Ý Nghĩa Bài Thơ Bình Ngô Đại Cáo / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Bài Viết Phân Tích “Bình Ngô Đại Cáo”

Chia sẻ cách lập dàn ý phân tích tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và bài văn mẫu hay nhất của các em học sinh giỏi năm 2019.

I. Dàn Ý Phân Tích Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo

– Giới thiệu chung về tác phẩm “Bình Ngô đại cáo’ (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,…)

a. Nêu tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập

– Tiền đề chính nghĩa:

+ “Nhân nghĩa”: một phạm trù tư tưởng i của Nho giáo, chỉ mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức

+ Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” phải gắn liền với “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải “trừ bạo”

– Chân lí độc lập khách quan:

+ Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng

+ Lối so sánh các triều đại phong kiến cho thấy tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó khẳng định nền độc lập của dân tộc và thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc

+ Kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó

b. Vạch rõ tội ác của kẻ thù

– Làm sáng rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh

– Tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.

– Chính sách thuế khóa nặng nề, vô lí

– Hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên trên đất nước ta.

c. Quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta

– Hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi:

+ Đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy Lê Lợi cũng xuất thân từ nhân dân

+ Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở để đứng lên dấy binh khởi nghĩa

+ Dẫu trong hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.

– Quá trình chiến đấu của quân ta:

Nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực, thiếu thốn lương thực,…

Nghĩa quân vẫn luôn tràn đầy lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng

+ Giai đoạn phản công và giành thắng lợi:

Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,…

Tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp và cuối cùng nghĩa quân của ta đã dành thắng lợi, khiến bọn giặc phải khiếp sợ.

Khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Điều đó cho thấy tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần nhân văn của quân và dân ta.

– Giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc

– Lời tuyên bố ấy vừa thể hiện lòng tự hào dân tộc vừa cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.

Khái quát những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” và nêu cảm nhận của bản thân.

II. Bài Văn Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 2019

Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.

Lưu Công tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh

Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợn, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc

Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ,

Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợn của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.

Đen đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.

Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.

Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay.

Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.

Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.

dàn ý bình ngô đại cáo

dàn ý bài bình ngô đại cáo

phân tích bình ngô đại cáo

bình ngô đại cáo dàn ý

dàn bài bình ngô đại cáo

dàn ý bài bình ngô đại cáo

dàn ý phân tích bài thơ bình ngô đại cáo

Bình Luận Facebook

.

Tư Tưởng Nhân Nghĩa Được Thể Hiện Trong Suốt Bài Bình Ngô Đại Cáo

Đề bài: Mở đầu bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Em hãy giải thích câu trên và chứng minh rằng tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo.

Cuộc đời Nguyễn Trãi là một tấm gương sáng ngời về khí tiết thanh cao và lòng yêu nước thương dân sâu sắc. Nguồn gốc sâu xa tạo nên tâm hồn lớn ấy là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa này xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của ông, từ lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến đến lúc cuộc kháng chiên thắng lợi hoàn toàn, từ khi Lê Lợi dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới đến khi bốn phương biển cả thanh bình trong bài Bình Ngô đại cáo. Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi viêt:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Ta hãy tìm hiểu nội dung ý nghĩa câu trên, qua đó chứng minh rằng tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo.

Trong cuộc đời thường, nhân và nghĩa thể hiện đạo lí làm người, một tôn chỉ trong xã hội ta ngày xưa, là đạo lí của con người đối với con người, đạo lí của con người đối với cuộc đời;

Mới mong đời chị được ăn lộc trời.

Đạo lí nhân dân vẫn thường chê trách kẻ tham vàng bỏ ngãi như câu ca dao Nam Trung Bộ:

Dứt đường nhân ngãi lâu dài bỏ em.

Ở Bình Ngô đại cáo, nhân sinh mang nội dung tư tưởng sâu rộng, tích cực hơn: Nhân thể hiện bằng hành động chăm lo đời sống người dân được an vui: Nghĩa thể hiện qua hành động diệt trừ lũ bạo ngược để an dân:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nội dung câu trên có thể tóm tắt: xuất phát từ tư tưởng nhân nghĩa, ta nhắm mục đích yên dân, vì muốn yên dân ta phải ra tay hành động trừ bạo. Như vậy, thực hiện nhân nghĩa cốt nhằm mục đích duy nhất là đem lại hạnh phúc, an vui cho người dân. Cho nên vì thương dân (điếu) mà ta khởi binh đánh dẹp (phạt) để diệt (trừ) lũ giặc hung bạo (bạo). So với tư tưởng nhân nghĩa trong văn chương bình dân cũng như trong văn chương bác học nước ta, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo có ý nghĩa sâu sắc: Tất cả vì nhân dân, vì hạnh phúc ấm no, vì sự an cư lạc nghiệp của người dân. Tư tưởng nhân nghĩa này đã thể hiện suốt trong bài Bình Ngô đại cáo.

Thật vậy, Nguyễn Trãi đã tự hào giở lại từng trang lịch sử của dân tộc qua bài Cáo. Lịch sử từng ghi rằng những triều đại nhân nghĩa đều lấy việc yên dân làm gốc. Những kẻ tham bạo, hành động trái nhân nghĩa đều thất bại:

Lưu cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích phải tiêu vong.

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

Chúng đã gây ra quá nhiều tội ác trên đất nước ta, làm cho cuộc sống của nhân dân vô cùng cơ cực. Đó là những cảnh cực nhọc, hiểm nguy khi giặc bóc lột sức dân, vơ vét tài sản quý:

Người bị bắt xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.

Ngoài ra còn những thuế má, phu phen nặng nề:

Nặng nề những nỗi phu chúng tôi xây nhà, mai đắp đất…Nặng thuế má sạch không đầm núi.

Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong suốt bài Bình Ngô đại cáo

Như vậy, còn đâu đời sống an vui hạnh phúc xưa kia, những nếp nghề truyền thống cũng không tồn tại được: tan tác cả nghề canh cửi. Quả thật tội ác của giặc Minh đã làm cho:

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời

Nếu nhân nghĩa không chỉ là nhân tâm mà còn là thiên lí, thì quả thật nhân nghĩa đã bị bọn cuồng Minh làm bại hoại tổn thương. Cho nên:

Ai bảo thần dân chịu được?

Ta giữ đại nghĩa chí nhân, chính nghĩa tất thắng, chí nhân tất thành:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Cho nên sau bao năm nếm mật nằm gai, khắc phục gian nan, nghĩa quân phản công với khí thế sĩ khí đã hăng, quân Thanh càng mạnh, còn giặc thì Nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân.

Đợt tiến công còn tỏ rõ thế tất thắng của nghĩa quân:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Nổi gió to quét sạch lá khô,

Thông tổ kiến sụt toang đê vỡ.

Trái lại, bọn giặc đã hành động trái nhân nghĩa nên lúc này hoàn toàn bại vong: Chủ tướng thất thế, Cụt đầu tướng lãnh tử vong, tự vẫn lê gối tạ tội, trói tay xin hàng, quân lính sợ bóng mà vỡ mật, xéo lên nhau để chạy thoát thân, cởi giáp ra hàng như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

Như vậy, sau mười năm nằm gai nếm mật ta đã hoàn toàn chiến thắng. Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện qua lòng nhân đạo đưa đến chủ trương hoà bình, như lời của Bình Định Vương Lê Lợi:

Phục thù báo oán, đó là thường tình của người ta, không thích giết người, đó là bán tâm của kẻ nhân giả. Và người ta đã hàng mà lại giết, thì không gì không lành hơn nữa . Để hả mối giận một sớm mà mang tiếng giết hàng muôn đời, thì sao bằng để sống ức vạn người mà hết mối chiến tranh cho hậu thế, khiến sử xanh ghi chép, nghìn thuở lưu thơm, như thế chẳng phải là lớn sao?

Cho nên, ta theo đức hiếu sinh của trời: Thần vũ chăng giết hại, thể lòng trời ta mờ đường hiếu sinh.

Hơn nữa, đó cũng là nguyện vọng hoà bình của nhân dân hai nước. Bọn vua quan nhà Minh đã bắt dân lành vào lính, xua quân sang Đại Việt, quân lính đó là Những kẻ vô tội (….) đã bị các người (tướng lãnh) lừa dối. (Quân trung từ mệnh tập). Cho nên cuộc kháng chiến chống quân Minh đặt trên cơ sở nhân nghĩa để trừ bạo nhưng đồng thời cũng dựa trên cơ sở nhân nghĩa để chấm dứt chiến tranh, đặt mục đích hoà bình đó chính là tài năng, đức độ của nhà quân sự nhìn xa, trông rộng ; dập tắt chiến tranh, ngưng cuộc binh đao mới là võ (chữ võ gồm chữ chỉ là ngưng lại, ghép với chữ quan là cây giáo). Cho nên kết thúc hoàn toàn cuộc chiến, Nguyễn Trãi đã tự hào:

Chẳng những mưu kế kì diệu,

Cũng là chưa thấy xưa nay.

Bình Ngô đại cáo là một Thiên cổ hùng văn, tổng kết cả một cuộc kháng chiến thần thánh vô cùng gian lao nhưng tuyệt vời anh dũng của dân tộc ta suốt mười năm dài. Tác phẩm toát lên tư tưởng chỉ đạo làm nền gốc cho mọi chủ trương, đường lối, chiến thuật, ngoại giao, chính trị tài tình, đưa đến thắng lợi vinh quang xây dựng nền hoà bình bền vững. Đó chính là tư tưởng nhân nghĩa.

Phân Tích Bài Bình Ngô Đại Cáo Của Nguyễn Trãi

Đề bài: Phân tích bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.

Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.

Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.

Trước hết, Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.

Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần:

Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thấng bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)

Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).

Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến củng là chưa thấy xưa nay).

Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thưở phồn vinh (tiếp theo đến hết).

Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, NguyễnTrãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện.Nội dung nóitrên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nềnđộc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sông nhân dân, đến hạnh phúc cùa mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trái đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô- Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc.

Bình ngô đại cáo là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao

Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấymỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.

Phần thứ 3 thuật lại qua trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn đấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.

Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.

Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.

Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng ; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:

Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.

Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.

Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta:

Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.

Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:

Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.

Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn,

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ:

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,

Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước

Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hiền hoà tươi vui:

Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ.

Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hoá, giọng điệu linh hoạt, diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn.

Từ khóa tìm kiếm

phân tích bình ngô đại cáo

binh ngô đai cáo

Phan tich Binh ngo dai cao

phan tich bai binh ngo đại cáo

phan tich bai binh ngo dai cao

bình ngô đại cáo của nguyễn trãi

phân tích đại cáo bình ngô

Phân tích bài Đại Cáo Bình Ngô

bài thơ bình ngô đại cáo

phan tich bình ngô đại cáo của nguyễn trãi

Soạn Bình Ngô Đại Cáo Phần 1 Đầy Đủ Nhất

Văn bản Bình Ngô Đại Cáo trong chương trình Sách giáo khoa Ngữ Văn 10 được chia thành 2 phần: tác giả và tác phẩm.

Trong tài liệu này, Kiến Guru sẽ hướng dẫn các bạn soạn bình ngô đại cáo phần 1-Tác giả Nguyễn Trãi một cách chi tiết và đầy đủ nhất. 

Mục tiêu của Kiến Guru không chỉ giúp bạn hoàn thành bài tập theo yêu cầu trong sách giáo khoa, mà còn giúp bạn hiểu sâu sắc hơn về Nguyễn Trãi – một nhân vật lịch sử lừng danh đồng thời cũng là một cây đại thụ của nền văn học Việt Nam.

I. Những nét chính về tác giả Nguyễn Trãi

1. Cuộc đời

– Quê quán: Nguyễn Trãi (1380 -1442), hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại – Chí Linh – Hải Dương. Sau dời về Nhị Khê – Thường Tín – Hà Tây (Hà Nội)

– Xuất thân: Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình mà hai bên nội ngoại đều có truyền thống yêu nước và văn hóa, văn học. 

 + Cha là Nguyễn Phi Khanh, học giỏi và đỗ Thái học sinh.

 + Mẹ là Trần Thị Thái, con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.

– Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Tiến sĩ và cùng cha làm quan cho nhà Hồ.

– Năm  1407, giặc Minh xâm chiếm nước ta và bắt cha ông là Nguyễn Phi Khanh sang Trung Quốc. Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Trãi đã theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Chính từ cuộc khởi nghĩa này, Nguyễn Trãi trở thành anh hùng dân tộc vì đã giúp Lê Lợi tạo nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc

– Sau khi thắng lợi, Nguyễn Trãi viết  Đại cáo bình Ngô và tiếp tục phò tá triều đình, hăm hở xây dựng đất nước. Nhưng cũng từ đây ông bị gian thần ganh ghét và bị nghi oan.

– Năm 1439, ông xin lui về ở ẩn tại Côn Sơn.

– Năm 1440, Nguyễn Trãi được mời ra giúp nước thêm lần nữa.

– Năm 1442, vụ án chấn động lịch sử Lệ Chi Viên xảy ra khiến gia đình ông bị tru di tam tộc.

– Mãi đến năm 1464, ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan.

Đây là bi kịch lớn nhất trong lịch sử dân tộc. Nguyễn Trãi là một công thần, là anh hùng dân tộc trong việc đấu tranh chống quân xâm lược, kiến lập nên nhà Lê, nhưng cuối cùng lại rơi đầu dưới lưỡi gươm của triều đình mà ông đã dành tâm huyết cả đời để xây dựng. Vụ án Lệ Chi Viên thực chất là mâu thuẫn trong nội bộ triều đình phong kiến, nhưng ông lại bị đem ra thí mạng cho cuộc tranh đoạt đó.

2. Sự nghiệp thơ văn

Nguyễn Trãi không chỉ là một anh hùng dân tộc, mà ông còn là một nhà văn học xuất sắc ở rất nhiều lĩnh vực, trong sáng tác chữ Nôm lẫn chữ Hán, trong văn chính luận và cả thơ ca trữ tình. Ông là người khai sáng cho thơ ca Tiếng Việt và đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị cho thế hệ sau này

– Văn chính luận: thể hiện tinh thần trung quân ái quốc, nhân nghĩa, chống quân xâm lược. Tác phẩm tiêu biểu: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập.

– Thơ ca trữ tình: Lí tưởng của người anh hùng yêu nước thương dân còn được thể hiện ở những án văn nói về thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống. Tác phẩm tiêu biểu: Ức trai thi tập,  Quốc âm thi tập…Đây là những tác phẩm văn học đỉnh cao của thơ ca Việt Nam trong thế kỷ 15-16.

– Ngoài ra, Nguyễn Trãi sáng sáng tác ra các phẩm lĩnh sử, địa lý như: Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Chí Linh sơn phú.

II. Hướng dẫn soạn Bình Ngô đại cáo theo chương trình sách giáo khoa 

Câu 1: Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử vĩ đại bởi vì

Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong thời buổi loạn lạc. Nhà Trần bước vào giai đoạn suy vong, Hồ Quý Ly lên ngôi cai trị đất nước. Nhà Minh lại kéo quân sang xâm lược nước ta. Cha của ông là Nguyễn Phi Khanh cùng cha con Hồ Quý Ly bị bắt về Trung quốc. Trước cảnh nước mất, nha tan. Chính vì vậy mà lòng yêu nước, chí căm thù giặc, dám xả thân cứu nước cứu dân đã được hun đút từ đây, tạo nên người anh hùng lịch sử sau này.

Sau đó, ông theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa Lam sơn, trở thành cánh tay đắc lực bên cạnh Lê Lợi. Cùng Lê Lợi chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng như trận Chi Lăng – Xương Giang. Tạo nên một cuộc khởi nghĩa thành công vang dội, đi vào sử sách, kiến thiết nên triều đại nhà Lê. Đây là thời kỳ đỉnh cao bộc lộ rõ thiên tài quân sự, chính trị, ngoại giao…của Nguyễn Trãi. 

Bước vào thời bình, ông mang trong mình niềm khát khao mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, nhưng chưa kịp thực hiện thì cuộc đời của ông rẽ sang một bước ngoặt mới đầy khó khăn và bi kịch: bị ganh ghét, vu oan hãm hại, bị bắt nhốt, rồi được thả ra; sau đó Nguyễn Trãi về ở ẩn, nhưng lại được mời ra giúp nước bởi lòng yêu nước, thương dân luôn cuộn trào trong lòng. Và sau đó chết một cách ai oán bởi vụ án oan Lệ Chi Viên.

Mãi đến hơn 20 năm sau, Nguyễn Trãi mới được vua Lê Thánh Tông minh oan và tìm lại những tác phẩm đã bị tiêu hủy trước đó

Câu 2: Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi

Côn Sơn ca, Cảnh ngày hè, Bình ngô Đại cáo, Quân trung từ mệnh tập

– Cảnh ngày hè: thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, lòng thương dân của Nguyễn Trãi

– Bình Ngô đại cáo: bản tuyên ngôn đầu tiên về độc lập chủ quyền dân tộc, lên án tội ác hung bạo và tàn độc của quân xâm lược, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

– Quân trung từ mệnh tập: bao gồm những thư từ viết cho tướng giặc và triều đình nhà Minh

Câu 3: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi

Hai câu thơ trong bài Thuật hứng (bài 2)

Bụi một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

    Phẩm chất ý chí của người anh hùng luôn luôn ngời sáng trong chiến đấu chống ngoại xâm cũng như trong đấu tranh chống cường quyền bạo lực vì chân lí với trọn lòng lo nước yêu dân lúc nào cũng thiết tha, mãnh liệt.

Câu 4: Những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong thơ văn của Nguyễn Trãi

– Về nội dung văn chương: nội dung chủ đạo trong thơ văn của Nguyễn Trãi là lòng nhân nghĩa, yêu nước thương dân.

– Nghệ thuật: 

+ Dùng nhiều hình ảnh đẹp, mang tính dân tộc.

+ Để lại nhiều tác phẩm xuất sắc cho đời sau ở cả thơ chữ Hán lẫn chữ Nôm.

+ Đưa nhiều từ thuần Việt vào thơ ca, đặc biệt ông thường sử dụng ca dao, tục ngữ, từ láy…

+ Là người sáng tạo ra thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, tạo nên đặc trưng thơ Tiếng Việt trong thế kỷ 15-16.

+ Là người đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt.

III. Kết luận

Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một con người toàn tài, hiếm thấy, một nhà văn kiệt xuất, danh nhân văn hóa thế giới, nhưng lại phải chịu oan khốc tham thiết nhất trong lịch sử Việt Nam.

Nguyễn Trãi còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với lập luận chặt chẽ, quan điểm vững chắc, một nhà thơ trữ tình sâu sắc, và cũng là người đặt nền móng cho thơ ca Tiếng Việt. 

Nội dung chủ trong các tác phẩm văn chương là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân

Nguyễn Trãi đã đóng góp nhiều mặt cho dân tộc: văn học, lịch sử, địa lí. 

Đặc biệt, ông có những đóng góp lớn về văn học với ba mảng sáng tác chính: văn chính luận, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm.

Đừng quên tải ngay Ứng dụng Kiến Guru để học trực tuyến mọi lúc mọi nơi. Các bài giảng trên Kiến Guru được thực hiện dưới dạng video và hình ảnh sinh động, giúp bạn dễ dàng ghi nhớ bài học hơn đó. Điều đặc biệt hơn nữa là sau mỗi bạn học Kiến sẽ có infographic tổng quan bài học, để giúp các bạn hệ thống kiến thức sau buổi học.