Xuất Xứ Bài Thơ Tràng Giang / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Xuất Xứ Của Bài Thơ “Gửi Lời Chào Lớp Một”

Từ thập kỷ 80, bài thơ “Gửi lời chào lớp Một” đã được đưa vào sách giáo khoa và vẫn hiện hành với sách cải cách. Đã có những nhầm lẫn về xuất xứ bài thơ và cuối cùng cũng tìm ra xuất xứ tin cậy nhất. Xin tổng hợp các thông tin để chia sẻ với các bạn.

Bài thơ “Gửi lời chào lớp Một”

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Cố sẽ xa chúng em…

Cô sẽ luôn ở bên.

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Lời bình của nhà văn Phạm Khải

Nghi ngờ sách giáo khoa ghi sai tên tác giả

Ở SGK Tiếng Việt lớp 1 (tập 2) dưới bài thơ ghi tên tác giả là Hữu Tưởng. Người đưa nghi vấn đầu tiên về tác giả là nickname Tran Trung.

Trên trang cá nhân của mình, Tran Trung chia sẻ: “Internet thật là tuyệt! Nhờ nó mà tình cờ mình biết được bài thơ quen thuộc một thời Gửi lời chào lớp Một là lời bài hát trong bộ phim Liên Xô (cũ) Maruxia đi học, sản xuất năm 1948″.

Những độc giả khác truy tìm trên mạng thì thấy quả kịch bản của phim Maruxia đi học này có lời bài hát Nga tựa như bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong SGK. Dòng trạng thái này của Tran Trung được nhiều bạn bè, cư dân mạng chia sẻ với nhiều câu hỏi.

Nickname Uyên Thảo Trần Lê cung cấp thêm thông tin: “Bài thơ này tôi nhớ học từ năm lớp 1 cách đây 50 năm, khi ấy người ta ghi là phỏng thơ”. Nickname Mai Anh cũng viết: “Bài này hồi mình học năm 1970 đã biết là của Nga mà”.

Qua tìm hiểu, được biết sau năm 1975, SGK lớp 1 có hai lần được sửa chữa. Lần chỉnh sửa thứ nhất là năm 1979, xuất bản năm 1981. Lần chỉnh lý thứ hai là năm 1989, xuất bản năm 1994. Sách Tiếng Việt lớp 1 được lưu hành hiện nay dựa trên bản chỉnh lý năm 1994.

Ý kiến các nhà làm sách giáo khoa

PGS.TS Đặng Thị Lanh, chủ biên của sách Tiếng Việt lớp 1 hiện hành, cho biết bản chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1994 dựa trên sách Tập đọc lớp 1 xuất bản năm 1981.

Lúc đó, sách vẫn đề tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một là “theo Hữu Tưởng”. Còn với những bản gốc trước năm 1981, bà Lanh cho hay bà cũng không biết nên chưa có cơ hội đối chiếu.

“Tôi cũng không biết tác giả Hữu Tưởng là ai. Khi làm sách thì chúng tôi không thể gặp từng tác giả một. Chúng tôi chỉ trích lại theo nguồn (năm 1981) mà thôi” – bà Lanh nói.

Thạc sĩ Trần Mạnh Hưởng – người cùng tác giả Nguyễn Có được giao chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1989 – cũng xác nhận bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong quyển Tiếng Việt lớp 1 hiện hành được trích lại từ sách Tập đọc lớp 1 năm 1981, ghi tác giả bài thơ là “theo Hữu Tưởng”, còn bản hiện hành để tên tác giả là Hữu Tưởng.

Theo ông Đào Duy Mẫn – nguyên phó vụ trưởng Vụ Giáo dục phổ thông, một đồng nghiệp cũ của ông Hữu Tưởng – thì ông Hữu Tưởng tên thật là Nguyễn Hữu Tưởng, nguyên viện phó Viện Khoa học – giáo dục trước đây, đã mất vào những năm 1980. Theo đánh giá của ông Mẫn thì tác giả Hữu Tưởng là một đồng nghiệp rất uy tín.

Như vậy, xung quanh tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một đã có nhiều thông tin lẫn lộn – học sinh thuộc những năm 1970 cho biết bài thơ được phỏng theo một ca khúc Nga, học sinh từ năm 1981 đến nay hiểu là thơ của Hữu Tưởng.

Để giải quyết sự không rõ ràng này, chúng tôi Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: “Người làm sách cần phải tra cứu lại những bản sách trước sách Tập đọc năm 1981, xem lại bài thơ có giống như bài hát Nga đã nói không. Nếu có, cần phải chú thích lại cho rõ”.

Xuất xứ bài thơ theo tài liệu lâu nhất

Sau khi đọc bài viết “Gửi lời chào lớp Một: Thơ của ai?” (Tuổi Trẻ ngày 7/7/2015), ông Lê Khánh Hoài (bút danh Châu La Việt) đã nhận ngay ra đây là bản dịch của cha ông – nhà báo Lê Khánh Căn.

Tại Thư viện Quốc gia, ông Lê Khánh Hoài đã tìm thấy bản dịch truyện Ma-rút-xi-a đi học gồm hai tập do NXB Kim Đồng in năm 1959 với số lưu chiểu lần lượt là 6.379 và 6.511.

Ngay trang đầu tập truyện dịch (in lần đầu năm 1958), lời nhà xuất bản có ghi: “Xin giới thiệu với các em tập truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác. Đây là một truyện rất quen biết của các em nhỏ Liên Xô, đã được quay thành phim lấy tên là Em nữ sinh lớp một… Lần tái bản này chúng tôi có lược bớt đi một số đoạn. Mong rằng sau này sẽ có dịp giới thiệu với các em toàn bộ cuốn truyện”.

Đáng chú ý là ở cuối tập hai của truyện có in toàn bộ bài thơ được dẫn dắt như sau:

“Toàn lớp hai “A” kéo ra đầy sân khấu. Các em hát: Lớp một ơi, lớp một!/Đón em vào năm trước;/Năm nay lên lớp hai,/Gửi lời chào tiến bước!/ Phấn, bảng, sổ gọi tên,/Theo chúng em cùng lên/Chúng em dần lớn mãi,/Bàn ghế cùng lớn thêm,/Chúng em chơi thân mật/Yêu thương cả mọi người,/Đứa bạn em yêu nhất/Cũng cùng lên lớp hai./Còn cô giáo thân mến/Cô sẽ xa chúng em?/Không, cô yêu chúng em/ Cô cũng lên lớp chứ./Thế là cùng vui vẻ,/Chúng em tiến bước đều,/Cùng cả trường cả lớp,/Cùng Tổ quốc thân yêu!…

Khánh Như trích dịch (theo bản Pháp văn Maroussia va à l’ecole của Nhà xuất bản Ngoại Văn Liên Xô)/ In 5.065c tại Nhà máy in Tiến Bộ – Hà Nội. Gửi lưu chiểu tháng 3-1959.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Khánh Hoài nói: “Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, bố tôi làm bí thư Đoàn Trường Khải Định ở Huế, sau đó cùng với bác Trần Hoàn đi theo kháng chiến. Năm 1956, bác Tố Hữu cử ông sang làm Sở Báo chí trung ương. Năm 1957 ông về làm báo Nhân Dân với bút danh Hồng Chuyên. Với vốn tiếng Pháp của mình, ông đã dịch tập truyện Ma- rút- xi-a đi học do NXB Kim Đồng ấn hành.”

“Theo tôi nhớ, bản in lần đầu năm 1958 có ghi Lê Khánh Căn dịch. Đáng tiếc bản này tôi không tìm thấy nữa. Đến lần tái bản 1959, ông lấy tên con gái út mà ông yêu quý là Khánh Như để đặt bút danh. Đây là bản Thư viện Quốc gia còn lưu. Như vậy từ năm 1958-1959 đã có Ma-rút-xi-a đi học này rồi. Đến năm 1971, tập truyện tiếp tục được NXB Kim Đồng tái bản và dồn lại thành một tập”.

Về câu chuyện dư luận đang quan tâm, ông Khánh Hoài giải thích: “Theo như tôi tìm hiểu qua các bản in bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong sách giáo khoa lớp 1, lần đầu tiên phần tác giả được ghi là Hữu Tưởng (theo quyển Ma- rút- xi-a đi học), lần in thứ hai chỉ đề là Theo Hữu Tưởng, lần ba chỉ còn Hữu Tưởng – lúc đó ông Hữu Tưởng đã mất rồi. Không hiểu sao lại ghi như vậy? Trong khi lẽ ra bài thơ này chính xác nhất phải viết là: “Dựa theo truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác (Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một” – PV), bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959″.

Bản gốc bài hát

LỜI CHÀO LỚP MỘT

Đây là bài hát rút từ đoạn kết kịch bản phim “Nữ sinh lớp một” (Первоклассница – Режиссёр Илья Фрэз, Союздетфильм, 1948) của nhà văn, nhà soạn kịch Nga Evghenhi Lvovich Shvarts (Евгений Львович Швaрц, 1896 – 1958), tác giả của những truyện cổ tích tân biên nổi tiếng như “Phép lạ đời thường”, “Cái bóng”, “Lọ lem”, “Giết rồng”… Năm 1949, Shvarts công bố kịch bản “Nữ sinh lớp một” như một truyện vừa.

BigSchool: Như vậy, dưới bài thơ ở sách giáo khoa nên ghi: Dựa theo truyện “Ma-rút-xi-a đi học” của nhà văn Liên Xô Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một”. Vì ông Hữu Tưởng đã mất nên không hiểu ông đọc bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959 hay ông đọc thẳng bản tiếng Nga hay tiếng Pháp? Dù là cải biên hay phóng tác theo lời bài hát đã có, tác giả Hữu Tưởng vẫn đáng để chúng ta ghi nhận công của ông. Với những tác giả giáo khoa thì đây cũng là điều cần chú ý khi đưa các tác phẩm vào sách của mình.

Các bạn có thể xem và nghe bài hát này ở phần kết của video:

Nguồn: Báo Tuổi trẻ và FB của TS. Đỗ Hải Phong

Cảm Nhận Về Bài Thơ “Tràng Giang” (4)

Huy Cận (1919 – 2005) cũng như nhiều thanh niên thời đó nhận thức được cuộc đời sống tù túng, tẻ nhạt, quẩn quanh nên thường hay có nỗi buồn cô đơn. Bài thơ Tràng giang được trích trong tập thơ Lửa thiêng và được xem là một bản ngậm ngùi dài. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939 và cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng.

Khi cảm thụ bài thơ này các em lưu ý từ ngoại ảnh (những điều tác giả miêu tả) mà cảm nhận tâm cảnh (nỗi lòng người trong cảnh).

Khổ 2:

– Hai câu đầu làm nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh không gian đó, con người lại càng cô đơn, càng khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiết của cuộc đời (nghê thuật dùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” vừa có giá trị tạo hình vừa có khả năng biểu đạt tâm trạng sâu sắc: gợi lên được sự buồn bã, quạng vắng, cô đơn…. Nhà thơ tìm kiếm âm thanh cuộc sống của con người (đâu tiếng…. Chợ chiều) nhưng đồng thời phụ định ngay trong cách dùng từ “đâu” (không có). Chợ ở một làng xa, lại là chợ chiều, mà chợ đã vãn thì làm sao còn tiếng. Tất cả đều vắng lặng cô tích. Những từ: chiều, xa, vãn, góp phần triệt tiêu âm thanh, triệt tiêu điều tác giả khát khao tìm kiếm).

– Hai câu cuối khổ thơ, không gian được mở rộng ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Trong vụ trũ vô cùng, thăm thẳm ấy không chỉ cảnh vắng, cô lieu mà lòng người cũng như rợn ngợp, bởi sự bé nhỏ, lạc loài của cá thể trước cái mênh mông của đất trời. (Hàng loạt từ mở không gian ra nhiều hướng: xuống, lên, sâu chót vót, dài, rộng). Các kết hợp từ rất độc đáo “sâu chót vót” vừa gợi được độ cao của bầu trời vừa gợi được chiều sâu thăm thẳm của vũ trụ. Cách ngắt nhịp thơ có hiệu quả diễn ý: “Sông dài, trời rộng, bến cô lieu”, tô đậm thêm tính chất phân li của các sự vật).

Khổ 3:

Tiếp tục khắc sâu, tô đậm mạch cảm xúc đã thể hiện ở hai khổ đầu.

– Cái hiện hữu trước mắt vẫn là những hình ảnh gợi sự lênh đênh, vô định (bèo dạt về đâu) và tĩnh vắng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng).

Chú ý khai thác hiệu quả nghệ thuật: từ ngữ gợi sự liên tiếp, nối tiếp của hình ảnh buồn (hàng nối hàng; bờ…tiếp…bãi…); Đạo ngữ (lặng lẽ).

– Hình ảnh mà thi sĩ khát khao tìm kiếm là “Chuyến đò ngang”, là “cây cầu” nhưng sự phụ định đãn nằm ngay trong điệp từ “không”. Cảm thức về sự cô đơn lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói của con người (Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều), mong được nhìn thấy sự giao lưu, gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn là sự cách ngăn (Hình ảnh con đò, chiếc cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có). Nhà thơ không chỉ buồn khi đối diện với vụ trũ bao la, mà còn buồn về cuộc đời, về nhân thế.

Khổ 4:

– Khổ thơ này mang màu sắc. Đường thi khá rõ từ hình ảnh ước lệ (cánh chim hướng về núi chỉ cảnh chiều tối) đến cách dùng một số thi liệu thơ Đường (Hình ảnh “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng “Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa” đều nhằm chỉ sự hùng vĩ của thiên nhiên. Tuy nhiên câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét độc đáo riêng). Hoặc hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thôi Hiệu “Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” – Nêu cái buồn của Thôi Hiệu bắt nguồn trực tiếp từ ngoại cảnh thì nỗi sầu nhớ của Huy Cận có căn nguyên từ cõi lòng).

– Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc chứa đựng trong lớp ngôn từ đó lại mang tình hiện đại: cái tôi bơ vơ, cố đơn, rợn ngợp trước cuộc đời. Hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp. Nỗi nhớ nhà “dợn dợn” trong lòng. Đó chính là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn trống vắng của tác giả, chứ không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của một người xa quê.

Bài thơ Tràng giang gợi lên nỗi bơ vơ, buồn bả của con người trước không gian mênh mông, vô biển và nỗi khát khao giao cảm hoà hợp giữa người với người trong tình đất nước.

Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất 2022

1. Mở bài gián tiếp Tràng Giang

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết lên rằng: “Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thiên thai, không phải diệu ái tỉnh, không phải lời ly tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm than vãn của bờ sộng, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi tha thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?” Hôm nay đọc bài “Tràng Giang”, tôi mới hiểu được tại sao Xuân Diệu lại nói vậy. Bài thơ này là sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển đan xen hiện đại, vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên sông nước yên bình đầy sự tĩnh lẵng, ẩn chứa sau đó là nỗi buồn chất chứa – những u sầu của người thi sĩ ấy.

2. Mở bài Tràng Giang ngắn gọn

Huy Cận là một trong những nhà thơ rất giỏi của phong trào thơ mới (1930 – 1945). Ông đã yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng rất nhiều của nền văn học Pháp. Thơ ông chân thật hàm súc và giàu chất suy tưởng. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ hay đặc sắc, tiêu biểu nhất nhà thơ của Huy Cận được viết vào mùa thu năm 1939. Bài thơ là một minh chứng điển hình cho sự kết hợp hài hòa đan xen giữa chất cổ điển và chất hiện đại, vẽ lên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên yên bình, tĩnh lặng, ẩn chứa sau đó là cả một nỗi u sầu “vạn kỷ” của người thi sĩ.

Nếu như nhà thơ Xuân Diệu được biết đến với một hồn thơ mang nhiều nỗi ám ảnh về thời gian thì Huy Cận – người bạn tâm giao của ông lại mang trong mình hẳn một nỗi ám ảnh về không gian. Trong quá trình sáng tác văn học của mình đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn trước Cách mạng, Huy Cận đã để lại cho văn đàn Việt Nam rất nhiều những tác phẩm hay và xuất sắc phải kể đến đó là bài thơ “Tràng Giang”. Thi phẩm này là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại….

Nhà phê bình Hoài Thanh đã từng có nhận định:

” Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận…”.

Đúng vậy.

Thơ Huy Cận là sự xen kẽ giữa nổi sầu vũ trụ của thế nhân với nổi cơ đơn mang tính thời đại của các nhân.

Chính nó tạo thành nổi sầu vạn kỷ trong hồn thơ ông.

Đó là một tiếng thơ có nét gì đó rất riêng biệt ,

Là sự hòa trộn pha lẫn giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại.

Bài thơ ” Tràng Giang”(Huy Cận) là một tác phẩm thơ tiêu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy.

Qua bài thơ mang “vẻ đẹp cổ điện mà hiện đại” ,

Nhà thơ Huy Cận đã bộc lộ rõ nét cái sầu của một cái tối cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn,

Trong đó đã thấm đượm tình người , tình đời, lòng yêu nước thầm kín nhưng chân thật và thiết tha.

5. Mở bài Tràng Giang hay nhất

Nhà phê bình Hoài Thanh đã từng có nhận định:

” Đời chúng ta nằm trong một vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu”.

Nếu nhà thơXuân Diệu gắn liền hai cảm súc đắm say với thiết tha ,

Rạo rực ngược lại thì nhà thơ Huy Cận lại gắn liền với nổi u sầu vận kỷ mênh mang, đa sầu, đa cảm.

Bài thơ ” Tràng Giang” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và tình thơ của Huy Cận.

Như Voltaire từng nói:

“Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”.

Và Tràng Giang đang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ “vừa cổ điển vừa hiện đại”.

Nhà thơ thực sự đã đem đến cho người một tứ thơ hay giàu cảm xúc và đậm chất Huy Cận