lãnh đạo, lo lắng tương lai và vận mệnh của đất nước.

b. Nội dung

Bài thơ Cảnh khuya được viết ở chiến khu Việt Bắc, khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp với tiếng suối, trăng, cảnh khuya đẹp như vẽ… hình ảnh thơ sinh động, giàu sức biểu cảm. Tiếng suối được so sánh như tiếng hát trong trẻo, nhẹ nhàng. Trăng in bóng lên cổ thủ lồng nhau vào nhau tạo sự hài hòa, huyền ảo. Hình ảnh thiên nhiên qua cảm nhận của Bác rất đẹp và sinh động.Trên nền thiên nhiên đó là thi nhân – người chiến sĩ đang thao thức bởi Người lo lắng cho vận mệnh dân tộc.

c. Nghệ thuật:

– Vận dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.

– Biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, điệp từ.

– Vẻ đẹp đêm trăng vừa cổ điển mang nét đẹp hiện đại.

– Ngôn từ giản dị, trong sáng toát lên tình yêu thiên nhiên, yêu nước và sự lạc quan, yêu đời của Bác.

II. Bài Rằm tháng giêng a. Hoàn cảnh sáng tác

Rằm tháng giêng là bài thơ ra đời trong một đêm trăng rằm. Bác cùng với các cán bộ có cuộc họp quan trọng, buổi họp kết thức khi trời đã khuya, Bác cùng các cán bộ trở về bằng thuyền. Lấy cảm hứng từ đêm trăng rằm, Bác viết bài thơ để ghi lại khoảng khắc tuyệt đẹp từ thiên nhiên.

Thông tin thêm: Bài thơ được viết ở chiến khu Việt Bắc vào năm 1948, giai đoạn đầu của kháng chiến chống thực dân Pháp.

b. Nội dung

Bối cảnh viết bài thơ Rằm tháng giêng rất tình cờ, khi kết thúc một cuộc họp quan trọng, Bác trở về nhà bằng thuyền, đó cũng là thời điểm đêm về khuya, Bác đã thực sự rung động trước vẻ đẹp của đêm trăng rằm. Con thuyền không chỉ chở người mà còn chở đầy ánh trăng lướt đi, đó là hình ảnh vô cùng lãng mạn của nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ cũng toát lên sự ung dung, phong thái của Bác trong thời điểm khó khăn của cuộc kháng chiến.

c. Nghệ thuật:

– Bài thơ gốc viết theo thất ngôn tứ tuyệt, dịch sang thể thơ lục bát.

– Mang vẻ đẹp cổ điển đặc trưng của phương Đông như: trăng, dòng sông, con thuyền.

– Ngôn từ có sức biểu cảm cao, hàm súc.

– Kết hợp giữa miêu tả và yếu tố biểu cảm giúp bài thơ mang nét đẹ cổ điển và hiện đại.

III. Ý nghĩa của 2 bài thơ

Chiêm ngưỡng và hòa mình vào vẻ đẹp thiên nhiên đất trời nhưng không quên bày tỏ nỗi lòng của người lãnh đạo trước vận mệnh của dân tộc, đất nước.

Rằm tháng giêng

Thể hiện tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời từ thiên nhiên trong đêm trăng rằm.Bác có sự cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên và phong thái ung dung, tự tại trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh.

Phân Tích Vẻ Đẹp Của Ánh Trăng Trong Hai Bài Thơ Cảnh Khuya Và Rằm Tháng Giêng

Chọn và chép lại hai câu thơ nói về vẻ đẹp của trăng trong hai bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” là những câu thơ như thế.

Cảnh khuya và Rằm tháng giêng đều được viết vào thời kỳ Bác đang chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Việt Bắc. Hai bài thơ cũng đều viết về trăng thế nhưng mỗi bài mỗi vẻ. Hình ảnh ánh trăng trong mỗi bài cũng vì thế mà đẹp theo một góc chiếu khác nhau.

Ở bài Cảnh khuya, trăng được quan sát dường như một tầm nhìn hẹp. Ánh trăng không hiện lên bằng cả một vầng sáng tròn đầy mà lại được cảm nhận theo một chiều kích khác. Nó phủ trùm lên những tán cây, chiếu rọi rồi rơi rớt, lan tỏa hàng trăm ngàn đốm sáng trên mặt đất. Trăng quyện hòa gần gũi và tràn đầy sức sống “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.

Đêm thanh tĩnh, cảnh vật cũng tĩnh đến nỗi chúng ta có thể nghe thấy tiếng suối hát rất trong. Cảnh ấy, tình ấy khiến chúng ta nghĩ đến vẻ đẹp cổ điển của ánh trăng. Trăng với người ở đây dường như đang đối ứng và đối ẩm. Trăng chia sẻ với người và người dường như cũng đang muốn tâm sự cùng trăng.

Trăng ở Nguyên tiêu cũng ở trong cảnh tĩnh nhưng nó không chất chứa suy tư. Không giống với Cảnh khuya, trăng ở đây thoáng rộng, phóng túng và tràn trề sức sống hơn:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Trăng xuân, lại là trăng của đêm rằm chính vì thế mà nó tròn đầy viên mãn. Ánh trăng tràn trên khắp mặt sông rồi quện hòa vào cái sức sống của đất trời sông nước. Cái hay cái đẹp của trăng ở bài thơ này không chỉ là sự thi vị mà còn là ở cái sức xuân, cái niềm lạc quan tin tưởng mà nó đang tiếp vào lòng người chiến sĩ. Trăng ở đây thực sự đang chấp cánh bay lên cho những vần thơ.

Có thể nói dù được viết trong những hoàn cảnh khó khăn của cuộc kháng chiến, thế nhưng ở cả hai bài thơ, chúng ta đều thấy hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của Bác, Đó là một tâm hồn lạc quan, yêu đời và tha thiết đối với thiên nhiên. Đó cũng là một tâm hồn luôn canh cánh một nỗi niềm vì dân vì nước.

Đọc thơ Bác, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của một cốt cách thanh cao. Bác yêu nước, thương dân và Người cũng luôn sống với thiên nhiên đậm đà, sâu sắc.

Thơ Bác giản dị, tự nhiên, hồn hậu và trong sáng. Vì thế những vần thơ của Bác bao giờ cũng chan hòa, dễ khơi gợi niềm thích thú và tình yêu trong lòng mỗi chúng ta.

Nguồn: Kênh văn mẫu