Xuất Xứ Của Bài Thơ Tây Tiến / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Dàn Ý Tây Tiến, Bài Phân Tích Tây Tiến Của Hsg Lớp 12

Bài viết chia hướng dẫn cách lập dàn ý bài Tây Tiến và bài văn mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Các em học sinh có thể tham khảo để học và làm bài tập được hiệu quả hơn.

I. Dàn Ý Tây Tiến – Quang Dũng

1. Mở bài phân tích Tây Tiến

a. Nỗi nhớ – mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ

“nhớ chơi vơi”: một nỗi nhớ vô hình vô định, lửng lơ giữa tầng không nhưng có sức ám ảnh đối với lòng người, làm cho lòng người trở nên hoang mang, day dứt như mất đi điểm tựa

b. Đoạn 1: Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến

c. Đoạn 2: Đêm hội liên hoan và bức tranh Châu Mộc chiều sương

– Bức tranh Châu Mộc chiều sương: sử dụng các từ để hỏi “có thấy”, “có nhớ” để gợi về trong tâm trí những hình ảnh trong buổi chiều sương ấy

d. Đoạn 3: Hình ảnh những người lính Tây Tiến

– Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

+ Cách nói giảm nói tránh “rải rác”, “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”: làm giảm đi sự đau thương và nhấn mạnh, làm nổi bật tinh thần quả cảm, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh

e. Đoạn còn lại: lời thề son sắt với Tây Tiến

II. Bài Viết Phân Tích Bài Thơ Tây Tiến

1. Mở bài phân tích Tây Tiến – Quang Dũng

Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên và những nét vẽ đầu tiên về người lính Tây Tiến trên chiến trường miền Tây.

Đoạn thơ đã gợi nhắc những địa danh quen thuộc – “Sài Khao”, “Mường Lát” – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm trong những đêm hành quân giữa những màn sương dày đặc “sương lấp” và cái lạnh đến rợn người. Và để rồi trong nỗi nhớ về những địa danh ấy, hình ảnh những con dốc, những con đèo chông chênh, hiểm nguy lại ùa về. “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng, câu thơ trúc trắc bởi hàng loạt thanh trắc “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” tạo ấn tượng sâu sắc về sự gồ ghề, cheo lao của những dốc, những đèo, nhịp thơ như bị gãy đứt gợi cảm tưởng đó là nhịp thở gấp gáp của người lính đã thấm mệt sau chặng đường hành quân cực nhọc, gian khổ. Ấy vậy mà, dẫu mệt mỏi trên bước đường hành quân song những người lính ấy vẫn đùa vui tếu táo “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ giúp chúng ta nhận ra một hình ảnh đậm chất lính, có cái tinh nghịch, có cái lãng mạn. Câu thơ vừa gợi độ cao của dốc núi vừa gợi nên hình ảnh người lính như đi trên mây, súng chạm đỉnh trời thật ngạo nghễ, dường như, những người lính như sánh ngang với cả vũ trụ rộng lớn. Thêm vào đó, để làm rõ thêm sự hiểm nguy, dữ dội của thiên nhiên Tây Tiến, tác giả còn miêu tả những âm thanh đến rợn người của “thác gầm thét”, “cọp trêu người”. Tất cả những điều đó quyện hòa vào nhau để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang sơ, dữ dội. Bên cạnh đó, với một con mắt phóng khoáng và một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa, thơ mộng của tác giả, thiên nhiên Tây Tiến còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình qua hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, “mưa xa khơi”.

Đồng thời, thái độ lạc quan, dũng cảm của những người lính Tây Tiến còn thể hiện qua những câu thơ.

Câu thơ với những thanh trắc “dãi”, “bước”, “gục”, “bỏ” đã làm nhịp thơ như chậm lại và phải chăng ẩn đằng sau đó chính là cách nhìn đơn giản, nhẹ nhàng của những người lính Tây Tiến về cái chết “bỏ quên đời” . Đây là cách nói giảm, nói tránh nhằm giảm nhẹ sự đau thương, mất mát của những người lính trước cuộc chiến tranh khốc liệt.

Và rồi, trong dòng xúc cảm của nỗi nhớ, những kỉ niệm về tình quân dân ấm áp với những đêm hội liên hoan ùa về

Không gian một đêm lửa trại ấm áp tình quân dân hiện lên thật đẹp, thật sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng. Đó là đêm liên hoan với hình ảnh của những cô gái Lào thật đẹp, thật lộng lẫy xen lẫn chút e ấp trong trang phục của dân tộc mình “kìa em xiêm áo tự bao giờ”, “nàng e ấp” với ánh sáng thật lung linh của những bó đuốc và cả âm thanh du dương, dạt dào, bay bổng của tiếng khèn “khèn lên mạn điệu”.

Trong nỗi nhớ về đêm hội liên hoan ấy, hình ảnh về Châu Mộc chiều sương cũng hiện lên thật đẹp, thật thơ mộng.

Sử dụng những từ để hỏi “có thấy”, “có nhớ” lặp lại trong nhiều câu thơ, tác giả đã gợi về trong kí ức của mình một bức tranh Châu Mộc mới thật đẹp. Với việc sử dụng các hình ảnh “chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”, “dàng người trên độc mộc”, “dòng nước lũ hoa đong đưa” tác giả đã vẽ nên một bức tranh Châu Mộc chiều sương thật thơ mộng, hư ảo, duyên dáng, tình tứ, tất cả mọi cảnh vật dường như không còn vô tri vô giác nữa mà có điệu hồn của riêng mình.

Đặc biệt, trong nỗi nhớ ấy của nhà thơ, hình ảnh những người lính Tây Tiến hiện lên thật chân thực và rõ nét.

Trên bước đường hành quân giữa cái hiểm nguy của thiên nhiên và khắc nghiệt của thời tiết, những người lính Tây Tiến phải đối diện với những trận sốt rét kinh hoàng và có lẽ đó là lí do tóc họ đã rụng dần theo năm tháng. Tuy nhiên, ở đây, thay vì nói “tóc không mọc” tác giả Quang Dũng đã sử dụng cụm từ “không mọc tóc”. Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo này, tác giả đã đã làm toát lên khẩu khí ngang tàn, cứng cỏi của những người lính Tây Tiến – họ không cần, không thèm mọc tóc. Dường như ở đây, tác giả đã biến cái bi lụy đáng thương trở thành cái hùng tráng, đáng trân trọng ở những người lính. Bên cạnh đó, tác giả đã đối lập vẻ tiều tụy bên ngoài với chí khí “giữ oai hùm” bên trong những người lính, làm cho hình tượng người lính toát lên vẻ bi tráng.

Đồng thời, hình tượng người lính còn hiện lên với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

Nhớ về những người lính, tác giả không chỉ nhớ tới vẻ đẹp của họ trên bước dường hành quân mà ông còn nhớ tới cái chết bi tráng của họ.

Với việc sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh qua các từ ngữ “rải rác”, “chẳng tiếc đời xanh” tác giả đã làm giảm đi sự đau thương và nhấn mạnh, làm nổi bật tinh thần quả cảm, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Dường như, những người lính Tây Tiến đã ra đi trong tư thế bình thản, nhẹ nhàng, bởi họ ra đi khi đã thực hiện sứ mệnh của đời mình, góp sức mình cho Tổ quốc, cho đất mẹ yêu thương. Thêm vào đó, tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên để làm nổi bật tầm vóc và sức mạnh của con người. Tác giả đã lí tưởng hóa cái chết của những người lính, làm cho cái chết ấy trở nên đẹp hơn, sang trọng hơn – “áo bào thay chiếu anh về đất”. Như vậy, cái chết của những người lính Tây Tiến mang nét buồn nhưng không sầu thảm, cái buồn ấy hòa trong vẻ đẹp bi tráng. Họ chết nghĩa là họ về với đất mẹ yêu thương. Và cái chết ấy của các anh được cả đất trời, thiên nhiên đưa tiễn “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” – một sự tiễn đưa lớn cho một cái chết lớn.

Nhớ về thiên nhiên, về những người lính Tây Tiến thật nhiều, để rồi bài thơ khép lại bằng một lời thề son sắt, một nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả với Tây Tiến

“Mùa xuân ấy” không chỉ là mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời mà còn là mùa xuân của những kỉ niệm – mùa xuân năm 1947 và là tuổi trẻ của những người lính. Bởi vậy, nhớ về mùa xuân ấy, tác giả vẫn còn vẹn nguyên một lời thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Đó là lời thề của những người lình Tây Tiến – lời thề sẽ luôn nhớ, luôn khắc ghi những ngày tháng đẹp nhất của đoàn quân Tây Tiến – một đoàn quân cứu nước đã đi vào lịch sử dân tộc như một bài ca không thể nào quên.

Tóm lại, bài thơ Tây Tiến đã khắc họa thành công hình tượng những người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên miền Tây vừa hiểm nguy, dữ dội vừa kì vĩ, thơ mộng. Đồng thời, qua đó cũng giúp chúng ta thấy rõ ngòi bút tài hoa và tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn, đa tình của Quang Dũng.

dàn ý tây tiến

dàn ý bài tây tiến

phân tích tây tiến

tây tiến dàn ý

dàn bài tây tiến

dàn ý bài thơ tây tiến

dàn ý phân tích bài thơ tây tiến

Bình Luận Facebook

.

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tây Tiến

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến

Cảm nhận của em về bài thơ Tây Tiến – Thơ ca chống Pháp, chống Mỹ nói nhiều về hình ảnh người lính. Có người lính lạc quan ngồi “xe không kính” trong thơ Phạm Tiến Duật, có người lính bình lặng gác súng trong thơ Chính Hữu… Nhưng với tôi người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là đẹp hơn cả. Bài thơ ấn tượng trong cả nội dung và hình thức thể hiện.

Quang Dũng (1921-1988) là cây bút vô cùng tài hoa, phóng khoáng, lãng mạn. Bài thơ “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Khi đó, nhà thơ vừa rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại đơn vị khác đã nhớ và viết lên bài thơ này. Bài thơ không chỉ vẽ lên khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà còn khắc họa hình ảnh người lính vô cùng bi tráng.

Bài thơ cất lên bởi một tiếng gọi tha thiết, đầy âm hưởng vang vọng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Tiếng gọi tên sông Mã, tên đoàn quân Tây Tiến gợi về một mảng kí ức sâu thẳm trong tâm hồn. Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thời chống Pháp thành lập năm 1947, hoạt động chủ yếu ở vùng biên giới Việt-Lào. Nhiệm vụ của binh đoàn là phối hợp với bộ đội Lào, tiêu hao sinh lực quân Pháp ở vùng Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam.

Câu thơ thứ hai với điệp ngữ “nhớ”, gieo vần lưng “rồi”-“ơi”, vần chân “ơi”-“với” tạo cảm giác như một tiếng gọi vô cùng thân thương, vang vọng. Tác giả như đang gọi về những năm tháng gian khổ, hi sinh mà nghĩa tình.

Nỗi “nhớ chơi vơi” ở đây cũng rất đặc biệt. Nỗi nhớ ấy không thể cân, đo, đong, đếm nhưng lại vô cùng da diết, ám ảnh. Hơn nữa, nối nhớ như đang hiện lên trùng trùng điệp điệp, mơ hồ như sương núi, phảng phất như mưa rừng.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Một loạt các địa danh được tác giả liệt kê như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông. Nó gợi về những tháng ngày đoàn binh hoạt động trải dài từ Sơn La, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa (Lào). Đó là tên những ngọn núi, con sông, tên bản làng… mà họ đã đi qua. Đó cũng chính là không gian thấm đượm nghĩa tình, gắn bó. Những mảnh đất xa xôi, hẻo lánh, chưa có dấu chân người hiện ra trước mắt người đọc vô cùng hiểm độc, nguy nan thông qua các từ gợi hình: sương lấp, khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, ngàn thước, mưa xa khơi.

Trong khi đó, hình ảnh người lính thì hiện lên trong tình trạng “đoàn quân mỏi” và “súng ngửi trời”. Đoàn quân mỏi mệt, đuối sưc giữa trời đất hoang sơ, lạnh giá. Làm sao mà không mỏi cho được giữa “rừng thiêng nước độc” đầy sương giá, sườn dốc, vực sâu, mưa mù đây? Chi tiết “súng ngửi trời” dường như lại lật ngược tâm trạng. Mỏi mệt là thế, nhưng người lính vẫn như đang đứng ở nơi cao nhất, mũi súng có thể chạm tới bầu trời. Người lính tựa như đang làm chủ không gian, làm chủ hoàn cảnh.

Người lính tiếp tục xuất hiện trong tình cảnh hiểm nghèo:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Người lính lúc này đã “không bước nữa” và “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Họ đã kiệt sức. Họ trở về với đất mẹ. Nhưng điều đặc biệt là, Quang Dũng nói về cái chết thật nhẹ nhàng mà xúc động biết mấy. Người lính phải bỏ lại cả tuổi xuân, cuộc đời nhưng họ tựa như chỉ vừa đi vào giấc ngủ bình yên. Trong giấc mơ đó chỉ còn hình ảnh bình dị, thân thương. Đó là hình ảnh nấu cơm chiều đầy khói tỏa của bản làng. Đó là hình ảnh xôi nếp thơm mùi quê hương. Đó là hình ảnh “em” – người con gái miền Tây khéo léo, tần tảo, thủy chung. Con người bình yên, nhưng thiên nhiên lại gào thét. Thác cũng giận dữ trước cuộc chiến tranh phi nghĩa cướp đi cuộc đời của bao con người.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội đuốc hoa rực rỡ ánh sáng và đậm tình quân – dân. Một loạt các từ diễn tả khung cảnh đêm hội được tác giả sử dụng rất hiệu quả như: bừng, đuốc hoa, xiêm áo, khèn lên, man điệu, e ấp, nhạc, hồn thơ. Bức tranh đêm hội đậm chất thi, ca, nhạc, họa và cả tình cảm vô cùng ngây thơ, trong sáng của những người lính.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”Bức tranh thiên nhiên từ đêm hội đuốc bất ngờ chuyển sang Tây Tiến kì ảo trong buổi chiều sương. Thiên nhiên với những bông lau trắng như đang đung đưa hai bên bờ tiền sử, soi bóng xuống mặt hồ. Còn con người cũng đẹp tương xứng với bức tranh thiên nhiên đó. Và rồi qua rất nhiều cung bậc cảm xúc của nỗi nhớ thơ mộng, hiện thực một lần nữa ùa về:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá giữ oai hùm.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Đến đây, sự khắc nghiệt của bão lửa chiến tranh và thiên nhiên độc hiểm càng trở nên khủng khiếp. Bệnh dịch, thời tiết khắc nghiệt, đời sống vật chất thiếu thốn khiến đoàn binh “không mọc tóc”, nét mặt xanh xao “giữ oai hùm”. Ấy vậy mà người lính đâu đó vẫn chan chứa tình thương. Người lính luôn đau đáu hướng về quê hương xa xôi, nhìn về bên kia biên giới để mà mơ “dáng kiều thơm” – những người con gái sắc sảo, thảo thơm đất Hà Thành. Vì tình yêu quê hương đất nước, vì ai đó đang ở nơi xa ngóng chờ mà người lính cầm súng bảo vệ cho họ bầu trời bình yên.

Với người lính Tây Tiến, cái chết không đáng sợ. Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” miêu tả những nấm mồ rải rác của những người đồng đội đã hi sinh nơi biên giới đất trời. Những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường chỉ có độc manh chiếu quấn quanh rồi đắp nắm đất làm nơi an nghỉ. Nghiệt ngã nhưng người lính lại vô cùng quật cường, “chẳng tiếc đời xanh”. Xa xa, tiếng thác dội của con sông Mã có dòng chảy “ngược” vẫn đang “gầm lên khúc độc hành”. Âm thanh kết thúc bài thơ thật bi tráng!

Bài thơ “Tây Tiến” là khúc ca bi tráng về người lính thời chống Pháp cũng đã thể hiện sự tài hoa của ngòi bút nhà thơ Quang Dũng. Em đã yêu người lính từ những câu thơ như thế!

Họa Tâm

Cảm Nhận Bài Thơ Tây Tiến Của Quang Dũng

Cảm nhận bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Mở bài:

Tây Tiến là tác phẩm tiểu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bài thơ là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về con người và thiên nhiên Tây Bắc ở một thời kì gian khổ mà oai hùng. Tất cả đều được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn, nặng tình với quê hương, đất nước bằng bút pháp tài hoa, độc đáo.

Thân bài:

Quang Dũng vốn là đại đội trưởng của đơn vị chiến đấu Tây Tiến, một đơn vị có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ.

Sông Mã là mạch nguồn của sự sống, chạy suốt theo các chặng hành trình của đoàn quân Tây Tiến; là chứng nhân lịch sử, gắn bó với lính Tây Tiến, chứng kiến niềm vui nỗi buồn, ghi dấu những chiến công, cả những mất mát, hi sinh… “Xa rồi” diễn tả cảm xúc nuối tiếc, lưu luyến, bâng khuâng…  Lời gọi tha thiết “Tây Tiến ơi” vang lên biết bao yêu thương, trìu mến, trong lòng nhà thơ, Tây Tiến không chỉ là tên gọi của một đơn vị quân đội mà như một thực thể sinh động, có tri giác, có cảm xúc…

 Câu thơ sử dụng rất nhiều âm tiết mở tạo dư âm vang vọng. Lời gọi vọng qua không gian, thời gian dội vào quá khứ, dội vào miền thẳm sâu kí ức. Từ “nhớ” được lặp lại 2 lần để nhấn mạnh khắc sâu nỗi niềm của nhà thơ. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vô hình, vô định, lơ lửng giữa thinh không, làm cho lòng người day dứt, hoang mang như mất đi điểm tựa… Quang Dũng nhớ về Tây Tiến trước hết là nhớ rừng nhớ núi, nhớ những chặng đường mà đoàn quân đã đi qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. Hai tiếng “chơi vơi” dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp.

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá. Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Thông qua cách sử dụng một loại địa danh, gợi cảm giác xa xôi, hoang dã, cách dùng từ bạo khoẻ, cách phối âm để tạo giọng điệu lạ…. Quang Dũng vừa khắc hoạ được sinh động cảnh núi rừng hiểm trở vừa diễn tả được nỗi vất vả, chất tinh nghịch của người lính. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

Thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên với nét hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội. Khí hậu miền Tây khắc nghiệt là một trở lực lớn đối với người lính Tây Tiến vốn chủ yếu là những sinh viê Hà Nội. Có những con đường hành quân chìm lấp trong mịt mù sương lạnh: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Địa hình lại vô cùng hiểm trở, cheo leo: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/Heo hút cồn mây súng ngửi trời/Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Hàng loạt địa danh với cái tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch) âm điệu của những cái tên riêng này cũng trúc trắc, gợi ấn tượng về một miền xa lạ, hoang vu…

Từ “dốc” lặp 2 lần như tạo hình một khung cảnh núi non trùng điệp. Các từ láy giàu sức tạo hình (khúc khuỷu: gấp khúc đột ngột, độ gấp hẹp; thăm thẳm: sâu, hẹp, âm u, lạnh lẽo; heo hút: thưa, vắng, lạnh lẽo, âm u). Trên trời, mây nổi thành cồn, tạo hình độ cao của núi, núi vươn đến tận trời mây, mây sà xuống mặt đất. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay.

Súng ngửi trời là một cách nói nhân hóa, rất hiệu quả trong việc tạo hình độ cao của dốc núi: núi cao gần chạm đến mây trời, khoảng cách với bầu trời chỉ trong tầm mũi súng. Cách ngắt nhịp lẻ (4/3) truyền thống của thể thơ bảy chữ ở đây còn đảm nhiệm thêm một chức năng đặc biệt cho thơ: chức năng tạo hình. Những câu thơ như Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm; Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống… mang đậm chất hội họa với những đường nét rắn rỏi, góc cạnh. Ba câu thơ “Dốc lên… ngàn thước xuống” được kết cấu bằng rất nhiều thanh trắc, nhiều phụ âm cuối là âm tắc góp phần khắc họa một thiên nhiêm Tây Bắc trắc trở, hiểm nguy. Câu thơ đọc lên nghe nhọc nhằn như tiếng thở nặng nhọc của người lính trên đường hành quân Tây Tiến (Nguyễn Đăng Mạnh)

Đoàn quân Tây Tiến cất bước, trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt.

Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, nhiều âm tiết mở diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng, làm dịu đi những đường nét sắc cạnh của bức họa thiên nhiên miền Tây Bắc tổ quốc. Người đọc dường như cũng cảm nhận được cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái của những người lính Tây Tiến – sau một chặng đường vượt núi qua đèo, đứng trên đỉnh núi, tầm mắt trải ra bốn bề, ngắm nhìn những bản làng ẩn hiện trong màn mưa…

Miền không gian Tây Bắc hoang sơ dữ dội được ngắm nhìn bằng con mắt của người nghệ sĩ – chiến sĩ, không vương chút cảm giác chán nản, bi thương mà trái lại là một cảnh tượng đẹp, hùng vĩ, nhiều thử thách. Cảm quan ấy còn cho thấy nghị lực kiên cường, ý chí sắt đá của những người lính trong những cuộc hành quân vệ quốc vĩ đại. Những nhọc nhằn gian khổ không làm khuất lấp đi tâm hồn lãng mạn, đa tình của người lính (hoa về trong đêm hơi, mùa em).

Thiên nhiên khắc nghiệt đôi khi còn được nhìn bắng con mắt tinh nghịch, táo bạo của những chàng trai Hà Nội: súng ngửi trời, cọp trêu người. Miền Tây Bắc tổ quốc cũng là nơi ghi dấu những mất mát, hi sinh. Nhưng sự hi sinh ấy không chút bi thương mà trái lại rất nhẹ nhàng, thanh thản:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm   cọp trêu người.

Đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, người lính không bao giờ lùi bước. Các anh vẫn nối chân đồng đội đi tới, kiên nhẫn và bình tâm cho đến khi nào kiệt sức, gục ngã xuồng:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Cái chết đối với các anh nhẹ tựa lông hồng. Những chàng trai trẻ quyết chí ra đi cứu nước thì đâu màng đến chuyện sống chết. Cái chế ập đến rất nhanh, đưa các anh về phía bên kia thế giới. Cái chết cướp đi sự sống nhưng không thể nào khuất phục được tinh thần quả cảm của những người lính kiên trung.

Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội. Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người. Không gian, thời gian ấy được đo đếm bằng những hiểm họa đáng sợ.:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

Vẻ hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc đâu chỉ trải rộng, ngập tràn trong không gian mà còn được đo đếm qua thời gian. Thiên nhiên Tây Bắc đâu chỉ có địa hình trắc trở, gian lao mà mỗi thời khắc đều ẩn chứa những mối đe dọa, những hiểm nguy bất ngờ (Chiều chiều…cọp trêu người). Thời gian “chiều chiều”, “đêm đêm” bất chừng, vô định. Trong không gian ấy, biết bao mối hiểm nguy chết người ngày đêm rình rập, sẵn sàng tiêu diệt con người bất cứ lúc nào.

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này – một miền núi rừng âm u với thú dữ đe dọa con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay.

Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch: “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.” (Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.

Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên.

Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.

“Lao xao sóng vỗ ngọn tùng Gian nan là nợ anh hùng phải vay.“

Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người.

Sau những hiểm nguy gian khó, vượt qua thử thách khốc liệt nơi rừng sâu núi thẳm, người lính Tây Tiến vẫn cháy bỏng một khát vọng về cuộc sống gian đình yên bình, đầm ấm:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,  mùa em thơm nếp xôi.

Cơm lên khói, thơm nếp xôi: gợi cảnh tượng thân thương, ấm cúng của gia đình. Đoạn thơ đầu mở ra bằng nỗi nhớ và kết lại cũng bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ như cuộn xoáy, đong đầy trong hồn người nay đã rời xa. Hai câu cuối của đoạn thơ này đem đến cảm giác yên bình, thanh thản, thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên.

Bắt nhịp từ những lần nghỉ chân bên bản ấm áp tình quân dân, người lính nghĩa về những kỉ niệm đẹp trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây Bắc:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên   nàng e ấp, Nhạc về   xây hồn thơ.

Cảnh đêm liên hoan là một thế giới mĩ lệ, tràn đầy nhạc và thơ, đường nét và sắc màu. Cách chơi chữ rất nghịch ngợm: “hội đuốc hoa” (đuốc hoa = hoa chúc) mở ra không gian rực rỡ, ngập tràn ánh sáng. Ánh sáng đột ngột bừng lên chói lòa soi sáng vùng rừng thẳm. Không gian đâu chỉ có ánh sáng rực rỡ mà còn có tiếng khèn rộn ràng và những vũ điệu mê say, ngây ngất. Giữa khung cảnh lung linh, mộng mị con người e ấp, tình tứ; thiên nhiên thơ mộng, tươi mát (khác xa sự hiểm trở, dữ dội ở đoạn đầu). Đây chính là vẻ đẹp của phương xa, xứ lạ có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui.

Hai tiếng “kìa em” vừa ngỡ ngàng vừa mê say, vui sướng trước vẻ đẹp của những nàng thôn nữ yêu kiều. Tiếng gọi làm cho cảnh tượng như sống động trước mắt. Trong thời khắc ấy, những người lính đã hóa thành những người lữ khách đa tình. Lính Tây Tiến còn là những chàng trai mang tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, hào hoa. Nhập cuộc, hòa mình say sưa theo êm điệu dìu dặt, lính Tây Tiến đưa hồn đến với những mộng ước ngọt ngào:Nhạc về  xây hồn thơ.

Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời.

Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

Ở đây, Quang Dũng đặc tả hình ảnh, dáng vẻ của người lính: “không mọc tóc”. Hình ảnh chân thực, gây ấn tượng mạnh mẽ. Cách nói cứng cỏi, ngang tàng, thể hiện tư thế chủ động. Câu thơ nghe ung dung, hào sảng, đậm chất lính. Đây là hậu quả của những trận sốt rét rừng hầu như người lính nào cũng phải trải qua, trong hồi ức của lính Tây Tiến, đoàn quân “đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều” (Trần Lê Văn). Rừng thiêng nước độc, thuốc men thiếu thốn, lính Tây Tiến đa phần da xanh, tóc rụng (như Tố Hữu từng miêu tả: Giọt giọt mồ hôi rơi / Trên má anh vàng nghệ hay trong Đồng chí, Chính Hữu viết: Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi).

Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợt nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:

“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật, Đâu còn tươi nữa những ngày qua.”

Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm.

Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ.

Cách so sánh lạ không chỉ thể hiện sinh động, chân thực hình ảnh lính Tây Tiến mà còn bộc nét hóm hỉnh và lạc quan trong tâm hồn nhà thơ. Lính Tây Tiến ốm mà không yếu. Hai nét phác thảo đặc tả chân dung lính Tây Tiến (không mọc tóc, xanh màu lá) đã tỏ rõ khí phách hào hùng đồng thời là đòn bẩy cho việc khắc họa thế giới nội tâm đa dạng mà thống nhất. Câu thơ biểu hiện sức mạnh và vẻ đẹp nội tâm, khí phách ngang tàng, mạnh mẽ, oai hùng, sự phẫn nộ, sôi sục của của người lính luôn hướng về nhiệm vụ.

Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Những mơ mộng tình yêu, niềm khát vọng hạnh phúc được biểu đạt bằng kiểu tư duy và ngôn ngữ của người trí thức trẻ. Đó chính là động lực đưa người lính vượt qua gian khổ, hi sinh – sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ vượt qua bom đạn trở về. Ở đầy, tâm hồn người lính có sự thống nhất, hòa quyện giữa tình yêu tổ quốc và tình yêu cá nhân. Sự hòa quyện đó làm nên chất lãng mạn, men say lí tưởng cho bài thơ, làm cho hình ảnh người lính trở nên chân thực hơn, người hơn, đời hơn. Lính Tây Tiến, họ không phải là những cỗ máy giết người mà là những người chiến sĩ trong tim cháy bỏng niềm khát khao tự do, khát vọng hạnh phúc và sẵn sàng tranh đấu, hi sinh cho tương lai của dân tộc, cho hạnh phúc của chính mình.

Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Nhiều từ ngữ Hán Việt (biên cương, viễn xứ, độc hành) gợi không khí trang trọng, thiêng liêng khi nói về sự hi sinh của người lính. Áo bào là cách nói để làm sang, trang trọng hóa sự hi sinh, người lính trở thành người anh hùng trận mạc. Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cách nói giảm: “về đất giúp tránh đi sự mất mát, bi thương; thể hiện sự ra đi thanh thản, vô tư sau khi đã tận hiến tuổi xuân, sau khi làm tròn nghĩa vụ; ghi tạc sự hi sinh thầm lặng, vô danh mà lớn lao, đáng kính phục. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” khẳng định hiện thực chỉ là cái nền cho lí tưởng thăng hoa. Chiến tranh khốc liệt cũng không dập tắt được khát vọng dâng hiến, xả thân, không thể làm lung lay tinh thần “nhất khứ bất phục phản” của người tráng sĩ. Thủ pháp đối lập ở đây có tác dụng như một chiếc đòn bẩy, yếu tố trước là điểm tựa làm bật lên yếu tố sau. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng.

Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Dòng sông thiêng liêng tiễn đưa các anh ra đi chiến đấu lại đón các anh trở về:

Nhà thơ đã khắc họa thế giới tâm hồn người lính vừa có khí phách hào hùng của người tráng sĩ, vừa có chất lãng mạn, bay bổng của người nghệ sĩ. Nói về cái chết, sự mất mát, hi sinh; miêu tả những nấm mồ lãnh lẽo nơi đất khách quê người mà không mang cảm giác ủy mị, bi thương mà rất nhẹ nhàng, thanh thản… Cảm hứng bi tráng còn đến từ sự hòa điệu giữa thiên nhiên và con người: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Thanh âm dữ dội, chất chứa đau thương của đại tự nhiên thét lên “khúc độc hành”, khúc ca bi tráng tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ

Bốn câu thơ cuối là cảm xúc của nhà thơ khi đã rời xa đơn vị:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

“Thăm thẳm” không chỉ diễn tả khoảng cách về không gian mà còn nói đến khoảng cách thời gian. “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” tuy vẫn rời xa nhưng sự gắn bó tâm hồn với Tây Tiến là vĩnh viễn. Câu thơ gợi nhớ thơ Chế Lan Viên (Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn). Một lần nữa, nhà thơ tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.

Bốn câu thơ như một lời khẳng định khảng khái, dứt khoát, một lời thề son sắt thủy chung với Tây Tiến, đồng thời khắc họa hình ảnh người lính với tâm hồn đa cảm. Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.

Kết bài:

Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy. Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mãi mãi là một khúc tráng ca hào hùng gợi nhớ về một thời kì chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng hào hùng, oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lực, bảo vệ tổ quốc.

Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến qua bài thơ Tây Tiến

Mở bài:

Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất của nhà thơ Quang Dũng. Với cảm hứng và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.

Thân bài:

Đọc bài thơ, có thẻ thấy, cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài, người viết không che giấu những gian khổ, hy sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều, nó được thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng (bi tráng)

 xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.  sương lấp đoàn quân mỏi,  hoa về trong đêm hơi.

Câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết,sâu thẳm, mênh mang, lan toả trong không gian và kéo dài suốt chiều dọc thời gian như một lời giục giã, thôi thúc cảm hứng sáng tác của nhà thơ và cũng là câu thơ thể hiện cảm xúc chủ đạo của toàn bài là câu cảm thán Sông Mã…, điệp từ nhớ, từ láy chơi vơi.

Trong dòng hồi tưởng của Quang Dũng hiện về hình ảnh của thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến trên đường hành quân.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, Nhà ai   mưa xa khơi.

Trong câu thơ: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm thanh trắc chiếm ưu thế gợi liên tưởng những con đường đèo dốc gập ghềnh, cheo leo, hiểm trở.

Sử dụng từ ngữ độc đáo kết hợp nghệ thuật nhân hóa “súng ngửi trời” mở ra một không gian heo hút của núi rừng Tây Bắc _ Mây, sương núi cuộn lại thành “ cồn mây”; người lính Tây Tiến hành quân trên những con dốc cao vời vợi, súng như chạm phải mây trời. Cụm từ “ súng ngửi trời” còn thể hiện nét dí dỏm, tinh nghịch của những người lính trẻ – cái “ chất lính” của những chàng trai Hà thành.

Đoạn thơ mang giá trị tạo hình với sự phối hợp nghệ thuật độc đáo tạo tính nhạc và chất họa trong thơ – “Thi trung hữu họa”. Nhà thơ không chỉ tả cảnh mà cảm nhận cái hồn của thiên nhiên Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến, bằng hồn thơ lãng mạn tài hoa và tình cảm thiết tha đối với Tây bắc – nơi lưu dấu kỉ niệm một thời và mãi mãi.

Thiên nhiên Tây Bắc trở nên hiền hòa, bình yên : Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Với thanh bằng chiếm ưu thế trong câu thơ, tác giả cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc ở một góc độ khác. Những bản làng của người Thái như bồng bềnh, ẩn hiện trong làn mưa nhạt nhòa…Thiên nhiên Tây Bắc mang vẻ đẹp thơ mộng, hiền hòa, bình yên.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa, Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm   cọp trêu người.

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính. Chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình.

Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thừ thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách khác mà dường như vẫn chẳng nề hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.

Hai câu thơ đầu đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn.

Hình ảnh người lính in hình trên nền thiên nhiên Tây Bắc, nổi bật với vẻ đẹp của hình tượng thơ mang màu sắc lãng mạn. Nghệ thuật nói giảm”bỏ quên đời” không chỉ thể hiện sự trân trọng của nhà thơ đối với đồng đội mà còn ngợi ca sự hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến. Họ xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, họ sinh cho Tổ quốc một cách nhẹ nhàng, thanh thản.Quang Dũng nói về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự gian khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả người chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng, nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng. Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,  mùa em thơm nếp xôi.

Hồi ức về sự  đãi ngộ ân cần của nhân dân Tây Bắc đối với người lính hòa trong nỗi nhớ thiên nhiên. Mùi hương nếp xôi vương vấn trong dòng hồi tưởng như nghĩa tình của nhân dân Tây Bắc đối với người lính, mãi mãi in dấu trong tâm hồn nhà thơ của xứ Đoài.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hồn ta dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính.

Hình ảnh “ bữa cơm nếp xôi”, mùi hương nếp xôi tượng trưng cho tình sâu nghĩa nặng của nhân dân Tây Bắc khơi gợi cảm xúc cho nhiều nhà thơ:

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Đoạn thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên Tây Bắc, sự gắn bó với đồng đội trên những chặng đường hành quân và tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

“Hội đuốc hoa” là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như được chứng kiến lễ hội đông vui. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Hai tiếng “kìa em” vừa ngỡ ngàng, vừa sung sướng, nó diễn tả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt âm thanh tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống yên bình như chẳng biết đến chiến tranh.

Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.

Hình ảnh “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” là hình ảnh đẹp. thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn tiếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay tâm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, “xây hồn thơ”. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời linh phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện bình thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với tâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng chính vì vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một “dáng thuyền độc mộc”, họặc một bông hoa trên dòng nước lũ.

Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vào tâm hồn người lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới: Đoàn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trờ nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời vì sốt rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá nguỵ trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng

Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa”.

“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ.

Hình ảnh thơ biểu cảm: chiều sương, dáng người, hồn lau, hoa đong đưa gợi vẻ đẹp thơ mộng của sông nước miền Tây Bắc. Không phải là một buổi chiều nào khác mà là một buổi “ chiều sương” mờ ảo ở núi rừng để chỉ nhìn thấy “dáng người” thấp thoáng trong sương, Không là lau lách mọc ven sông mà là “ hồn lau” vướng vấn, Hoa không trôi theo dòng nước như quy luật tự nhiên mà “ đong đưa” trên dòng lũ ngập ngừng không muốn trôi xa. Thiên nhiên miền Tây Bắc không còn sự khắc nghiệt, dữ dội với đèo cao dốc thẳm mà thơ mộng hữu tình với với cảnh sông nước mênh mang, huyền ảo

Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:

“Sương đầu núi buổi chiều như dội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”

(Chinh phụ ngâm)

Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:

“Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn mùa thu sắp đi Ngàn lau xao xác trắng”.

(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)

Trên nền sông nước diễn ra buổi tiễn đưa đầy lưu luyến khi các cô gái người Thái đưa những chiến sĩ Tây Tiến sang sông chuyển địa bàn hoạt động trên những chiếc thuyền độc mộc. Người ra đi dõi mắt trông theo dến khi chỉ còn thấy “dáng người” ở lại trong sương chiều. Không chỉ có con người lưu luyến mà thiên nhiên cũng quấn quýt với con người.

Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.

Đoạn thơ gợi lại một chuỗi hồi ức về kỉ niệm của tình quân dân thắm thiết, tái hiện khung cảnh thiên nhiên sông nước miền Tây Bắc. Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh. Những câu thơ bảy chữ là sự kết hợp giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, thể hiện tài năng nghệ thuật của nhà thơ Quang Dũng.

Tây Tiến đoàn binh  ,  dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Ngoại hình kỳ lạ, tạo ấn tượng đậm nét: không mọc tóc, xanh màu lá, dữ oai hùm,… Hình ảnh “không mọc tóc” có thể hiểu theo hai cách: Người lính phải chịu đựng những thiếu thốn, bệnh tật ( nhất là bệnh sốt rét rừng); Hình ảnh của đoàn quân “vệ trọc” thời kháng chiến chống Pháp, giữ nhiệm vụ quan trọng : đánh giáp lá cà với giặc.

Hình ảnh “quân xanh màu” cũng có thể hiểu theo nhiều cách. Màu xanh của làn da do phải chịu đựng những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật khi hoạt động trong vùng “rừng thiêng nước độc” ( Tố Hữu:” “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”). Màu xanh ấy là màu của bộ quân phục, của những vòng lá ngụy trang.

Hình ảnh “dữ oai hùm” khắc họa ngoại hình kì lạ, có phần dự tợn nhưng toát lên vẻ đẹp oai phong lẫm liệt. Ngoại hình của người lính Tây Tiến phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật mà người lính phải chịu đựng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Ngoại hình thể hiện phẩm chất của người lính. Đó là tinh thần chịu đựng, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tư thế oai phong, hiên ngang.

Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy. Thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, “quân xanh màu lá” nhưng vẫn “dữ oai hùm”. Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng một sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe dọa của cọp dữ thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ảnh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến sĩ bằng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đấu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, nhưng họ vẫn chất chứa những tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ.”Dáng kiều thơm” gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ “thơm” được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ cùa Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của ngựời thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm hồn phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. , anh về đất, .

Nghệ thuật nói giảm: Mồ viễn xứ, chẳng tiếc đời xanh, về đất,… Người lính Tây Tiến sẵn sàng hy sinh cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, họ xem cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, quyết tâm thực hiện mục đích cao cả của đời mình và hiến dâng sự sống cho đất nước, cho dân tộc với tinh thần nhất khứ bất phục hoàn, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

Hình ảnh “áo bào thay chiếu” phản ánh hiện thực bi thương. Người lính hi sinh nơi xứ người, không một manh ván, tấm chiếu để tẩm liệm, đồng đội chôn họ trong chính chiếc áo lính. Cách dùng từ “áo bào” của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính. “Áo bào” chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa, “da ngựa bọc thây” là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ lả hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về.

Hình ảnh đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với đồng đội, nhà thơ đã khoác cho người lính Tây Tiến chiếc áo bào của những chiến tướng ngày xưa mặc khi ra trận. Họ hi sinh trong tư thế hiên ngang, hào hùng. Từ ngữ Hán – Việt : biên cương, chiến trường, biên giới…lời ngợi ca, sự trân trọng của nhà thơ trước tấm gương hi sinh của người lính.

Cái chết của người lính Tây Tiến mang tính chất bi hùng, bi tráng. vẻ đẹp mang tính sử thi của hình tượng người chiến sĩ trong một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng anh dũng, quật khởi.

Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, Hồn về   chẳng về xuôi.

Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”).

Họ có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã.

Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Kết bài:

Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí “nhất khứ bất phục phản” (một ra đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của cả một thời đại. Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể nào quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.