Ý Chính Bài Thơ Tỏ Lòng / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước dược thể hiện qua nhiều lĩnh vực những có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lòng” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên- Mông. “Tỏ lòng” được ông sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên-Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ nước.

Nói đến hào khí Đông A là nói đến hào khí đời Trần. Thời này là 1 mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tôc, quân và dân thời Trần đã kiên cường anh dũng lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên- Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, căm thù giặc sôi sục cùng lòng quyết tâm chiến thắng. Hào khí dân tộc thể hiện ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người anh hung với hình ảnh ” Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra.

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu ”

Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chai, “Hoàng sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi. Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vụ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay,khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến ” ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, các tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại ” Khí thôn ngưu”- khí thế quân đội mạnh mẽ lấn án cả sao ngưu hay là khí thế hào hình nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hung hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.

” Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu “

Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc đến trí là nhắc đến trí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vui giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, trí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước

Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm. “Thẹn vỡi Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, 1 ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung

Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vể đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông Á. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.

Phạm Ngũ Lão là một tướng giỏi thời nhà Trần và cũng chính là người có tài nhìn xa trông rộng, có lí tưởng và được triều đình trọng dụng. Không chỉ là một quan võ, ông còn là người có tâm hồn thi sĩ, đóng góp không ít về kho tàng văn học và những bài thơ mang lại giá trị giáo dục sâu sắc. Thuật hoài là một trong số những bài thơ bày tỏ nỗi lòng và suy nghĩ của nhà thơ về lí tưởng của trai trẻ của những khát khao và lí tưởng, dám dấn thân mình cho đất nước và đấu tranh.

Bài thơ toát lên vẻ đẹp về sức mạnh và khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội, dám đứng lên để trở thành đội quân tiên phong bảo vệ cho sự an nguy của nước nhà. Đồng thời bài thơ cũng nói lên suy nghĩ và tấm lòng của một trung thần đối với triều đình và những mong mỏi của ông để xã tắc đất nước ngày một giàu đẹp và thịnh vượng. Lí tưởng chính xuyên suốt toàn bài thơ chính là trung quân ái quốc.

Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu.

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Bài thơ đươc sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt,với niêm luật chặt chẽ nhưng chữ nghĩa và thể thơ lại vô cùng hàm súc và dễ hiểu, mang tính khái quát cao. Thuật hoài chính là cách dẫn dắt người khác đi vào câu chuyện của mình, lắng nghe bày tỏ những tâm tư tình cảm của mình về một vấn đề gì đó. Thông qua bài thơ tác giả đã lột tả vẻ đẹp đầy lẫm liệt của những chiến sĩ, binh lính nhà trần, Tay cầm gươm giáo, khí thế ngút trời chưa một lần chịu quy hàng dưới sức mạnh và khí thế của kẻ thù mạnh số một lúc bấy giờ.

Ngay ở câu thơ đầu tiên, tác giả đã diễn tả khí thế ngút trời của quân và binh lính nhà trần, dù trải qua vạn kiếp hay bao năm thì vẫn cầm ngang ngọn giáo ung dung, không dễ dàng bị khuất phục bởi sức mạnh và sự đánh chiếm của quân ngoại xâm. Mấy thu ở đây để chỉ những cột mốc thời gian dài, không những thế còn chỉ sự trường tồn kháng chiến, một lòng chiến đấu để bảo vệ từng gang tấc đất của nước nhà. Câu thơ hàm súc lại mang tính biểu tượng cao đã khiến cho người đọc càng thêm bị thuyết phục bởi hình ảnh lẫm liệt của quân đội nhà Trần

Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, khí thế bừng bừng thông qua cách cầm giáo và vũ khí, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ từng gang tấc của đất nước. không gian mở rộng, hình ảnh những binh lính càng thêm lẫm liệt, hùng dũng. Chủ nghĩa yêu nước lại càng thêm được tô đậm và quật cường khí thế.

Chuyển sang câu thơ thứ hai khí thế của quân dân không bị hao hút mà càng hùng dũng. ” Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu. Hình tượng của môt tượng đài về người lính đầy khí chất và quả cảm sẵn sàng xả thân vì nước hiện lên. Chính vì những hình tượng như thế, tác giả không thể kiềm lòng mà bật ra những câu thơ đầy khí thế và bản lĩnh, sắc cạnh.

Cũng từng là một tướng lĩnh đứng trong hàng ngũ của quân đội, Phạm Ngũ Lão trở thành một binh lính dày dặn kinh nghiệm và khát vọng cũng sục sôi, một lòng phục tùng cho lí tưởng yêu nước. Đấng nam nhi sống trong thơi bình hay loạn lạc thì đều cần phải bồi đắp thêm tư tưởng và nghĩ khí của mình để không hổ thẹn với non sông đất nước. Đó chính là những lí tưởng và tư tưởng cốt lõi xuyên suốt cuộc đời của mình. Ông luôn một lòng cống hiến xả thân vì nước nhà.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hẩu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Hai câu thơ cuối toát lên khát vongh của Phạm Ngũ Lão khi đứng trong hàng ngũ của triều đình, không bao giờ bị khuất phục bởi những tư tưởng nhỏ nhen ích kỉ và lại càng nung nấu những lí tưởng cao đẹp xả thân vì nước. Bên cạnh đó, trong tâm trí của ông luôn luôn thường trực về nợ công danh, một lòng trung thành với những chính sách và điều lệ mà triều đình đặt ra để dẹp loạn, dẹp nạn ngoại xâm xâm lược. Không những thế khi nói tới công danh, tuy là một người tài giỏi như thế nhưng ông lại vô cùng khiêm tốn. Khi nhắc đến những câu chuyện điển tích điển cố thời xưa lại cảm thấy thẹn vì thấy mình chưa làm được, hoặc chưa vẹn toàn hoàn hảo như lòng mình mong mỏi

Có thể nói bài thơ Tỏ lòng đúng như tên gọi của nó, bằng những suy nghĩ tâm sự và trải nhiệm của mình, tác giả đã làm nổi bật thêm những vấn vương tơ lòng và mối suy nghĩ vì lí tưởng cao đẹp của nước nhà cũng là một lời dặn dò cho giới trẻ.

Cảm ơn các bạn các bạn vừa đọc xong top những bài làm văn Phân tích bài thơ tỏ lòng hay nhất. Chúc các viết cho mình một bài văn Phân tích bài thơ tỏ lòng thật hay và đạt được kết quả cao.

Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão

(Văn mẫu lớp 10) – Em hãy phân tích bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão. (Bài làm của học sinh Phương Khanh)

Thời Trần trong lịch sử Việt Nam là một trang sử chói lọi, ghi dấu ấn hào khí Đông A ngút trời. Nhìn lại những chiến công lịch sử hào hùng, những bài thơ tô đậm dấu ấn con người và thời đại ấy ta lại không khỏi cảm phục, tự hào. Một trong những tác phẩm thể hiện rất rõ hào khí ấy là bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão.

Hai chữ Đông A là chiết tự từ chữ Trần, vậy hào khí Đông A là hào khí nhà Trần. Nhắc đến hào khí nhà Trần là nhắc đến một thời đại oanh liệt với chiến công ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; nhắc đến các sự kiện lớn lao: hội nghị Diên Hồng, Bình Than… Phạm Ngũ Lão là một danh tướng thời Trần, có công lao lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân dân thời Trần chống giặc Nguyên – Mông, có lẽ là vào khoảng năm 1284 khi cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần hai sắp diễn ra. Bài thơ làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt, bốn câu thơ là bốn nét vẽ về thời đại và con người thể hiện thống nhất hào khí Đông A ấy.

Đầu tiên, hào khí Đông A được thể hiện qua hình ảnh, tầm vóc của một võ tướng thời Trần:

Với âm hưởng, giọng điệu khỏe khoắn, mạnh mẽ, hùng tráng, hình ảnh con người hiện ra với tư thế Hoành sóc (cắp ngang ngọn giáo). Đây là tư thế mạnh mẽ, oai hùng sẵn sàng chiến đấu. Câu thơ đề cập đến không gian bao la, kì vĩ của núi sông, đất nước: giang sơn và thời gian : cáp kỉ thu, mật độ thời gian lâu dài, kì vĩ không phải chốc là là đã trải qua mấy thu. Như vậy, câu thơ thứ nhất đã vẽ lên chân dung một võ tướng được huyền thoại hoá thành hình tượng người anh hùng chiến trận với một tư thế đẹp mang tầm vóc lớn lao của vũ trụ, tiếp nối biểu tượng của Thánh Gióng (khác với lối miêu tả trong Tụng giá hoàn kinh sư).

Hào khí Đông A tiếp tục được mở rộng ở câu thừa khi tái hiện lại khí thế của thời đại qua vẻ đẹp quân đội nhà Trần:

Tam quân ở đây là chỉ quân đội nhà Trần – một đội quân hùng mạnh, hội tụ được sức mạnh toàn quân và toàn dân. Với nghệ thuật so sánh, phóng đại, ý thơ gợi ra hai cách hiểu. Vì Ngưu có thể hiểu là trâu hoặc là sao Ngưu nên có thể hiểu là khí thế hào hùng của đội quân có thể xông lên át cả sao Ngưu trên trời hoặc khí thế ấy hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu. Hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng thể hiện rõ tầm vóc dân tộc vụt lớn, sánh ngang tầm vóc vũ trụ.

Từ giọng điệu hào hùng, trang trọng, hai câu luận và kết của bài thơ chuyển sang giọn điệu trầm lắng suy tư­; bộc lộ vẻ đẹp của hào khí Đông A biểu hiện qua vẻ đẹp nội tậm của con người. Phạm Ngũ Lão tâm sự về công danh nam tử: Sự nghiệp của người đàn ông. Cụm từ “vương nợ”: khắc sâu da diết rằng mình chưa trả xong món nợ ấy. Theo tinh thần chung của Nho giáo, lập công là làm nên sự nghiệp lớn, và có công thì mới được ghi danh để lại tiếng thơm. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng công danh mang nội dung tiến bộ, không đơn thuần lập công để thành danh, mà đó là món nọ trang nam nhi phải trả. Đó cũng phải thói hám danh phàm tục mà là quan niệm nhân sinh có tác dụng cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỷ.

Kết thúc bài thơ tác giả đề cập đến nỗi “thẹn”. Ông thẹn vì thấy mình chưa trả xong nợ công danh; thấy mình chưa có mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Nỗi thẹn ấy không làm cho tác giả nhỏ bé, thấp kém đi mà ngược lại còn tôn cao nhân cách con người, thắp sáng lên trong chúng ta ngọn lửa khát vọng, vươn tới cái cao cả, lớn lao.

Thuật hoài (Tỏ lòng) là lí tưởng của trai thời loạn, không chỉ là hoài bão của tác giả mà còn là tinh thần, ý chí, xu hướng chung của thời đại nhà Trần. Bài thơ đã đi qua thời gian, khắc sâu niềm tự hào tự tôn dân tộc và cổ vũ thanh niên thời nay sống có trách nhiệm, có bản lĩnh hơn.

Soạn Bài Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão

– Những nét cơ bản về tiểu sử, sự nghiệp, phong cách tác giả

– Hoàn cảnh lịch sự – xã hội: hoàn cảnh sáng tác (xuất xứ) cụ thể của tác phẩm.

– Đặc trưng cơ bản về thi pháp trung đại.

Thứ hai, kiến thức cơ bản. Bao gồm:

– Nghĩa của từ, ngữ (phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ – nếu bằng chữ Hán).

– Các phép sử dụng từ ngữ

– Hình ảnh, tâm sự nhân vật trữ tình

– Ý nghĩa, giá trị đối với hiện tại

2. Về tác giả

– Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làn Phù Hủng nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên.

– Thời Trần, các quý tộc có đất phong (gọi là điền trang, thái ấp), quân đội riêng. Trong phủ đệ của mỗi quý tộc thuộc quyền có ba hạng: gia nô (nô bộc), gia binh, gia tướng (binh lính, tướng lĩnh) và gia khách (khách nuôi trong nhà). Phạm Ngũ Lão là gia khách của Trần Hưng Đạo, sau hành cong rể (lấy con gái nuôi), trong coi đạo quân hữu vệ (gia tướng).

– Trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên lần thứ 2 và 3 (1885 – 1888), Trần Hưng Đạo tổng chỉ huy toàn quân (gồm quân của nhà vua và các quý tộc), cùng gia binh đã làm nên đại thắng. Phạm Ngũ Lạo trưởng thành trong hai cuộc chiến này, lập được nhiều công lớn, là một trong những vị tướng dũng mạng, anh hùng lừng lẫy.

– Nhưng điều quan trọng, ông là một người văn võ song toàn. Bởi lẽ, nếu không có văn tài, ông không thể có tác phẩm để đời – Thuật hoài (tỏ lòng).

3. Nhìn chung tác phẩm

– Đây là một bài thơ Đường luật tứ tuyệt (tuyệt cú), viết bằng chữ Hán.

– Bài thơ chia làm hai phần: hai câu đầu, nêu sự vật; hai câu sau, nêu cảm nghĩ, tính sử thi. Chỉ qua hai nét phác họa (cảnh, người) đã làm nổi lên vẻ đẹp người anh hùng và thời đại anh hùng đời Trần mà sử quen gọi là Thời đại Đông A – Hào khí Đông A (do chiết tự chữ Trần, theo lối Hán tự).

– Bài thơ nằm trong hệ thống văn họ Hào khí Đông A mà một số tác phẩm đã được học trong chương trình THCS: Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.

5. Rèn luyện kĩ năng

Câu 1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ “múa giáo” chư­a thể hiện đư­ợc hết ý nghĩa của hai từ “hoành sóc”. “Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hư­ởng, từ “hoành sóc” đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.

Trong câu thơ đầu này, con ngư­ời xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngư­u thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con ngư­ời cầm cây tr­ường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại đư­ợc đặt trong một không gian, thời gian như­ thế thì thật là kì vĩ. Con ng­ười hiên ngang ấy mang tầm vóc của con ng­ười vũ trụ, non sông.

Câu 2. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu : Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.

Câu 3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món “nợ công danh” mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý “ch­ưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước”. Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh đư­ợc coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nư­ớc. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn “thẹn” vì mình ch­a đ­ược như­ Vũ Hầu Gia Cát Lư­ợng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nư­ớc giúp đời.

Câu 4. Trong câu thơ cuối, nỗi “thẹn” đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của ngư­ời anh hùng. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chư­a có đ­ược tài năng m­ưu l­ược như­ Vũ Hầu Gia Cát Lư­ợng (Khổng Minh – đời Hán) để giúp dân cứu nư­ớc, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nư­ớc còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách – nỗi thẹn của những con ngư­ời có trách nhiệm với đất n­ước, non sông.

Câu 5. Ngư­ời xư­a nói “Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách”. Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ “Tỏ lòng”. Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âm h­ưởng anh hùng ca của thời đại do những con ngư­ời ấy tạo nên và cũng chính âm h­ưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm th­ường, ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu n­ước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cư­ờng của những con ng­ười ấy sẽ vẫn mãi là lí t­ưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.

Nhận xét

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão

Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.

Nguồn Edufly