Xuất Xứ Của Bài Thơ Ngắm Trăng / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Cảm Nhận Bài Thơ Ngắm Trăng

Những trung tâm gia sư uy tín ở tphcm nhận ra Trăng từ lâu đã trở thành người bạn tri âm với nhà thơ. Trăng mang nỗi niềm nhớ cố hương vào thơ của Lí Bạch. Trăng mang niềm thương cảm Nho sĩ nghèo trong thơ Đỗ Phủ. Và trăng trong thơ Hồ Chí Minh là sự hòa quyện giữa chất thép và chất thơ. Ánh trăng muôn đời chỉ có một thế nhưng đi vào thế giới thi ca lại hiện lên muôn nghìn hình thái. Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh thể hiện ánh trăng tri kỉ, ánh trăng bầu bạn cùng con người trong những ngày gian lao làm cách mạng.

Ngắm trăng trích trong tập thơ Nhật kí trong tù. Bài thơ được sáng tác khi Bác Hồ bị giam vào nhà ngục Tĩnh Tây do bị chính quyền Trung Quốc nghi là gián điệp. Cuộc sống trong tù thiếu thốn, khốn khổ. Cách mạng Việt Nam lại vào thời kì sục sôi nhất, căng thẳng nhất. Trong lòng Bác hẳn nhiều bộn bề, lo toan. Trong hoàn cảnh ấy, nơi ngục tù tối tăm lại ánh lên một vầng trăng dịu nhẹ. Ấy là vầng trăng suy tư, vầng trăng của tâm hồn người chiến sĩ hòa quyện cùng tâm hồn thi nhân.

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà”

(Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Trung tâm gia sư tphcm thấy hoàn cảnh là giam cầm, trói buộc, kìm hãm con người. Nhưng sức sống vẫn vô hạn, vẫn rạo rực, dồi dào chỉ trực biến thành hành động. Con người có bản lĩnh không bao giờ đầu hàng trước số phận. Bút pháp đường thi nói “không” để chỉ “có” là cách thể hiện bản lĩnh của nhân vật trữ tình. “Không rượu”, “không hoa” – không có cảnh đẹp, chất liệu để làm thơ – nhưng một bài thơ về trăng vẫn ra đời. Bởi tiếng thơ đâu phải chỉ từ ngoại cảnh, mà xuất phát từ trong tâm hồn con người. Cái ung dung của người tù thể hiện trong việc ngắm trăng trong cảnh tù. Thường để làm thơ, thi nhân xưa phải chuẩn bị hoa, rượu, bạn hữu. Không khí ấy phàm tục đến khô khốc, chẳng chút thuận lợi nào chứ nói gì đến thanh tao.

Gia sư tphcm thấy bài thơ bắt đầu bằng nhiều cái “không”. Trong cái không ấy ngụ ý cái “có” – tấm lòng con người rung cảm trước thiên nhiên. Câu thơ thứ hai một tiếng thốt ngỡ ngàng như phát hiện ra một cảnh tuyệt sắc. Không có rượu và hoa thì ánh trăng cũng không hề tiêu bớt đi vẻ đẹp. Ngược lại nó càng khiến ánh trăng thêm sáng tỏ, chiếu soi vào tận nơi của nhà thơ. Câu thơ ấm ủ sự tình tứ, rạo rực, muốn yêu thương, chan hòa, thưởng thức ánh trăng. Xưa kia thi nhân đối diện với ánh trăng như gặp người tri kỉ: “Cửu bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân.” (Lí Bạch). Nhân vật trữ tình trong Ngắm trăng lại chỉ lặng lẽ; ánh trăng cũng lặng lẽ.

Cảnh thưởng trăng thu lại trong một hành động không hơi không tiếng, người thưởng trăng qua khung cửa sổ và trăng từ khe cửa nhìn nhà thơ:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tong song kích khan thi gia.

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm cửa sổ ngắm nhà thơ.)

Gia sư luyện thi đại học tphcm nhận thấy nếu phân tích theo nguyên tác của bài thơ, “hướng” và “tòng” vẫn thể hiện sự im lặng. Còn “khán” là cử động của đôi mắt, không dùng một cử chỉ cơ thể nào khác. Cái nhìn ấy chứa đựng sự giao cảm với cái đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của tâm hồn lắng đọng bao nhiêu âu lo để trở nên thuần khiết, trong sáng, hướng hoàn toàn vào nghệ thuật. Chính vì thế, người tù đã trở thành thi nhân. Lao ngục đã không còn hiện diện, mở đầu bài thơ là “ngục” nhưng kết thúc bài thơ lại là hình ảnh một con người tự do, bình thản thưởng thức ánh trăng. Những thứ xấu xa, dơ bẩn đã bị gạt bỏ hết thảy, chỉ còn lại là trái tim biết rung cảm với thiên nhiên.

Gia sư tiếng anh tại nhà tphcm thấy câu thơ sóng đôi hai hình ảnh “song nhân” và “nguyệt”, “song tiền” với “song kích”, “minh nguyệt” và “thi gia” cùng hòa tan trong một cái nhìn. Câu thơ đăng đối nhịp nhàng cả về thanh điệu lẫn hình ảnh. Trăng xứng với người, người thấu hiểu trăng. Tâm hồn người nhờ trăng mà càng sáng, trăng nhờ người mới trở thành thơ và bất tử với thời gian. Và bên nhau, trăng sáng đượm chất thơ và tâm hồn người cũng ngập tràn ánh trăng. Hai mà một, hòa quyện cùng nhau trong cái nhìn lặng lẽ.

Xưa nay, nói về trăng có biết bao nhiêu lời thơ đẹp. Ánh trăng của Bác Hồ lại chứa đựng vẻ đẹp ung dung, bản lĩnh bất khuất. Dù trong hoàn cảnh gong xiềng, ngục tù, người vẫn dành tấm lòng để thưởng thức và trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên. Nếu trăng tượng trưng cho những gì tốt đẹp, mơ ước lãng mạn thì ngục tù là bao khổ đau, trói buộc. Trong tù mà ngắm được trăng, đang trong cơn bĩ cực mà vẫn thấy được ánh sáng của niềm tin. Đó là phong thái của người chiến sĩ hòa quyện cùng tâm hồn của thi nhân tạo nên một chất thép lãng mạn, một nhân sinh quan tích cực trong thơ Bác.

Tham khảo từ khóa tìm kiếm bài viết từ google :

cảm nhận bài thơ ngắm trăng

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng ngắn nhất

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng ngắn gọn

cảm nhận bài thơ ngắm trăng ngắn

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng của bác

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng hay nhất

cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của bác qua bài thơ ngắm trăng

Các bài viết khác…

Phân Tích Bài Thơ Ngắm Trăng Của Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích bài thơ Ngắm Trăng của Hồ Chí Minh

Bác Hồ là một người yêu trăng và trong nhiều sáng tác của Người thì ánh trắng chính là nguồn cảm hứng chủ đạo để người bày tỏ tâm trạng, nỗi lòng của mình. Bài thơ Ngắm Trăng chính là một trong số đó.

Bài thơ được rút ra từ tập thơ Nhật Ký Trong Tù, một tập thơ được viết trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt đó chính là Người bị chính phủ Tưởng Giới Thạch bắt giam. Chính vì thế hoàn cảnh Ngắm Trăng ở đây cũng rất đặc biệt đó chính là ở trong tù. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với ngôn từ hàm súc đã cho ta thấy được vẻ đẹp trong thơ ca và phong cách sống của chủ tịch Hồ Chính Minh. Bài thơ được viết bằng chữ Hán và bản dịch hay nhất đó chính là:

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Mở đầu bài thơ Bác đã giới thiệu về hoàn cảnh của mình lúc bấy giờ:

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”

Nhà thơ đang sống trong cảnh tù đày nhưng vẫn không thể ngăn cản thi hứng của Người. Bác đã giới thiệu cho người đọc thấy đực hoàn cảnh đó là trong tù, là nơi chẳng có rượu cũng chẳng có hoa thơm. Ấy nhưng tất cả những điều đó không hề ảnh hưởng gì tới chủ thể thể trữ tình. Đứng trước cảnh đẹp thì Bác vẫn thấy lòng mình bồi hồi, xúc động. Đặc biệt đó là ánh trăng, một người bạn tri kỷ với Người từ bấy lâu nay. Đối với một người thi sĩ thì trăng, rượu, hoa là những tri kỷ gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Đó là ngắm trăng, là thưởng hoa, uống rượu là những thú vui tao nhã của những vị ẩn sĩ nơi thôn dã. Với Bác Hồ thì ngay cả đang ở trong hoàn cảnh cơ cực, mất tự do nhưng Người vẫn có cảm hứng làm thơ.

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng ra bên ngoài để ngắm vầng trăng đang tỏa sáng trên cao. Dù chỉ ngắm trăng qua ô cửa sổ nhỏ xíu nhưng cũng không ngăn được thi hứng và không làm giảm bớt được vẻ đẹp của vầng trăng. Dù cho nhà giam lạnh lẽo với những bức tường ngăn cách nhưng cùng không thể ngăn cách hai người bạn tri kỷ. Qua song cửa sắt nhà thơ ngắm vầng trăng đồng thời vầng trăng cũng đang nhòm qua khe cửa để nhìn ngắm nhà thơ. Phòng giam chật hẹp dường như được bừng sáng bởi ánh trăng và không gian lạnh lẽo như được sưởi ấm. Nỗi lòng của người xa quê hương, của một người đang chịu cảnh tù đày nhưng tâm hồn vẫn lo lắng chuyện quốc gia, đại sự. Có lẽ do chính nỗi lòng chứa đầy tâm sự nên trong đêm khuya Người mới thao thức không ngủ được. Cũng qua đó ta thấy được tấm chân tình của Người với ánh trăng, thấy được niềm lạc quan, yêu cuộc sống, yêu tự do của Bác Hồ.

Bài thơ Ngắm Trăng chính là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ phóng khoáng, tự do của Bác Hồ. Qua bài thơ ta thấy được một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt. Chính nhờ tình yêu ấy khiến Người có động lực vượt qua mọi hoàn cảnh tăm tối để thực hiện ước mơ, khát vọng của mình.

Loan Trương

Phân Tích Bài Thơ Ngắm Trăng Của Tác Giả Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích bài thơ Ngắm Trăng của tác giả Hồ Chí Minh

Bài làm

Được đánh giá chính là một trong những tác giả viết nhiều về trăng là Hồ Chí Minh. Có thể thấy được rằng trong chính cuộc đời cách mạng như cũng thật đầy gian truân nữa thì trăng với Bác như một người bạn tri kỷ, tri âm. Bài thơ “Ngắm trăng” cũng chính là một trong những bài thơ hay khi Bác cũng thể hiện được những tâm tư tình cảm của Bác.

Bài thơ “Ngắm trăng” được Bác Hồ viết trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó chính là giữa chốn lao tù, dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, thì Bác đã thanh thản và viết lên những hồn thơ thật đẹp biết bao nhiêu:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

(Trong tù không rượu cũng không hoa)

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ).

Ngay ở câu thơ mở đầu trong bài thơ thì Hồ Chính Minh cũng lại tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt và thiếu thốn trăm bề “Trong tù không ruợu cũng không hoa”. Bác không tả những bức tường giam thật lạnh lẽo và những bộ mặt của cai ngục, thế nhưng mà hai chữ “ngục trung” mà Bác sử dụng nghe mới chua xót làm sao!. Đã ở trong tù thì làm gì có rượu và hoa cơ chứ. Nhắc đến rượu và hoa là người ta như cũng luôn là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ. Và hình ảnh hoa rượu như đã gắn liền với người thi sĩ ngày xưa đó là việc uống rượu và thưởng trăng. Hiện thực hiện ra vô cùng khắc nghiệt và thiếu thốn nơi ngục tù cũng không ngăn nổi trong trái tim yêu đời bao la của Người cảm hứng vẫn dạt dào, và như nồng đượm khiến Người phải thốt lên rằng:

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Trong cảnh ngục tù đó thì người chiến sĩ và nói chính xác chính là người thi nhân đã quên đi hiện thực để có thể ngắm trăng. Trong tâm trí của người thi nhân này đây tay, chân đeo gong và xiềng xích nhưng vẫn cứ hướng qua song sắt của nhà tù để hỏi thăm người bạn tri kỷ – ánh trăng sáng. Thế rồi ánh trăng cũng không quên như cũng đã nhòm lại khe cửa kia để có thể ngắm nhà thơ.

Khi đứng trước sự hiện diện của trăng đẹp của cái đẹp đến thanh cao và vô ngần như cũng đã soi chiếu chính cái hiện thực tối tăm u ám của nhà tù dường như bị xóa nhòa hết. Tất cả dường như cũng đã lại nhường chỗ cho mối giao hòa thiêng liêng giữa nhà thơ tự do và khung cảnh thiên nhiên đẹp đến vĩnh cửu. Bác Hồ cũng đã lại hướng cái nhìn vào ánh trăng sáng trong đêm lao ngục kia như biết bao nhiêu lần khác đó chính là một hoàn cảnh sống cực kỳ gian khổ. Đau khổ là vậy thế cho nên Người luôn luôn biết hướng đến những cái cao cả, những cái đẹp đẽ nhất trong cuộc đơig. Độc giả như cũng nhận thấy được trong suốt bài thơ không hề có một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào như đã làm tôn lên được cái sâu thẳm vẻ đẹp trong tâm hồn của nhà thơ.

Qủa thật bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh mang vẻ đẹp giản dị mà khác lạ. Bài thơ như đã tôn lên một tâm hồn, một nghị lực hàm chứa tuyệt vời sâu sắc và đạo đức và hơn hết chính là nét đẹp trong tâm hồn của người chiến sĩ. Dù trong đau khổ, khó khăn Bác vẫn luôn luôn tin tưởng vào tương lai, luôn hướng đến ánh sáng đẹp đẽ, ánh sáng của tự do.

Minh Tân