Xuất Xứ Bài Thơ Việt Bắc / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Chùm Thơ Hay Viết Về Quê Hương Xứ Kinh Bắc

Tổng hợp những bài thơ hay viết về tình yêu quê hương và văn hóa xứ Kinh Bắc. Kinh Bắc là tên gọi xưa cũ về địa danh nằm ở phía Bắc nước ta. Văn hóa xứ Kinh Bắc nổi tiếng với: Dân ca quan họ, lễ hội Gióng,… Có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như: đền Sóc, Tây Yên Tử, chùa Phật Tích, chùa Dâu, chùa Vĩnh Nghiêm, Cổ Loa, đền thờ Hai Bà Trung,…

BÀI THƠ: NHỚ VỀ KINH BẮC

Tác giả: Hoa Chu Van

Hàng năm cứ đến tiết xuân

Ai về kinh bắc bước chân nhẹ nhàng

Nghe bài hát đón xuân sang

Dân ca quan họ rộn ràng nơi đây

Niềm thương nỗi nhớ vơi đầy

Sông Cầu nước chảy bóng mây vờn bờ

Quê hương Kinh Bắc mộng mơ

Giao duyên đối đáp trông chờ say mê

Em buông vạt áo bốn bề tứ thân

Tưng bừng đất nước vào xuân

Hội Lim anh nhớ những lần gặp nhau

Thơm nồng vị nặm đậm mầu hồng tươi

Trầu têm cánh phượng em mời

Em trao kỷ vật một đời cho anh

Giao duyên xe kết tác thành

Liền anh liền chị ngọt lành say mê

Sang năm đến đón phu thê một nhà

Hồng tươi đào thắm nở hoa

BÀI THƠ: GẶP EM NƠI LỄ HỘI

Tác giả: Thơ và Tình

Gặp em nơi chốn đông người quá

Chỉ kịp nhìn nhau một phút thôi

E thẹn lườm anh rồi vội vã

Gót sen tung tẩy ở chân đồi

Hội Lim làng xã mở năm nay

Rộn rã làng quê, cả mấy ngày

Duệ Khánh, Lộ Bao đầy đủ hết

Lũng Giang, Đình Cả cũng vừa đây

Đi theo liền chị suốt mấy ngày

Nghe tiếng mà chưa gặp đã say

Em cứ lã lơi cùng mấy chị

Liền anh xao xuyến giáng hao gầy !

Câu hát giao duyên lời giã bạn

Thôn Đông bịn rịn với thôn Đoài

Làng nước cuốn cờ sau lễ hội

Nán lại chờ nhau dưới khóm mai

Xin được cùng em một đoạn đường

Má phấn môi hường đã thấy thương

Mai mốt anh sang bên Đình Cả

Gửi nốt cho mình hết vấn vương !

BÀI THƠ: SANG KINH BẮC

Tác giả: Đồng Kế

Anh buồn hứng nỗi bơ vơ đem về

Còn bao vướng bận câu thề … đa mang

Gió đùa xô chiếc thuyền nan

Câu “Người ơi” hát dở dang bao đời

Mà nghe muốn nuốt từng lời

Giọng em trong vắt ngọt mời vút lên

Miếng trầu cánh phượng em têm

Ăn vào say mãi đến mềm ruột gan

Bao giờ lại hẹn nhau sang

Để ta thiếp thiếp chàng chàng có nhau

Lơ thơ nước chảy sông Cầu

Chia tay trong dạ nỗi sầu đầy vơi

Dùng dằng những hạt mưa rơi

Có thương có nhớ … người ơi … đừng về!

BÀI THƠ: GỞI VỀ MIỀN QUAN HỌ

Tác giả: Mai Trúc

Gởi câu thơ qua miền quan họ

Phía chòng chành dải nón quai thao

Lúng liếng tràn điệu hát ngọt ngào

Nụ tầm xuân gọi bình minh thức

Xuôi sông Cầu về miền Kinh Bắc

Qua cầu dải yếm để tìm nhau

Chiều tràn sóng, thuyền thơ nghiêng ngả

Trong câu hát cánh cò bay lả

Miếng trầu cánh phượng đỏ cả lòng

Lời thơ rơi giữa mênh mông

Mới gặp đây sao đành giã bạn

Chưa kịp cùng em lên quán dốc

Đêm xuân vồi vội mảnh trăng non

Câu thơ buộc câu hát ví von

Còn em buộc hồn tôi vào quan họ.

BÀI THƠ: VỀ KINH BẮC XƯA

Tác giả: Dạ Khúc

Trở về Kinh Bắc một chiều say

Say người, say rượu, say Quan Họ

Say cả con tim với đất này

Ta đã về đây Kinh Bắc ơi!

Một chiều đông sương gió tơi bời

Biên thùy vó ngựa quân Nam réo

Giặc Tống kinh hoàng thây xác phơi

Ta đã về đây với nước non

Đông Đô xưa mấy thuở vàng son

Dấu Tích Cha Ông oai hùng quá!

Lối cũ rêu phong vẫn chửa mòn

Quan Họ ai ca giữa trời chiều

Cho lòng lữ khách bớt cô liêu

Áo the chen nón quai thao ấy!

Đọng lại trong ta biết mấy điều

Ta về Kinh Bắc nhớ Hoàng Cầm

“Bên kia Sông Đuống” người còn không?

Một chiều đông lạnh ta đâu lạnh

Ngâm lại bài thơ ấm cả lòng.

BÀI THƠ: DUYÊN KINH BẮC

Tác giả: Xuân Phong

Dập dìu liền chị liền anh

Bắc Ninh tình lắm, anh càng tình hơn

Bên em anh mới tỏ tường chữ “Yêu”

Têm trầu cánh phượng – nên duyên

Ao dài khăn đóng ! Mạn thuyền người ơi

Người ơi sáng nhớ chiều chờ

Bắc Ninh xuân đậm chữ tình

Xuân này càng đậm chúng mình nên duyên.

BÀI THƠ: VỀ KINH BẮC

Tác giả: Hồ Thanh

Trở về Kinh Bắc một chiều say

Say người, say rượu, say Quan họ…

Say cả con tim với đất này.

Ta đã về đây Kinh Bắc ơi!

Một chiều đông sương gió tơi bời

Biên thùy vó ngựa quân Nam réo

Giặc Tống kinh hoàng thây xác phơi.

Ta đã về đây với Nước non

Đông đô xưa mấy thuở vàng son

Dấu Tích Cha ông oai hùng quá!

Lối cũ rêu phong vẫn chưa mòn?

Quan họ ai ca giữa trời chiều

Cho lòng lữ khách bớt cô liêu

Áo the chen nón quai thao ấy

Đọng lại trong ta biết mấy điều

Ta về Kinh bắc nhớ Hoàng Cầm

“Bên kia sông Đuống” người còn không?

Đất trời có lạnh ta đâu lạnh

Ngâm lại Thơ xưa ấm cả lòng.

Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc

I. Bình giảng về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc

1. Nhà thơ Tố Hữu

Xuân Diệu đã từng nhận xét “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Thật vậy! Thơ Tố Hữu là tiếng lòng ngân vang của một lí tưởng cộng sản, của cách mạng, của non sông gấm vóc. Bởi thế, các sáng tác của Tố Hữu như một “cuốn biên niên sử bằng thơ” song hành với những biến cố lịch sử của dân tộc. Việt Bắc là một trong những bài thơ như thế.

2. Bài thơ Việt Bắc

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh trọng đại, thiêng liêng của đất nước. Tháng 7 năm 1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Trong cuộc chia tay với mảnh đất chiến khu đầy ắp ân tình và kỷ niệm, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để cất lên tiếng ca đằm thắm về đạo lý thủy chung, nghĩa tình của dân tộc.

II. Nội dung bài thơ Việt Bắc

1. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 1

Câu thơ mở đầu đọc lên, ta nghe thấy tâm tình của lời ca dao yêu thương, tình tứ:

“Mình về có nhớ ta chăngTa về ta nhớ hàm răng mình cười”

Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt Bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm thế mà nay những chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế này bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô “mình-ta” thể hiện sự gần gũi thân thiết của cán bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy.

Tuy nhiên, phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này một cách kỹ càng ta lại nhận ra tình nghĩa cách mạng dạt dào trong thơ Tố Hữu. Việt Bắc là quê hương, là cội nguồn kháng chiến, là nơi che chở cưu mang cho Đảng và chính phủ trong suốt những năm dài chiến đấu gian khổ. Bốn câu thơ đầu vang lên với hai câu hỏi dồn dập như nỗi niềm trăn trở khôn nguôi của người ở lại. Một câu hỏi về thời gian kháng chiến gian lao mà anh dũng, một câu hỏi về không gian xa xôi mà đầy ắp ân tình.

2. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 2

Mười hai dòng lục bát tạo thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỷ niệm kháng chiến. Hình ảnh mưa nguồn, suối lũ, mây mù gợi về 1 thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt của Việt Bắc trong những cả nước chung sức, chung lòng đấu tranh. Biết bao ân tình của nhân dân Việt Bắc đã dành cho cán bộ cách mạng, vì thế mà người ở lại đã cất lên những câu hỏi da diết cho người ra đi.

Phân tích bài thơ Việt Bắc 20 câu đầu ta mới thấy Tố Hữu đã sử dụng hai hình ảnh đối xứng, “miếng cơm chấm muối” và “”mối thù nặng vai”” để hình dung niềm căm thù quân cướp nước như có hình, có khối đè trĩu trên vai. Hình ảnh nhân hóa “rừng núi nhớ ai” và hai đại từ phiếm chỉ “ai” khiến câu thơ trở nên tình tứ, thiết tha. Mình về miền xuôi, núi rừng cũng trở nên trống vắng, bâng khuâng. Những sản vật quen thuộc của Việt Bắc như trám bùi, măng mai hòa cùng tâm trạng con người để diễn tả thấm thía nỗi cô đơn, hẫng hụt của người ở lại. Không chỉ nhắc lại quá khứ mà tác giả còn khẳng định lòng thủy chung, son sắt. Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền” thì các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỷ niệm của một thời kháng chiến.

Mình về còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Câu thơ như nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử “khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này:

Chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm. Câu thơ sáu chữ có đến 3 từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: cán bộ về xuôi, có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Thay “ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “ta” và “mình” đã hòa vào nhau. Dù kẻ ở, hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ như nhau.

Ở nghĩa đẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ 1 – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, mà phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn 2 ra ta mới thấy được triết lý sâu sắc trong câu thơ này.

Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22/12/1944 khi đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; mái Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách mạng.

Hai câu thơ như lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách mạng hay không? Khơi dậy một quá vãng đầy kỷ niệm, cay đắng, ngọt bùi, đồng thời muốn khẳng định với người ra đi một điều: Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo khổ mà chân tình rộng mở, sắt son thủy chung với Cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy.

3. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 3

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó

“- Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Lời thề nguyền vang lên rắn rỏi, cương quyết mà đầy ắp nghĩa tình. Nếu nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn thì ân nghĩa của nhân dân Việt Bắc luôn được người đi khắc cốt ghi tâm. Dù ta có trở về nơi phố phường hoa lệ nhưng một mảnh đời ta đã để lại nơi núi rừng Việt Bắc. Vì thế, Việt Bắc chính là một phần tâm hồn, một phần máu thịt của ta.

Nỗi nhớ của người ra đi với một loạt những hình ảnh về thiên nhiên Việt Bắc mơ mộng sau khi phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn 3:

Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Thiên nhiên Việt Bắc vừa đơn sơ, vừa thơ mộng với ánh trăng trên đầu núi, nắng chiều trên nương rẫy. Có thể thấy rằng, nỗi nhớ của người ra đi cứ trải dài mênh mang trong không gian, trải dài triền miên theo thời gian và đi sâu vào tiềm thức của con người. Nỗi nhớ ấy gợi bao yêu thương, chia sẻ:

“Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Sắn bùi, chăn sui là những hình ảnh quen thuộc, bình dị của cuộc sống chiến khu, đi liền về sự sẻ chia, đùm bọc. Dù sau này người đi có thưởng thức những cao lương mĩ vị chốn thành thị nhưng chắc hẳn chẳng thể nào quên củ sắn chia đôi, bát cơm sẻ nửa trong những ngày tháng gian nan, thiếu thốn. Trong những kỉ niệm về Việt Bắc, cán bộ cách mạng đã dành cho người mẹ nơi đây một tình cảm thật đậm sâu, tha thiết:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưngÐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ, không quản nắng cháy, mưa sa, mẹ vẫn cặm cụi địu con lên rẫy bẻ ngô nuôi cán bộ. Mẹ chắt chiu, gom góp công sức nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến lớn lao của dân tộc. Bà mẹ Việt Bắc gợi liên tưởng đến bà mẹ Tà Ôi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

4. Phân tích bài thơ Việt Bắc bức tranh tứ bình

Trong hoài niệm về những năm tháng kháng chiến ở Việt Bắc, tác giả đã dành cho cảnh và người nơi đây một nỗi nhớ rất riêng:

Đoạn thơ gồm 10 câu chia làm hai phần. Hai câu thơ đầu tiên như một lối nói đưa đẩy, giao duyên trong ca dao. Giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng, tiếp nối mạch đối đáp giao duyên giã bạn, nhân vật trữ tình “ta” đã đối thoại với “mình”. Câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ làm cho lời thơ vừa là đối thoại nhưng cũng là một gạch nối để “ta” bày tỏ nỗi lòng. Không đợi cho “mình” trả lời, nhân vật “ta” tiếp tục xác định nỗi nhớ của mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa và người là nhớ tới thiên nhiên tươi đẹp của Việt Bắc, nhớ tới những con người Việt Bắc cần cù đã từng cưu mang gắn bó với kháng chiến.

Bức tranh tứ bình hiện ra sau khi ta phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này với màu xanh bát ngát của rừng già. Trên không gian lạnh lẽo, bạt ngàn thăm thẳm ấy là những đuốc lửa đốt lên ấm áp của sắc hoa chuối rừng. Cảnh vật Việt Bắc không còn hoang lạnh mà đẹp như một bức tranh. Sắc đỏ của hoa chuối rừng như thắp lên niềm tin yêu và trở thành điểm nhớ lung linh trong lòng người về xuôi. Giữa vẻ đẹp của sắc màu, hoa lá, hiện lên con người lao động làm chủ núi rừng. Con người đứng hiên ngang trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào dao gài thắt lưng tạo nên một sự phản quang lấp lánh. Câu thơ cho thấy sự khỏe khoắn, vững chãi của người dân Việt Bắc.

5. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ cuối

Liền một mạch thơ là hình ảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, hào hùng, sôi động với hình ảnh những đoàn bộ đội dân công nao nức trên các nẻo đường:

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một. “Ánh sao” để chỉ người chiến sĩ còn “mũ nan” chính là những người dân quân Việt Bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt Bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thảy với sức mạnh giống như là “nát đá”. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Và sau bao nhiêu khổ cực khó khăn, nhân dân ta đã giành được chiến thắng. Tin vui ấy lan rộng khắp từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên…

Khác với những giai điệu tình nghĩa, mượt mà ở đoạn trên, phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này ta thấy được một bức tranh sử thi hoành tráng, ngợi ca sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và nhân dân anh hùng. Thể thơ lục bát được thể hiện linh hoạt, giọng điệu sôi nổi, dào dạt đã tạo nên một khúc ca anh hùng tràn đầy cảm hứng tự hào về cuộc kháng chiến của dân tộc.

Kết thúc đoạn thơ, một lần nữa nhà thơ khẳng định ý nghĩa của Việt Bắc, chiếc nôi của cách mạng trong suốt chặng đường kháng chiến gian lao. Việt Bắc là nơi chở che, cưu mang, là nơi thắm thiết nghĩa tình. Với thể thơ lục bát uyển chuyển, linh hoạt, giọng điệu tâm tình, sâu lắng, thiết tha, kết cấu đối đáp “mình – ta” ngọt ngào, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, sau khi phân tích bài thơ Việt Bắc ta đã thấy những năm tháng gian lao và anh hùng của dân tộc qua sự đằm thắm, yêu thương. Xuyên suốt những câu thơ của Tố Hữu là câu hỏi hướng về cội nguồn đạo lí. Việt Bắc xứng đáng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Nguồn: chúng tôi

Tính Dân Tộc Trong Bài Thơ Việt Bắc

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Phần 2

T ố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc.

GS Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuẫn nhuyễn.” Ông đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta nên tìm hiểu bài thơ tiêu biểu của ông: Việt Bắc. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.

Giải thích khái niệm: tính dân tộc…?

Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ dân tộc trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời. Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.

Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là kết tinh của những tinh hoa dân tộc. Bác hiện lên thật bình dị, gần gũi và thiết tha. Tố Hữu gọi Bác Hồ là Bác, là Người và đặc biệt gọi là ông Cụ. Tiếng gọi nghe tha thiết, chất chứa bao ân tình mà gần gũi xiết bao. Không những thế Bác còn là niềm tin, là ánh sáng nâng bước và sưởi ấm lòng mỗi người trong những hoàn cảnh đen tối nhất:

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Nó chứng tỏ những tình cảm thiết tha của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định cũng nói lên quan niệm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ những người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người Việt Nam. Mười lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc chiến tranh đã đẩy họ về gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm một quãng thời gian không phải là ngắn, biết bao kỉ niệm biết bao những cay đắng ngọt bùi đã trải qua giờ đây đến giây phút chia tay, ai cũng bịn rịn, ai cũng nghẹn ngào. Tố Hữu đã một lần nữa cho chúng ta thấy được tính cách dân tộc của người Việt Nam “trọng nghĩa, trọng tình”. Dân tộc ta rất giàu tình cảm. Tình cảm đã làm cho con người qua cay đắng vẫn ngọt ngào, “Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Tố Hữu ca ngợi tình cảm thuỷ chung, đặc điểm này có cội rễ sâu xa trong truyền thống dân tộc, lại được bồi bổ phát huy thêm trong đấu tranh cách mạng. Người dân Việt Nam mang nặng tình nghĩa đối với Đảng đã hồi sinh đất nước, đem lại cuộc đời mới cho riêng mỗi người. Chính vì “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay” mà “lòng ta ơn Đảng đời đời”:

Người Việt Nam yêu quý đất nước mình, tự hào về dân tộc mình. Nghĩa tình thuỷ chung là đặc tính của dân tộc ta từ nghìn xưa đến nay. Trong đấu tranh gian khổ, tình cảm ấy lại càng ngời sáng. Những con người hầu hết đã lớn lên cùng cách mạng, luôn gắn bó với quê hương đất nước. Tác giả đã cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời sống rất đời thường nhưng cũng xiết bao gợi cảm ở chốn rừng núi xa xôi:

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

Bài thơ được viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội, từ góc độ cuộc kháng chiến thành công mà nhìn lại căn cứ địa Việt Bắc, chiếc nôi của Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến. Bài thơ là cuộc đối thoại giữa mình với ta, ta với mình nhưng tình điệu, hơi thơ có khi cả lời thơ quấn quýt hòa quyện. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Mười lăm năm ấy bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại của đã diễn ra, xuất phát từ cái nôi cách mạng.

Việt Bắc hiện lên với những con người thật đẹp biết bao. Tác giả đã dùng hai hình ảnh đối lập để nói về tấm lòng của họ:

Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

“Hắt hiu lau xám” những ngôi nhà còn nghèo, còn nhiều vất vả nhưng tấm lòng của họ thì son sắt thủy chung vạn lần. Đó là hình ảnh của “người mẹ nắng cháy lưng” vẫn đang ngày đêm góp công sức của mình cho cuộc kháng chiến. Đó là hình ảnh của những con người Việt Bắc trong cuộc sống đời thường hài hòa với hình ảnh thiên nhiên:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đoạn thơ hiện lên “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc và dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thật thanh mảnh, dịu dàng. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khoẻ khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng.

1.3. Hình ảnh chiến sĩ cách mạng :

Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút chia ly cũng đầy tâm trạng:

– Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút chia tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. “cầm tay” cái cầm tay chứa chan bao tình cảm, như muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời. Tấm lòng của họ luôn thủy chung, son sắt:

– Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Rời xa Việt Bắc họ ôm bao nhiêu nỗi nhớ: “từng bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngày tháng cơ quan”, “lớp học i tờ”…Dẫu cuộc chiến gian khổ nhiều vất vả “Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” nhưng tâm hồn những người

Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Lạc quan, yêu đời là bản chất tính cách của con người Việt Nam. Đó chính là nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua bao khó khăn chông gai của cuộc đời. Ân tình là vậy, thủy chung là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi vào trận chiến, đối mặt với kẻ thù họ mạnh mẽ vô cùng:

Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Những nhịp điệu đêm đêm, những điệp thanh rầm rập cùng với hình thức so sánh đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh. Khí thế chiến đấu thần kì của quân và dân ta làm rung chuyển đất trời, không một thế lực nào có thể ngăn cản được.Cả một dân tộc ào ào ra trận. Và còn có sự góp sức không nhỏ của hàng chục vạn anh chị dân công:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Họ là những người đã khuân, đã vác, đã thồ hàng trăm cây số từ mấy mươi tỉnh khác nhau ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi hàng trăm ngày đường, qua hàng trăm đêm trắng dưới mưa bão của đất trời và bom đạn đem được lương thực đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cả một kì công về giao thông tiếp vận mà kẻ thù không sao có thể tưởng tượng nổi. Nó hiểu làm sao nổi, ước lường làm sao hết cái giá mồ hôi của một bát gạo, một viên đạn mà nhân dân ta đã cung ứng cho chiến trường Tây Bắc.

Như vậy có thể nhận thấy, bài thơ Việt Bắc đã khắc họa hình ảnh con người

Việt Nam, những con người mang những nét đặc trưng tiêu biểu cho dân tộc Việt

Nam: thủy chung, ân tình, luôn luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian khổ và

cũng rất anh hùng, dũng mãnh trong chiến đấu.

2. Phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam:

Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên làm nền cho vẻ đẹp của con người xuất hiện. Thiên nhiên có con người thiên nhiên càng thêm hữu tình. Một bông hoa chuối rực đỏ như một ngọn lửa, cháy bùng lên giữa rừng xanh bạt ngàn xua tan đi cái lạnh lẽo giữa mùa đông giá rét. Con người bước đi hiên ngang “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Những đóa hoa mơ dệt núi rừng thành tấm thảm màu trắng tinh khôi. Con người miệt mài với công việc đan nón của mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn đầy sức sống, sáng bừng cả thiên nhiên và con người. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh ánh trăng. Bởi đó là ánh trăng của hòa bình của yên vui và hạnh phúc. Ánh trăng hòa quyện trong tiếng hát của con người.

Việt Bắc không chỉ là hình ảnh của riêng Tây Bắc. Tố Hữu nhắc đến rất nhiều địa danh, có những cái tên đã đi vào lịch sử, cắm nên những cột mốc lớn nhỏ của cuộc kháng chiến, những tên đã làm nên nội dung, linh hồn của quê hương đất nước:

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? … Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy… Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà Niềm vui chiến thắng đến với Việt Bắc từ muôn nơi: Tin vui chiến thắng trăm miềm Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Miền đất nào cũng muốn góp phần mình vào cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước giàu đẹp hơn, hùng mạnh hơn. Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng khắc nghiệt: Mình đi, có nhớ những ngày mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù.

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc – Phần 1