Xuất Xứ Của Bài Thơ Đất Nước / Top 14 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Tư Tưởng Đất Nước Của Nhân Dân Trong Bài Thơ Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm

Mở bài 1: ” Đất nước” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca ” Mặt đường khát vọng” – 1974 đã có một khám phá thật mới mẻ và độc đáo về đất nước. Đó là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.

Mở bài 2: Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh ” Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên ” Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, ” Những người đi tới biển” của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi ” Tuổi trẻ không yên“, những tà ” áo trắng” đã ” xuống đường” trong ” Mặt đường khát vọng ” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản Trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã giành hẳn một chương (V) để nói về đất nước:

” Để đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

1.Giới thiệu tác giả và tác phẩm.

2.1. Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã xâu chuỗi mọi cảm xúc, chi tiết, hình ảnh thơ)

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã thấm nhuần trong cả chương thơ về “Đất nước“.

Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian. Nghĩa là văn hóa của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hóa dân gian Việt Nam bền vững và độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hóa dân gian, mà chính là thấm nhuần quan niệm về đất nước của nhân dân, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả.

” Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể “

Bằng giọng tâm tình như lời kể chuyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tùy bút bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đây: Trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ xa xưa cho đến hiện tại tương lai); trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong việc gắn bó thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cùng nói về cả mấy phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ phương diện nào, thì quan niệm ” Đất nước của nhân dân ” cũng là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể. Chính nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen thuộc.

2.2.Tư tưởng Đất Nước của nhân dân hiện lên trong chiều dài thời gian lịch sử.

Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:

” Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong ” miếng trầu bà ăn“, trong ” cây tre đánh giặc“. Hay nói cách khác, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là “Đất nước của nhân dân”.

Vì vậy, khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại ” từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập ” ( Nguyễn Trãi);

” Nước Việt nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê

Thành nước Việt nhân dân trong mát suối “

Không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung:

” Hỡi Sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? Chưa đâu! Và ngay cả những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”

mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:

” Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Những con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đát nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho mọi thế hệ nối tiếp nhau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”

2.3. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân hiện lên trong không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cộng đồng.

Cùng với ” thời gian đằng đẵng” là ” không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ ” Đất là nơi chim về. Nước là nơi rồng ở “- Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao!

Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân ” Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm ” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:

Đất nước là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Từ quan niệm ” Đất nước của nhân dân “, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người, mà trước hết là những con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”

rồi ” người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên“, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. ” Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điềm “. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:

” Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

2.4. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” hiện lên trong bề dày văn hóa

Đất nước ấy còn có một bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt nam. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hóa không được nói đến qua các danh nhân văn hóa như Nguyễn trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian để nêu lên truyền thông tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng ” Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại“. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thủy chung trong tình yêu: ” Yêu nhau từ thuở trong nôi“; ” Cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn“; Biết quý trọng tình nghĩa: ” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội“. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: ” Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù không sợ dài lâu “. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp- những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.

Tóm lại “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về Đất nước của thơ ca chống Mỹ.

” Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời “

( Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh

Bài Thơ ” Đất Nước” Của Nguyễn Đình Thi

Nguyễn Đình Thi

Đất nước Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa đất trời Gió thổi rừng tre phất phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Rừng xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn như nhớ mắt người yêu Từ những năm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc mía bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc tây thằng chúa đất Đứa đè cổ đứa lột da Xiềng xích chúng bay không khoá được Trời đầy chìm và đất đầy hoa Súng đạn chúng bay không bắn được Lòng dân ta yêu nước thương nhà Khói nhà máy cuộn trong sương núi Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng Ôm đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh Súng nổ tung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam như máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà. Bài tham khảo                                     Tiếng thơ hào sảng về đất nước Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội : Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội : không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian và quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm. Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội : “Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ… là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cỏ. (Hà Nội băm sáu phố phường ) Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn ( Nhớ mùa thu Hà Nội ) cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ… làm thành nét thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành : “Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ / mái ngói thâm nâu / … Hà Nội mùa thu / mùa thu Hà Nội / mùa hoa sữa về / thơm từng cơn gió / mùa cốm xanh về / thơm bàn tay nhỏ / cốm sữa vỉa hè / thơm bước chân qua… Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội thấm thía xao xác khi ở xa trông về. Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng may bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sôn, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước” ( Nguyến Đình Thi – Bài thơ Đất nước ) Dòng thơ thứ ba là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra : “Tôi còn nhớ những ngày thu đã xa” Ở đây, còn có một lý do nữa : Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp : “Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em”. Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ tình cảm và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh kháng chiến nên Nguyến Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lý, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ. Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa : Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phố dài ). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động. Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyến Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyến Đình Thi không chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là một phần trong tâm hồn nhà thơ.  

Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyến Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến : Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng là rơi đầy Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “ người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ Thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đô khi rút khỏi Hà Nội… Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại ) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ : Hình ảnh ấy gần với người ra đi của Thâm Tâm: Đưa người, ta chỉ đưa người ấy Một giã gia đình, một dửng dưng… -Ly khách!Ly khách! Con đường nhỏ Chí lớn không về bàn tay không (Tống biệt hành ) Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ : Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể – người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nói mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc,ngày 14.12.1983) Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11.8.1991) Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc : Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phất phới Trời thu thay áo mới Trong biếc nói cười thiết tha Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phất phới, áo mới ). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phất phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hoà nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng. Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới : âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước,Nguyến Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào : Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ây. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyến Đình Thi hết sức chú ý : Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực,lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyến Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam. Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Thực ra, quá khứ, truyển thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyến Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dân cho đất nước. Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại : Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau. Nguyến Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh độc đáo khác nhau về mối quan hệ ấy. Từ Huy Cận : Cha ông yêu mến thời xưa cũ Trần trụi đau thương bỗng hoá gần Những bước mất đi trong thớ gỗ Về đây, tươi vạn dặm đường xuân (Các vị La Hán chùa Tây Phương) đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của nước, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn… rồi Nguyễn Khoa Điềm ở những năm tháng đánh Mỹ : Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi em, đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời… (Mặt đường khát vọng) Phần hai bài thơ tập trung vào một ý lớn : đất nước từ trong đau thương căm hờn đứng lên ngời sáng. Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh : Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng thủ pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh, trong ánh chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở – gây một tức tối căm giận”. Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người viết : chiến tranh tàn phá tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự huỷ hoại, với cái ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có những cái nhìn tinh tế và đau xót ấy : Có làng trung đoàn ta đi qua Máu đông in dấu giày đinh giặc Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai Chiếc tả đầu giường đang cháy dở (Quang Dũng- Những làng đi qua,1947)   Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau (Vũ Cao – Núi đôi, 1956) Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến sĩ : Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu được đặt ở cùng khổ thơ, tạo thành kết cấu : ngoài/trong. Hai câu đầu là ngoại cảnh, hai câu sau là tâm trạng. Giữa dòng thơ còn có sự đối xứng khác: những / bỗng nung nấu/bồn chồn Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sữ : tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tình cảm có vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dâu. Sự xử lý mang tính lịch sử của thời kỳ ấy : tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không có tình cảm riêng. Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài Đất nước là những hình ảnh, những ý mới : Ôi đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng … Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ chỉ các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn vào phần vị ngữ : Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu … Đã ngời lên nét mặt quê hương … Đã bật lên những tiếng căm hờn … Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta … Đứa đè cổ đứa lột da… Các câu thơ với hình ảnh tương phản ( xiềng xích / trời, súng đạn / lòng dân) khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa dội…) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm trong thời gian dài. Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng ở thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mới hình thành, nhất là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự đứng dậy hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước . Bốn câu thơ thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập tạo âm hưởng dõng dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu giặc…Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến trường Điện Biên Phủ”. Nguồn từ: VanMau.Com   Bình giảng 7 câu thơ đầu bài thơ :”Đất nước” của Nguyễn Đình Thi “Sáng mát trong… nắng lá rơi đầy”. Thu Hà Nội, hồn thu Thăng Long từng để thương để nhớ vơi đầy trong lòng bao người đã bao lâu nay. Một dáng liễu Cổ Ngư, một tiếng chuông Trấn Vũ, một”mặt gương Tây Hồ”, một màu vàng ”hồn thu thảo”, một ánh trăng thu Cổ thành… tất cả đã ”hóa tâm hồn” mỗi chúng ta: “Trăng ơi đừng bỏ Kinh thành Hồn cố đô vẫn thanh bình như xưa”. (“Trăng Kinh thành”) Thu Hà Nội đẹp, một vẻ đẹp mơ màng, thơ mộng man mác bâng khuâng. Thu li biệt Hà Nội trong thơ Nguyễn Đình Thi nửa thế kỉ trước cứ vương vấn mãi hồn ta: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”… 1. Đoạn thơ gợi lên một nét thu Hà Nội trong tâm hồn ”người ra đi” - một khách chinh phu của thời đại mới. Cấu trúc đoạn thơ là từ cảm xúc thu hiện tại mà ”nhớ” những ngày thu đã xa, một mùa thu li biệt Kinh thành ngàn năm. Hai câu thơ mở đầu bài thơ ”Đất nước”, Nguyễn Đình Thi xúc động nói lên cái hồn thu đất nước muôn đời: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới” Những buổi sáng mùa thu, thu năm xưa cũng như thu hiện tại, không khí trong lành, bầu trời trong xanh, không một gợn mây, thoáng đãng, mênh mông, bao la ”xanh ngắt mấy từng cao”(Nguyễn Khuyến). Gió thu nhè nhẹ thổi mát hồn người và lòng người, ai cũng cảm thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng, lâng lâng. Chỉ 2 chữ ”mát trong” mà nhà thơ đã nhận diện vẻ đẹp của sắc thu, khí thu và hồn thu muôn đời của đất nước. Câu thơ thứ nhất là một so sánh rất gợi: ”Sáng mát trong như sáng năm xưa”. Đất nước trải qua những năm dài chiến tranh, bao mùa thu đã trôi qua, nhưng đất nước vào thu vẫn ”mát trong”, vẫn đẹp như thế ! Đất nước bền vững muôn đời nên thu vẫn đẹp muôn đời. Câu thơ thứ hai nói lên hương thu của đất nước: ”hương cốm mới”. Gió thu thổi qua những cánh đồng, mang theo hương ”lúa nếp thơm nồng”, “hương cốm mới” phả vào lòng người, ủ ấp hồn người cái hương vị quyến rũ, đậm đà của quê hương xứ sở. Câu thơ cho thấy chất tài hoa, chất Hà Nội trong hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Có lẽ lần đầu tiên ”hương cốm mới” hiện diện trong thơ ? Trong văn xuôi, Thạch Lam và Vũ Bằng đã viết rất thơ về cốm Vòng Hà Nội. Cốm là ”thức quà riêng của đất nước”, là ”thức quà thanh nhã và tinh khiết”. Trong cốm có ”cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ; trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc”… (“Hà Nội 36 phố phường”, 1943, Thạch Lam) Với Vũ Bằng, trong những năm dài đất nước bị chia cắt, cùng với nỗi buồn của kẻ xa xứ là nỗi buồn nhớ Bắc Việt, nhớ Hà Nội – quê mẹ mến yêu. Suốt đêm ngày năm tháng, nỗi thương nhớ như trải dài, như dồn tụ lại thành ”Thương nhớ mười hai”. Mùa thu chớm đến, ông ao ước”Không biết đến bao giờ mới lại được nghe thấy hơi may về với hoa vàng” ? Ông khắc khoải tự hỏi: ”Mà ở đâu đây có cái hương thơm gì mà dìu dịu thế ?”. Ông nhớ khôn nguôi ”hương lúa ba giăng”. Ông nhớ day dứt cái vị ”thơm ngọt ngào mùi chuối trứng cuốc ngon lừ !”. Quân thù nào có thể chia cắt được đất nước, có thể làm vơi cạn, khô kiệt được nỗi nhớ ấy ? Qua đó, ta cảm nhận được ”hương cốm mới” trên trang văn của Thạch Lam, của Vũ Bằng, trong thơ Nguyễn Đình Thi là nét đẹp của mùa thu đất nước, là hồn thu Thăng Long – Hà Nội mến yêu. 2. Ba câu thơ tiếp theo nhắc lại nỗi nhớ ”những ngày thu đã xa”, buổi đầu thu ”trong lòng Hà Nội”. Cảm xúc dồn nén, hoài niệm rung lên như dây tơ của cây nguyệt cầm với bao man mác: “Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may”.  “Những ngày thu đã xa”là những ngày thu giã biệt Hà Nội, ra đi vì nghĩa lớn, vì đất nước và dân tộc thân yêu. Cuộc giã biệt ấy đã để lại trong lòng nhà thơ bao nỗi nhớ. ”Nhớ” cái ”chớm lạnh”buổi đầu thu, cái lạnh se sắt của gió thu hiu hiu. Hai chữ ”chớm lạnh” buổi đầu thu, cái lạnh se sắt của gió thu hiu hiu. Hai chữ ”chớm lạnh” rất tinh tế trong gợi tả và biểu cảm, vừa diễn tả cái lành lạnh những buổi sáng sớm đầu thu, vừa thể hiện chất xúc giác trong cảm nhận. Trong hơi may lành lạnh còn có âm thanh ”xao xác” của lá thu bay trong gió, nhẹ cuốn trên hè phố, trong lòng đường của ”những phố dài” Hà Nội. Từ láy ”xao xác” là tiếng thu, của lá vàng rơi, của những nhánh cây khẽ rùng mình trong hơi may ”chớm lạnh” mà thi sĩ Xuân Diệu đã từng xúc động: “Những luồng run rẩy rung rinh lá  Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” (“Đây mùa thu tới”) Thu xưa trong thơ, mùa thu Hà Nội thấm bao nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Thoáng buồn trong ”xao xác hơi may” của lá thu bay, của ”mái buồn nghe sấu rụng”  (Chính Hữu). Chỉ bằng một vài nét vẽ, một vài chi tiết nghệ thuật về những ngày thu Hà Nội ”những ngày thu đã xa”, trong đó có cái ”chớm lạnh” của hơi may cảm được, có cái ”xao xác” của lá thu bay nghe được, Nguyễn Đình Thi đã để lại trong lòng mỗi chúng ta cái hồn thu Kinh thành văn hiến ngàn năm. Phải là người tài hoa, mang tình yêu sâu nặng đối với Hà Nội mới viết được những vần thơ hàm súc, đẹp mà buồn như thế. Đoạn thơ ấy đã được khơi nguồn cảm hứng từ bài thơ ”Sáng mát trong như sáng năm xưa”(1948), hoài niệm trào dâng, đồng hiện trong một không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đầy ấn tượng: “Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em Gió thổi mùa thu vào Hà Nội Phố dài xao xác hơi may Nắng soi ngõ vắng Thềm cũ lối ra đi lá rụng đầy”. 3. Hai câu cuối đoạn thơ thể hiện tâm trạng người ra đi từ ngày thu ấy. Giọng thơ lẳng lặng buồn: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. “Người ra đi”theo tiếng gọi của Non Sông, ”lên chiến khu”? ”Người ra đi mang theo bao kỷ niệm sâu sắc về mùa thu Hà Nội.”. “Hương cốm mới”, cái ”chớm lạnh” trong ”hơi may” buổi đầu thu, cái ”xao xác” của lá me, lá sấu bay trong ”những phố dài” Hà Nội đã trở thành hành trang, đã trở thành kỉ niệm sâu sắc, thân thiết. ”Người ra đi” ôm ”chí nhớn” của một ”li khách”với quyết tâm ”đầu không ngoảnh lại” ! Câu thơ ”Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” là một câu thơ thật hay. Có màu vàng nhạt của nắng thu, có sắc vàng tươi của lá thu đã ”rơi đầy”, đã trải dài trải rộng trên thềm phố. Câu thơ chứa đầy tâm trạng. Tác giả đã lấy ngoại cảnh, lấy nắng thu, lá thu để gợi tả tình lưu luyến. Ra đi với quyết tâm ”đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn cảm nhận được ”Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” với bao tình lưu luyến, nhớ thương. Vì thế, trải qua bao năm tháng, bao mùa thu trôi qua, đến ”mùa thu nay…”, ”tôi đứng vui nghe giữa núi đồi” mà vẫn bâng khuâng ”nhớ những ngày thu đã xa”. Nhớ thu xa cũng là nhớ Hà Nội, nhớ ngày giã biệt ra đi… Mọi cuộc lên đường đều đáng nhớ. Quên sao được Đông Đô – Thăng Long – Hà Nội mến yêu ! Quên sao được Hồ Tây, Hồ Gươm, chợ Đồng Xuân, Ô Chợ Dừa… ”đi học về qua luôn hát vui ca”. Người chiến sĩ từ mọi chiến trường mà nhớ về Hà Nội với tất cả niềm yêu thương tự hào: – “Từ thuở mang gươm đi giữ nước Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ) – “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. (Quang Dũng) – “Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa Cả Đô thành nghi ngút cháy sau lưng…” (Chính Hữu) Thơ đích thực làm phong phú, thanh cao tâm hồn. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi đem đến cho ta một tình yêu đẹp: yêu Hà Nội mến yêu !   Bình giảng  một đoạn thơ trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi “Mùa thu nay khác rồi… vọng nói về”.                Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đích thực tài hoa và giàu sáng tạo. Trên các lĩnh vực văn xuôi, thơ, nhạc, kịch bản văn học, lí luận phê bình,… ông đều có thành tựu đáng tự hào. Thơ Nguyễn Đình Thi có bản sắc riêng, có những tìm tòi về hình ảnh và ngôn từ. Thơ ông giàu cảm xúc khi viết về đất nước trong chiến tranh. Bài thơ ”Đất nước” trích trong tập thơ ”Người chiến sĩ”, nó được thai nghén và hình thành trong một thời gian khá dài từ năm 1948-1955. Từ thực tiễn lịch sử và sự sống còn của dân tộc, nhà thơ suy ngẫm về đất nước. Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về cảm hứng quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Biểu lộ niềm vui phơi phới của người chiến sĩ cầm súng đánh giặc bảo vệ quê hương, lòng yêu thương tự hào đất nước về cảnh sắc thiên nhiên, về truyền thống anh hùng của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã viết: … “Mùa thu nay khác rồi ……………………. Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Cảm hứng yêu nước, tự hào dâng lên dào dạt trong tâm hồn nhà thơ, trong tâm hồn những người chiến sĩ ”đã đứng lên thành những anh hùng”. Người chiến sĩ đã ra đi từ mùa thu ấy , khi”Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng” (Chính Hữu), giã từ phố cũ thân yêu, dấn thân vào lửa máu. Đối lập với ”những ngày thu đã xa” đẹp mà buồn, là ”Mùa thu nay khác rồi”. Nhà thơ reo lên sung sướng tự hào, một niềm vui phơi phới dâng trào. Đứng giữa núi đồi chiến khu, say mê ngắm đất trời. Thiên nhiên bao la tươi đẹp như xôn xao niềm vui với con người. Bốn chữ ”tôi đứng vui nghe” thể hiện một tư thế, một dáng đứng kiêu hãnh tuyệt đẹp. Con người chan hòa cùng cây cỏ và say đắm trong màu sắc quê hương. Ngọn gió mát lành mùa thu quyện ”hương cốm mới” như hát cùng đất nước. Hình ảnh ”rừng tre phấp phới” diễn tả thật hay sức sống mãnh liệt của đất trời quê hương: “Mùa thu nay khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới…”. Mùa thu lại về với đất nước và con người trong sắc màu tươi sáng: ”Mùa thu thay áo mới – Trong biếc nói cười thiết tha”. Bao trùm đất nước là cả một không gian bao la, một thiên nhiên đẹp hữu tình được nhân hóa, gắn bó hòa hợp với con người. Con người kháng chiến với khát vọng tự do, nên tầm nhìn cũng cao xa, mênh mông. Có lẽ vì thế, nhà thơ đặc biệt chú ý đến bầu trời. Năm lần nhà thơ nói đến bầu trời, mỗi lần có một cách nói, cách cảm nhận đầy khám phá: – “Trời thu thay áo mới”. – “Trời xanh đây là của chúng ta”. – “Trời đầy chim và đất đầy hoa”. – “Dây thép gai đâm nát trời chiều”. – “Trán cháy rực nghĩ trời đất mới”. Cái khác của mùa thu nay được diễn tả qua vần điệu náo nức, xôn xao, được đặc tả qua hình ảnh sống động, tươi mát: ”Gió thổi rừng tre phấp phới”, được thể hiện ở ánh mắt, nụ cười:”Trong biếc nói cười thiết tha”. ”Biếc” ở trời xanh, ”biếc” ở con mắt những chàng trai, cô gái đang say mê ngắm trời thu thời máu lửa. Nguyên nhân của niềm vui ấy thật sâu xa, rộng lớn. Cách mạng thành công, nhân dân đã và đang đem tài năng và xương máu để giữ gìn và xây dựng đất nước. Đất nước là của nhân dân. Nguyễn Đình Thi như reo lên, hát lên niềm hạnh phúc tột cùng của những con người đang làm chủ đất nước: “Trời xanh đây là của chúng ta, Núi rừng đây là của chúng ta, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Một lối nói khẳng định: ”của chúng ta” vang lên đĩnh đạc, tự hào. Một dân tộc đã gan góc đứng lên đánh Pháp mới có tiếng nói hào hùng ấy. Tất cả những gì cao quý, thiêng liêng trên đất nước thân yêu này là ”của chúng ta”, của nhân dân chúng ta. Sau những đêm dài nô lệ, nước nhà độc lập, nhân dân ta mới có niềm vui tự hào mênh mông ấy. Khát vọng làm chủ đất nước với tất cả niềm tự hào là của bao thế hệ con người Việt Nam trong suốt bốn nghìn năm lịch sử:”Của ta, trời đất, đêm ngày – Núi kia đồi nọ, sông này của ta !” (“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” – Tố Hữu). Với nghệ thuật diễn tả trùng điệp, với cách liệt kê, sử dụng điệp từ điệp ngữ (của chúng ta,… đây là… những) tác giả đã tạo nên giọng thơ lôi cuốn, hấp dẫn mang âm điệu anh hùng ca. Dáng hình đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi hiện lên sống động qua những vần thơ tráng lệ. Nhà thơ như đang ngước mắt và chỉ tay về ”trời xanh” và ”núi rừng”,… mà reo lên sung sướng. Có tình yêu nào lớn hơn tình yêu đất nước ? Đất nước bao la, hùng vĩ với trời cao, biển rộng, sông dài,… trở nên thân thiết, thiêng liêng. Đất nước với những cánh đồng quê mênh mông thẳng cánh cò bay, ”thơm mát” hương lúa bốn mùa. Đất nước với những nẻo đường tự do, những dặm đường kháng chiến ”bát ngát” đến mọi chân trời. Đất nước với những dòng sông – sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mã, Cửu Long Giang,… ”đỏ nặng phù sa”, bồi đắp nên những cánh đồng màu mỡ, nuôi sống nhân dân ta tự bao đời nay. Các tính từ: ”Xanh”, “thơm mát”, “bát ngát”, “đỏ nặng”,… cực tả vẻ đẹp và sự bền vững đất nước, đồng thời cho thấy ngòi bút thơ tài hoa, điêu luyện của Nguyễn Đình Thi trong lựa chọn ngôn từ để hình tượng hóa vần thơ, tạo nên sắc điệu trữ tình đằm thắm. “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi” (Tố Hữu). Cảm xúc dào dạt ấy về đất nước cứ ngân nga mãi trong lòng chúng ta khi tiếp cận và cảm thụ những vần thơ của tác giả ”Người chiến sĩ” nói về dáng hình đất nước. So với lớp nhà thơ đương thời, Nguyễn Đình Thi là nhà thơ có cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước. Cảm hứng lịch sử và truyền thống được kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng thời đại. Chí khí quật cường của tổ tiên từ nghìn xưa như đem đến cho nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh một sức mạnh vô biên mà không một thế lực thù địch bạo tàn nào có thể khuất phục được: “Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Ba chữ ”nước chúng ta” là sự khẳng định ý chí tự cường, niềm tự tôn dân tộc. Đất nước và dân tộc với lưỡi cày, thanh gươm và chiếc gộc tre ”chưa bao giờ chịu khuất”. “Những buồi ngày xưa” mà nhà thơ nhắc đến là những năm tháng đau thương và vinh quang của giống nòi. Quên sao được ngày Bà Trưng, Bà Triệu xuất quân, khi Lý Thường Kiệt viết ”Nam quốc sơn hà” trên chiến tuyến sông Cầu – Như Nguyệt, khi Trần Quốc Tuấn bắt sống Ô Mã Nhi trên Bạch Đằng Giang, khi Liễu Thăng bị quân ta chém đầu tại Chi Lăng, khi Tôn Sĩ Nghị quăng cả ấn tín, triều phục chạy tháo thân qua biên giới,… Nhân dân mãi mãi tự hào về ”những buổi ngày xưa” ấy: … “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn. Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào Cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”. (“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng” – Chế Lan Viên) Hai chữ ”đêm đêm” nói lên tính liên tục dòng chảy lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc. Từ láy ”rì rầm” như một nốt nhạc trầm hùng vang xa trong bài ca Tổ quốc, nó gợi tả cái mạch ngầm của giang sơn, giống nòi, đó là truyền thống anh hùng bất khuất chống xâm lăng. Biên độ câu thơ mở, khép tài tình, lúc rút ngắn lại 3 từ, lúc duỗi dài ra 8 từ, các câu lục ngôn, thất ngôn đan chéo vào nhau, cài chặt vào nhau làm nên tính nhạc phong phú. Cảm xúc dào dạt, âm hưởng hào hùng, ngôn ngữ đẹp và tinh tế. Song song với chuỗi hình ảnh về dáng hình đất nước là sự phát triển của chuỗi liên tưởng về quá khứ hào hùng, về sức mạnh Việt Nam.   Bình giảng một đoạn thơ  trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi “Ôi những cánh đồng quê… nhớ mắt người yêu”.  

 

Có những vần thơ xao xuyến bồi hồi. Có những vần thơ ngọt ngào say đắm. Lại có những vần thơ đĩnh đạc, hào hùng. Còn có lúc, ta bị ám ảnh khôn nguôi trước những vần thơ yêu thương và căm giận: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu, Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bốn chồn nhớ mắt người yêu”. (“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi) “Đất nước”là bài thơ sáng giá nhất của Nguyễn Đình Thi viết trong kháng chiến chống Pháp, cũng là bài thơ kiệt tác viết về đề tài quê hương đất nước của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Nó đã được tác giả thai nghén và hình thành trong một quá trình lịch sử khá dài (1948-1955). Các áng thơ ”Đêm mít tinh”, “Sáng mát trong như sáng năm xưa” - đã khơi nguồn cảm hứng để Nguyễn Đình Thi khám phá và thể hiện tuyệt đẹp tình yêu nước một cách nồng nàn, say đắm. Nhà thơ – người chiến sĩ – như đang nắm chắc tay súng ”lắng hồn núi sông ngàn năm”, lắng nghe những âm vang của lịch sử, giống nòi ”rì rầm trong tiếng đất” tự nghìn xưa ”vọng nói về”: những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… bất tử ! Từ quá khưa nghìn xưa trở về hiện tại, câu thơ vút lên nghẹn ngào, đau đớn: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu”. Cảnh tượng đau thương mà nhà thơ nói đến là mùa thu 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt ! Nhiều đô thị, nhiều vùng nông thôn rộng lớn của đất nước ta đang bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo ”Đương làng bao xương máu tơi bời – Vườn không nhà trống tàn hoang” (“Làng tôi” – Văn Cao). ”Những cánh đồng quê chảy máu” - hình ảnh hóan dụ tượng trưng cho đất nước thân yêu, những làng xóm thân thuộc đang bị quân thù càn quét, bắt giết dã man. Máu những người nông dân hiền lành đã chảy ngập đường thôn, luống cày… dưới làn bom đạn của lũ cướp nước. Xưa kia thuở thanh bình, đất nước là ”những cánh đồng thơm mát…”, “xanh xanh bãi mía bờ dâu…”, thì kể từ khi ”súng giặc đất rền”, đã trở nên tang thương, điêu tàn với ”những cánh đồng quê chảy máu”. Nhân dân ta bị giặc Pháp tàn sát dã man. Hai chữ ”chảy máu” lên án tội ác và chính sách tam quang của quân cướp nước: giết sạch, cướp sạch, đốt phá sạch ! Từ “Ôi” cảm thán diễn tả nỗi lòng đau đớn, xót xa không thể nào kể xiết ! Từ cái nhìn toàn cảnh về không gian đau thương, về ”những cánh đồng quê chảy máu”, nhà thơ đứng lặng nhìn về các phía chân trời. Một nét vẽ thậm xưng, độc đáo, rất sáng tạo: “Dây thép gai đâm nát trời chiều”. Quân giặc tàn bạo ra sức bắn giết, càn quét, chiếm đất, dồn dân. Đồn giặc như nấm độc mọc lên khắp mọi nơi. “Dây thép gai” cũng là một hình ảnh hóan dụ nói về bốt đồn giặc, sự chiếm đóng dã man của quân cướp nước. Những núi thép gai, những hàng rào dây thép gai tua tủa nhọn hoắt bao bọc xung quanh đồn giặc không chỉ nhằm chống đỡ những trận tấn công vũ bão của quân đội ta, mà còn ”đâm nát trời chiều”. Một cách nói thậm xưng đầy ấn tượng về tội ác và âm mưu cướp nước của giặc Pháp. ”Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” là những chiều thôn trang êm đềm có ”cánh cò trắng vẫy mênh mông”, có ”tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn”, có tiếng sáo mục đồng dẫn trâu về thôn… Nhưng nay còn đâu nữa ? Cảnh trời chiều quê hương đã và đang bị dây thép gai đồn giặc “đâm nát”. Nỗi đau từ đất trời như đangcứu nát, đâm nát lòng người ! Ở phần đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi nói về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ của đất nước với trời xanh, núi xanh, những cánh đồng quê thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa - và tất cả đều “của chúng ta”. Nhưng từ khi giặc tràn tới, đồng quê thì “chảy máu”, trời chiều thôn trang thì bị dây thép gai “đâm nát”, biết bao đau đớn, căm hờn ! Tác giả ”Đất nước” tạo nên sự đối lập, tương phản đầy ấn tượng: xưavà nay, thanh bình với chiến tranh, hữu tình nên thơ với điêu tàn, tang tóc - để lên án tội ác dã man của giặc Pháp mà trời không thể dung tha, người người đều căm giận ! Sự kết hợp tài tình các biện pháp tu từ hoán dụ, cảm thán, thậm xưng, và tương phản đã tạo nên vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm. Qua đó, ta cảm nhận được cốt cách thi sĩ của Nguyễn Đình Thi: hồn thơ đẹp, tài hoa, cảm xúc dồn nén, ngôn từ xác thực, hình tượng sáng tạo. Nhà thơ đã dẫn hồn người đọc sống và cảm với hiện thực đất nước một thời khói lửa, mở rộng cho ta một trường liên tưởng về không gian nghệ thuật để mọi người cùng suy ngẫm về dòng chảy lịch sử và hành trình bi tráng của dân tộc. Và đó cũng là cái giá của độc lập tự do để ta nhớ và tự hào ! Gần 150 năm về trước, trong bài thơ ”Chạy giặc”, Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận lên án quân xâm lược: “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây… (…)  Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…”. Có biết bao câu thơ xúc động làm sôi sục lòng người những năm tháng đất nước ”ra trận”: “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang…”. (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm). Đó là những vần thơ một thời tạc vào thời gian và lòng người để ta nhớ mãi. Câu thơ thứ ba nói lên tâm trạng người chiến sĩ ra trận: “Những đêm dài hành quân nung nấu”. Câu 1 nói về ”những cánh đồng quê chảy máu”, câu ba tứ thơ chỉ rõ ”Những đêm dài hành quân nung nấu”, từ không gian đau thương mở ra thời gian căm giận, không chỉ một đêm, năm mười đêm mà là ”những đêm dài”… Cấu trúc song hành, điệp lại 2 lần chữ “những”, chữ “nấu” vần với chữ “máu” (vần chân) đã tạo nên giai điệu, nhạc điều trầm hùng đang nung nấu tâm hồn người chiến sĩ xung kích trên đường hành quân ra trận. ”Nung nấu” vì căm thù dữ dội. Lòng súng nóng bỏng, lưỡi lê nhọn hoắt căm thù ! Mối thù đối với giặc Pháp cướp nước nung nấu, ngùn ngụt bốc lửa, sôi sục trong lòng, không chỉ trong một thời gian hữu hạn mà kéo dài trong thời gian vô hạn ”Những đêm dài hành quân nung nấu”. Hai chữ ”nung nấu”biểu hiện sâu sắc tình yêu nước của “những người áo vải – Đã đứng lên thành những anh hùng !”. Càng nung nấu quân xâm lược bao nhiêu thì càng yêu quê hương đất nước bấy nhiêu. Người lính ra trận nung nấu, sôi sục căm thù giặc khi nhìn thấy đất nước tang tóc, điêu tàn ”những cánh đồng quê chảy máu…”, nhìn thấy ”những bóng thù hắc ám”, những đồn giặc mọc lên với bao ”dây thép gai đâm nát trời chiều”. Câu thơ thứ tư tiếp theo là một nét vẽ, nét khắc chiều sâu tâm hồn người chiến sĩ ra trận; nhiều khám phá và sáng tạo: “Bỗng bốn chồn nhớ mắt người yêu”. “Nung nấu”căm thù và “bồn chồn nhớ” là hai nét biểu hiện của một tâm trạng, làm nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của anh Vệ quốc quân thời kháng chiến 9 năm đánh Pháp. Anh ra trận với sức mạnh căm thù giặc, với tình yêu nước thương dân, với bao nỗi nhớ. Nhớ luống cày mái rạ, nhớ bãi mía nương dâu, nhớ giếng nước gốc đa, nhớ“người tình chung”…“nhớmắt người yêu”. “Mắt người yêu” cũng là một hình ảnh hoán dụ rất đắt diễn tả hình bóng quê hương, vẻ đẹp duyên dáng ”người tình chung” sau lũy tre làng mà anh nhớ lắm: “Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em như giếng nước thôn làng Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương ?…” (“Mắt người Sơn Tây” – Quang Dũng) “Nhớ mắt người yêu”với bao kỉ niệm đẹp một thời trai trẻ. ”Xa em năm nhớ – gần em mười thương”. Chàng trai cày ngày xưa nhớ quê nhà là nhớ hương vị đậm đà ”bát canh rau muống, quả cà giòn tan”, là ”nhớ ai tát nước bên đường hôn nao”. Anh bộ đội Cụ Hồ giã từ nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ”nước mặn đồng chua”, nơi ”đất cày lên sỏi đá”, có người nhớ thầm: ”Bầm ra ruộng cấy bầm run – Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non”. Có người nhớ ”người vợ trẻ – mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Chàng lính trẻ hào hoa trong đoàn binh Tây Tiến thì lại ”Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Có trăm nghìn nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân thương:”Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng” (Chế Lan Viên), v.v… Trở lại câu thơ ”bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”, hai chữ ”bồn chồn” nghĩa là nóng ruột, không yên tâm (Từ điển tiếng Việt); diễn tả nỗi nhớ xôn xao, rung động, dâng lên như những đợt sóng vỗ mãi trong lòng. Đã có nỗi nhớ ”bổi hồi bồi hồi”. Đã có sự vấn vương ”không yên một bề”. Đã có tâm tình khao khát ”nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai…”. Câu thơ ”Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” là một nét vẽ rất đẹp thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Đình Thi. ”Nhớ”là cảm hứng nhiều màu sắc và dáng vẻ đã làm nên những câu thơ hay, những vần thơ đẹp của Nguyễn Đình Thi trong tập thơ ”Người chiến sĩ”: … “Anh yêu em như anh yêu đất nước Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn”… (Nhớ) Trong cái chung nhớ nước, nhớ ”nguồn thiêng ông cha” (Hữu Loan), lại có cái riêng ”bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”. Có nỗi hờn ”nung nấu”, có nỗi nhớ ”bồn chồn” nên mới có sức mạnh chiến đấu và niềm tin thắng trận: ”Anh lại tìm em – Em mặt yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” (Hoàng Cầm). Tình cảm là cái gốc của thơ ca, là ngọn nguồn sáng tạo của thơ ca. Thơ chỉ đẹp khi thơ ca hút màu mỡ, phù sa trong lòng đất – hiện thực cuộc sống – mà nảy mầm xanh tươi, đơm hoa kết trái dâng hương thơm, vị ngọt cho đời. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi như một bông hoa đẹp trong cành hoa đẹp đã mang hơi thở nóng hổi của thời đại, mang tình yêu mãnh liệt của đất nước và con người Việt Nam trong ba ngàn ngày khói lửa. Đọc đoạn thơ trên, ta cảm nhận được phần nào vẻ đẹp của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, một hồn thơ giàu cá tính sáng tạo. Hiện thực chiến tranh: đất nước điêu tàn, dân tộc đau thương trong bom đạn quân thù đã được diễn tả một cách tuyệt vời qua những vần thơ hàm súc, biểu cảm và giàu hình tượng. “Cánh đồng quê chảy máu”, ”Giây thép gai đâm nát trời chiều” là những hình ảnh thơ mới mẻ, độc đáo và hay. ”Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” là một hình ảnh mang tính kế thừa sáng tạo, thể hiện một hồn thơ chiến sĩ cho ta nhiều rung cảm thấm thía. Đọc ”Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, tâm hồn ta được bồi đắp bao tình cảm đẹp trở nên trong sáng và phong phú, để ta yêu, để ta nhớ, ta sống lại và tự hào về những năm tháng hào hùng và oanh liệt với ngọn lửa Điện Biên thần kì của đất nước và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.  

 Châu Bảo ( Sưu tầm)

Bài Thơ Ca Ngợi Đất Nước

Tình yêu quê hương đất nước, tổ quốc là một tình yêu dạt dào, chứa nhiều cảm xúc, không có ngòi bút nào có thể diễn tả nổi. Thông qua những bài thơ hay về quê hương đất nước, tổ quốc con người, bạn sẽ cảm nhận được một phần nào đó về tình yêu dành cho quê hương, tổ quốc của mình và nhớ lại những buổi chiều tà cùng bạn đi chăn trâu những chùm khế ngọt, tắm ao, tắm hồ, lắng nghe tiếng sáo, tiếng diều buổi chiều hè … Tất cả đều là những hình ảnh rất đỗi thân thương.

Bài Thơ Ca Ngợi Đất Nước Việt Nam Số 1: Việt Nam Quê Hương Ta – Tác giả: Nguyễn Đình Thi

Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơnCánh cò bay lả rập rờnMây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiềuQuê hương biết mấy thân yêuBao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đauMặt người vất vả in sâuGái trai cũng một áo nâu nhuộm bùnĐất nghèo nuôi những anh hùngChìm trong máu lửa lại vùng đứng lênĐạp quân thù xuống đất đenSúng gươm vứt bỏ lại hiền như xưaViệt Nam đất nắng chan hoàHoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanhMắt đen cô gái long lanhYêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chungĐất trăm nghề của trăm vùngKhách phương xa tới lạ lùng tìm xemTay người như có phép tiênTrên tre lá cũng dệt nghìn bài thơNước bâng khuâng những chuyến đòĐêm đêm còn vọng câu hò Trương ChiĐói nghèo nên phải chia lyXót xa lòng kẻ rời quê lên đườngTa đi ta nhớ núi rừngTa đi ta nhớ dòng sông vỗ bờNhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngôBũa cơm rau muống quả cà giòn tan …

Bài Thơ Ca Ngợi Tổ Quốc Việt Nam Số 2: Quê Hương – Tác Giả: Đỗ Trung Quân

Quê hương là gì hở mẹMà cô giáo dạy phải yêuQuê hương là gì hở mẹAi đi xa cũng nhớ nhiềuQuê hương là chùm khế ngọtCho con trèo hái mỗi ngàyQuê hương là đường đi họcCon về rợp bướm vàng bayQuê hương là con diều biếcTuổi thơ con thả trên đồngQuê hương là con đò nhỏÊm đềm khua nước ven sôngQuê hương là cầu tre nhỏMẹ về nón lá nghiêng cheLà hương hoa đồng cỏ nộiBay trong giấc ngủ đêm hèQuê hương là vòng tay ấmCon nằm ngủ giữa mưa đêmQuê hương là đêm trăng tỏHoa cau rụng trắng ngoài thềmQuê hương là vàng hoa bíLà hồng tím giậu mồng tơiLà đỏ đôi bờ dâm bụtMàu hoa sen trắng tinh khôiQuê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôiQuê hương có ai không nhớ …

Bài Thơ Ngắn Về Tổ Quốc Số 3: Quê Hương – Tác Giả: Nguyễn Đình Huân

Quê hương là một tiếng veLời ru của mẹ trưa hè à ơiDòng sông con nước đầy vơiQuê hương là một góc trời tuổi thơQuê hương ngày ấy như mơTôi là cậu bé dại khờ đáng yêuQuê hương là tiếng sáo diềuLà cánh cò trắng chiều chiều chân đêQuê hương là phiên chợ quêChợ trưa mong mẹ mang về bánh đaQuê hương là một tiếng gàBình minh gáy sáng ngân nga xóm làngQuê hương là cánh đồng vàngHương thơm lúa chín mênh mang trời chiềuQuê hương là dáng mẹ yêuÁo nâu nón lá liêu siêu đi vềQuê hương nhắc tới nhớ ghêAi đi xa cũng mong về chốn xưaQuê hương là những cơn mưaQuê hương là những hàng dừa ven kinhQuê hương mang nặng nghĩa tìnhQuê hương tôi đó đẹp xinh tuyệt vờiQuê hương ta đó là nơiChôn rau cắt rốn người ơi nhớ về.

Bài Thơ Về Quê Số 4: Đường Về Quê Mẹ – Tác Giả: Đoàn Văn Cừ

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,Lại dẫn chúng tôi về nhận họBên miền quê ngoại của hai thân.Tôi nhớ đi qua những rặng đề,Những dòng sông trắng lượn ven đê.Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,Người xới cà, ngô rộn bốn bề.Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâuTrông u chẳng khác thời con gáiMắt sáng, môi hồng, má đỏ au.Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,Đoàn người về ấp gánh khoai lang,Trời xanh cò trắng bay từng lớp,Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.Tà áo nâu in giữa cánh đồng,Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.Bóng u hay bóng người thôn nữCúi nón mang đi cặp má hồng.Tới đường làng gặp những người quen.Ai cũng khen u nết thảo hiền,Dẫu phải theo chồng thân phận gáiĐường về quê mẹ vẫn không quên.

Bài Thơ Số 5: Tràng Giang – Tác Giả: Huy Cận

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò ngang.Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Nguồn: Sưu tầm