Xuất Xứ Của Bài Thơ Qua Đèo Ngang / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có 2 nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm…

Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang ” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc , kín đáo của nhà thơ.

Nhà thơ mở đầu bài thơ bằng việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.

Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa…

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Cảnh gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ …. Trời đã xế chiều, bóng đã dần tàn … cảnh tượng ấy rất phù hợp với tâm trạng của bà Huyện Thanh Quan lúc này . . Đó là nỗi u hoài, gợi buồn trước sự đổi thay của xã hội . Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói :

“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ “

Cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy : Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả lại được hiển hiện trong hoạt động “chen chúc”. Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trãi. Nhà thơ quan sát tổng thể cảnh nơi đây. Con người xuất hiện. Nhưng con người càng tô đậm thêm sự buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao chon von, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi…

Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang . Nhưng đó không phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim đa đa . Mà nói cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ . Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một chế độ đã thối nát. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa , buồn bã . Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng .

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng . Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la . Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng”. Con người mang tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn. Thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ .

“Qua Đèo Ngang” là một bài thơ trữ tình đặc sắc . Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy được bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín . Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm . Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ , ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan .

Cảm Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, ngoài những nhà thơ nam tiêu biểu làm nên sự phong phú, giàu có của nền văn học Việt Nam thì còn có sự góp mặt của hai nữ thi sĩ, đó là bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Hai nữ thi sĩ này là những cây bút xuất sắc, để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị. Nếu ở Hồ Xuân Hương ta luôn thấy được một cái tôi cá tính, sắc sảo khi đả kích, châm biếm trực diện đối với xã hội và những người của giai cấp thống trị thì Bà Huyện Thanh Quan lại mang một chuẩn mực, khuôn mẫu của một nữ sĩ tài hoa. Trong đó, bài thơ “Qua đèo ngang” là một tác phẩm điển hình cho sự nhẹ nhàng và mẫu mực trong thơ của bà.

“Qua đèo ngang” là bài thơ viết về tình yêu dành cho quê hương, đất nước cũng như sự dãi bày một cách chân thành, xúc động tâm trạng thương nhớ, u buồn của nhân vật trữ tình khi nhớ về quê hương của mình, mà ở đây chính là Bà Huyện Thanh Quan viết về mình. Theo dòng chảy xuôi của cảm xúc, Bà Huyện Thanh Quan đã đi từ khung cảnh thiên nhiên, đất trời – cái nhân tố tác động đến tâm trạng, ngọn nguồn khơi gợi nỗi nhớ trong con người xa quê. Qua khung cảnh đó, nhà thơ tiếp tục dãi bày tâm trạng thương nhớ cũng sự nỗi cô đơn, lạc lõng của mình giữa nơi đất khách, quê người.

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa”

Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này khi đang trên đường vào Huế nhận chức “cung trung giáo tập” – tức là chức quan thực hiện nhiệm vụ dạy nghi lễ cho các phi tần và cung nữ. Đây là mệnh lệnh do nhà vua ban chiếu, vì vậy không thể từ chối mà chỉ có cách thực thi. Ta cũng có thể thấy nữ sĩ tài hoa này rất được trọng dụng, tin tưởng. Trở lại bài thơ, đây chính là khung cảnh, không gian trên đường Bà Huyện Thanh Quan đi nhận chức, “đèo ngang” là tên của một con đèo, cũng là nơi mà tác giả dừng chân nghỉ ngơi lấy sức, chuẩn bị cho cuộc hành trình tiếp theo. Ở đây, không gian của Đèo Ngang được nhà cảm nhận trong khung cảnh “chiều tà”, đây là thời khắc cuối cùng của một ngày, là ranh giới thời gian giữa ngày và đêm.

Nếu ban ngày nhịp sống hối hả, khẩn trương thì khi chiều tà thì cái nhịp sống ấy dường như ngưng đọng lại để nhường không gian cho sự nghỉ ngơi. Chiều tà cũng là thời khắc mà những con người trong gia đình đoàn tụ, xum vầy. Trong không gian rộng, vắng của chiều tà, trong thời khắc gợi nhắc về sự đoàn viên của gia đình ấy, con người xa quê như Bà Huyện Thanh Quan tất yếu cảm nhận được sự hoang vắng trong khung cảnh, cô đơn trong tâm trạng: “Cỏ cây chen đá lá xen hoa”. Nhà thơ đã hiệp vần các từ ngữ như: “đá”, “lá”, “hoa” để diễn tả sự um tùm, khăng khít của những cỏ cây hoa lá, từ đó cũng gợi ra sâu sắc cảm giác rợn ngợp, hoang sơ của không gian.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Điểm nhìn của nữ thi sĩ không chỉ dừng lại ở cảnh vật, mênh không gian mênh mông, choáng ngợp nhưng lại vắng vẻ, đìu hiu ấy. Cái nhìn của nhà thơ còn hướng đến những con người trong nhịp điệu của công việc, của cuộc sống. Đó chính là hình dáng “lom khom” của những người tiều phu, lom khom diễn tả được cái tư thế cần mẫn, chăm chỉ của những người tiều phu với công việc của mình. Trái ngược với không gian rợn ngợp, hoang vắng nơi Đèo Ngang, cũng là nơi nhà thơ đứng, thì không gian mà nhà thơ hướng tầm mắt đến, đó chính là không gian nhỏ hẹp của những con người, của những mái nhà “lác đác”. Từ láy “lác đác” diễn tả được khoảng cách thưa thớt của những mái nhà bên sông. Tuy nhiên, nếu cái không gian rợn ngợp của thiên nhiên khiến cho con người cảm thấy nỗi trống vắng, cô đơn thì không gian nhỏ, hẹp của con người lại khơi dậy mạnh mẽ nỗi nhớ gia đình, quê hương của tác giả.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Đến câu thơ này, nỗi lòng của nhà thơ được trải ra đầy tha thiết, đối tượng của nỗi nhớ ấy cũng được xác định, đó là nỗi nhớ quê hương “quốc quốc”, và nỗi nhớ gia đình nhỏ của mình “gia gia”. Ở trong câu thơ: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” , Bà Huyện Thanh Quan đã mượn một điển tích của Trung Quốc, đó là vua Thục bị mất nước, khi chết hóa thành con cuốc và đêm ngày cất tiếng kêu não nề “cuốc cuốc”. Mượn điển tích cổ này để nói về tâm trạng của mình, nhà thơ đã lột tả được thành công nỗi nhớ thương da diết của mình, nỗi niềm hoài tưởng về quá khứ tươi đẹp của đất nước. Từ nỗi nhớ đất nước, quê hương, nhà thơ hướng nỗi nhớ của mình đến một đối tượng cụ thể hơn nữa, da diết hơn nữa, đó là nỗi nhớ nhà “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

“Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Trong cuộc hành trình dài, nhà thơ thể hiện sự lạc quan trong tinh thần, dù là nơi đất khách nhưng với tâm hồn nhạy cảm của một người thi sĩ tài năng, dù không gian có rợn ngợp, hoang vắng nơi Đèo Ngang thì nhà thơ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp riêng của địa danh này, cũng như non sông gấm vóc của quê hương “Dừng chân đứng lại trời non nước”. Hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận được cái tươi đpẹ của non nước song nhà thơ vẫn chất chồng những tâm trạng riêng, tuy nhiên những nỗi niềm này nhà thơ chỉ giữ cho riêng mình: “Một mảnh tình riêng ta với ta”

Bằng tình cảm chân thực mà da diết, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện một cách xúc động tình yêu quê hương, gia đình của mình, đồng thời cũng thể hiện một tâm hồn thơ chất chứa những nỗi buồn da diết, mà nỗi buồn ấy không được nhà thơ thể hiện một cách thái quá, khoa trương mà cứ nhẹ nhàng, da diết ấp ủ cho chính mình. Nhưng chính sự dung dị, nhẹ nhàng ấy lại gợi ra bao nỗi xúc động cho người đọc.

Cảm Nhận Của Tác Giả Trong Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Ta được biết Qua đèo Ngang được viết trong một chuyến đi, được sáng tác theo kiểu “tức cảnh sinh tình”. Thiên nhiên qua con mắt của nữ thi sĩ đẹp nhưng ẩn chứa hoang vắng rợn ngợp, gợi nhớ xa xăm. Bởi thế Qua đèo Ngang còn được mượn để gửi gắm hồn mình, lòng mình, giãi bày nỗi niềm khắc khoải chưa biết tỏ cùng ai. Bởi thế, bà viết:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bài thơ Qua Đèo Ngang gây nức lòng người đọc qua bao thế kỉ. Ấn tượng không phải bằng lời văn nhẹ nhàng sâu lắng giàu cảm xúc mà còn bởi chính lối nói mà các thi nhân xưa thường dùng: tả cảnh ngụ tình.

Vẳng nghe chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

Buổi chiều mà lại là chiều tà gợi cho người ta thêm nhớ hơn. Nữ sĩ cũng vậy, khoảng thời gian ấy thích hợp nhất cho sự bộc lộ tâm trạng nhớ nhung khắc khoải. Lữ thứ chân bước vội cũng như cánh chim chiều mau cánh tìm chỗ trú ngụ, lũ trẻ chăn trâu gọi bạn hồi thôn. Không chỉ có trong bài thơ này, trong bài Chiều hôm nhớ nhà ta cũng bắt gặp tâm sự đó.

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Ráng chiều gợi tâm trạng nhớ thương. Hoành sơn vốn nổi tiếng hùng vĩ hoang sơ. Trong khung cảnh ấy trước mắt thi nhân có cỏ cây hoa lá chen chúc nhau tìm chút ánh sáng mặt trời. Một mình trên đỉnh núi non hiểm trở lại càng cảm thấy trống vắng. Mặc dù cảnh vật hữu tình: cỏ cây, hoa lá, sông nước, biển khơi… Có lẽ lòng nữ sĩ chợt nhớ, hay nói cho đúng hơn hình ảnh người thân, gia đinh, quê hương chợt hiện về. Đây cũng là lúc bữa cơm chiều đang đón đợi, cả nhà sắp tụ họp bên nhau… Vậy mà giờ đây một mình cất bước nơi đất khách quê người.

Đang nao lòng buồn bã, phía xa xa dưới chân đèo xuất hiện hình ảnh:

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Trong sự vắng lặng ấy xa xa nghe có tiếng kêu đều khoan nhặt man mác nhớ thương của quốc quốc, gia gia. Tương truyền sau khi vua Thục là Lưu Bị bại trận trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông chạy về thành Bạch Đế và mất tại đó. Sau khi mất Thục Đế đã hoá thành con chim quốc thể hiện niềm đau xót mất nước. Khung cảnh da diết tiếng chim kêu chiều buồn bã gợi ta nhớ những câu thơ:

Đây bốn bề núi núi

Hiu hắt vắng tăm người

Đèo cao và lũng hẹp

Dăm túp lều chơi vơi

Tiếng chim quốc, gia gia do chính bà cảm nhận hay là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn nữ sĩ. Đến đây nỗi lòng thi nhân đồng điệu với ông vua Thục muốn níu kéo những kỉ niệm xưa, hoài niệm về một thời dĩ vãng vàng son. Tiếng chim gợi nỗi niềm nhớ nước thương nhà đến nao lòng. Nhớ về gia đình, nhớ về đất nước – phải chăng chính là sự hoài niệm về triều đại nhà Lê mà bà từng sống. Nguyễn Du đã từng nói người buồn cảnh có vui đâu bao giờ trong hoàn cảnh này điều đó hoàn toàn hợp lí.

Khép lại bài thơ là cả một tâm trạng, một khối tâm trạng dồn nén:

Dừng chân đứng lại, trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Nhà thơ có tâm sự u hoài, đứng trước không gian vời vợi bao la: trời, non, nước. Khung cảnh càng rộng lớn thì con người càng bé nhỏ cô đơn. Và như vậy chỉ có ta với ta, mình với mình mà thôi. Ta là cá nhân nữ sĩ – con người của vật chất đối diện với ta – con người của tâm hồn.

Một mình đối diện với không gian cảnh vật, với cuộc sống và để rồi với chính mình. Trong lòng thi nhân chất chứa bao nỗi niềm biết chia sẻ cùng ai? Một mảnh tình riêng trong một khối tình rộng lớn có chăng mình lại nói chuyện với mình. Nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Đây là tâm sự của chính tác giả và cũng là tâm sự của những con người xót xa trước thế sự đổi thay, của những thế hệ từng sống với quá khứ, xót xa với thực tại.

Có rất nhiều những nhà thơ mượn cảnh để tả tình, nhưng có lẽ thành công nhất là Bà Huyện Thanh Quan. Hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm. Điều đáng nói ở đây là bà đã lựa chọn được những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để từ đó diễn tả tâm sự của chính mình. Trong bài thơ đã có đầy đủ cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng nhà thơ gửi gắm vào đó. Lời thơ nghe xúc động bồi hồi làm cho người đọc cũng băn khoăn day dứt.

Để tỏ lòng biết ơn đối với nhà thơ đã cho chúng ta những phút giây thật đẹp. Người đời đã đặt một tên làng, tên đường Bà Huyện Thanh Quan để ghi nhớ mãi tài năng cũng như tư tưởng tuyệt vời của thi nhân. Bài thơ mang tâm sự thời thế cuộc đời gây xúc động cho bao độc giả xưa nay.

Nêu Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Trong thơ ca Việt Nam có hai nữ sĩ đã ghi lại tên tuổi vào dòng văn học trung đại, đó là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu nói thơ của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại mang sự trầm lắng, sâu kín, hoài cảm, gửi gắm nỗi niềm vào lời thơ. Phong cách đó của bà đã làm ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm bà dành cho quê hương qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

“Bước đến Đèo Ngang, bóng xế tàCỏ cây chen đá, lá chen hoa“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà” “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Lom khom dưới núi, tiều vài chú“Lom khom dưới núi, tiều vài chú“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc“Dừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta” Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia” Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” Lác đác bên sông, chợ mấy nhàNhớ nước đau lòng, con quốc quốcThương nhà mỏi miệng, cái gia giaDừng chân đứng lại trời, non, nướcMột mảnh tình riêng, ta với ta”

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát, giọng thơ nhẹ, trầm lặng mang nét buồn sâu lắng. Nữ sĩ tài danh lần đầu xa nhà, đặt chân đến Đèo Ngang vào một buổi xế chiều, không gian khiến ai nghe cũng cảm giác buồn, gợi nỗi niềm riêng

Ngay từ đầu, cảnh vật ở Đèo Ngang đã hiện lên dưới ánh nắng chiều sắp tắt, thật hữu tình nhưng vẫn hoang vu, hiu vắng. Đó là khung hiện ra trong con mắt của người xa sứ mang theo vẻ buồn mênh mang. Khoảng khắc “xế tà” xuất hiện như để bộc lộ tâm trạng buồn của một lữ khách cô đơn trước không gian rộng mà heo hút, hoang sơ của Đèo Ngang

Điệp từ “chen” của tác giả làm cho cây cỏ lá hoa có sức sống mạnh liệt nhưng nơi đây còn hoang sơ, ít dấu chân người. Câu thơ cho em cảm xúc bâng khuâng, niềm mong ước đặt chân đến miền đất xa sôi này. Nơi đã khơi gợi niềm cảm xúc nhớ nhà của nữ sĩ. Khung cảnh ấy bất giác gieo vào lòng người đọc một ấn tượng trống vắng, lạnh lẽo cả không gian lẫn thời gian. Một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng lại đượm buồn. Người phụ nữ sang trọng, đài cát, ăn mặc theo lối xưa đang hướng đôi mắt buồn nhìn cảnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà lặng êm. Và khi bước chân lên đỉnh đèo, khung cảnh đã được mở rộng thêm

Giữa không gian mênh mông, trống trải của Đèo Ngang không phải là không tồn tại sự sống, vẫn có người, có chợ nhưng lại quá thưa thớt. Từ láy “lom khom, lác đác” cùng từ “vài, mấy” gợi vẻ ít ỏi, thưa thớt, cuộc sống ở đây hẳn còn khó khăn, vất vả. Sự tồn tại đó không làm cho không gian trở nên ấm cúng mà trái lại càng tăng thêm vẻ tàn tạ, hiu hắt của cảnh vật mà thôi! Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặc sắc nhất là phép đối làm đậm vẻ bâng khuâng, dào dạt trong lòng nhà thơ. Là người phụ nữ đoan trang ở chốn phố phường đông đúc mà giờ lại chứng kiến cảnh tượng trái ngược với khung cảnh hàng ngày được thấy nên cái buồn của cảnh đã bộc lộ cái buồn kết đọng trong lòng bà. Tất cả như hòa quyện cùng với tâm hồn của nhà thơ – một tâm hồn cô đơn, trống vắng vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Đến đây, em cảm nhận được một vẻ đẹp hoang sơ, heo hút buồn của Đèo Ngang qua con mắt của nhà thơ. Nữ sĩ đã thành công trong việc mượn cảnh tả tình, bày tỏ nỗi niềm hoài cổ, man mác buồn của mình. Cảnh buồn, người buồn, thậm chí cả những âm thanh vang vọng trong chiều tà cũng làm tăng thêm nỗi buồn da diết trong lòng kẻ xa quê

Tác giả khéo léo dùng phép chơi chữ “quốc – nước” “gia – nhà”. Âm thanh khắc khoải, da diết của tiếng chim kêu não nuột, nghẹn ngào hay tiếng lòng của nữ sĩ? Cảnh thể hiện kín đáo, nhẹ nhàng mà tha thiết, sâu sắc tình yêu, nỗi nhớ quê hương, gia đình. Nỗi niềm vời vợi nhớ thương của nhà thơ bất chợt bùng lên trong giây lát, để rồi lại trở về với cái vẻ hoang vắng vốn có của đất trời và sự cô đơn đến tuyệt đỉnh của chính nhà thơ làm xúc động lòng người

Cụm từ “dừng chân đứng lại” là nỗi ngập ngừng lưu luyến khi bước qua “ranh giới hai miền”, là sự đối lập khi đứng giữa đất trời mênh mông, con người trở nên nhỏ bé. Nỗi buồn của con người như cô đặc lại, không người chia sẻ, nỗi buồn được chính nhà thơ chịu đựng một mình. Tác giả đã khiến em nhận ra sự lẻ loi, bé nhỏ, cô đơn của nữ sĩ. Cụm từ “ta với ta” nghe thật cô đơn biết bao, nó diễn tả bà với chính mình, đó là sự cô đơn đến tộc độ, là nỗi buồn sâu thẳm. Nó khác hoàn toàn với “ta với ta” đầm ấm, vui tươi trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Đọc bài thơ, em đồng cảm với nỗi buồn sâu sắc của tác giả và nhận thấy một điểm đáng trân trọng trong tâm hồn người nữ sĩ tài danh, đó là tình yêu sâu nặng bà dành cho quê hương, đất nước. Bằng cách sử dụng nhiều nghệ thuật, bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả cảnh đẹp hoang sơ của đèo Ngang thưở trước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, nhớ nước thương nhà da diết của chính mình mà có lẽ chỉ có những người xa quê mới cảm nhận hết được. Đây là bài thơ đậm chất trữ tình, được đánh giá cao và thanh công nhất của Bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả cảnh đẹp hoang sơ của đèo Ngang thưở trước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, nhớ nước thương nhà da diết của chính mình mà có lẽ chỉ có những người xa quê mới cảm nhận hết được. Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, là tác phẩm hay trong dòng thơ trung đại Việt Nam. Em yêu thích ngòi bút ngôn ngữ rất nực trang nhã của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ đọng lại trong ta bao cảm xúc buồn mà đáng nhớ. Nó xứng đáng được người đời ghi nhớ và hoài lưu đến tận sau này