Xuất Xứ Bài Thơ Thương Vợ / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Tác Phẩm Thương Vợ, Bài Thơ Thương Vợ Trần Tế Xương

Tác Phẩm thương vợ, bài thơ thương vợ Trần Tế Xương

Tác phẩm Thương vợ, Nội dung bài thơ Thương vợ, Thương vợ Soạn, Thơ thương vợ vất vả, Thương vợ được viết bằng chữ gì, Bài thơ Thương vợ chế, Bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương viết bằng chủ gì, Trần Tế Xương

– – – Quanh năm : Cách tính thời gian vất vả, triền miên, hết năm này sang năm khác. Mom sông : Địa điểm làm ăn cheo leo, nguy hiểm, không ổn định.

Nuôi đủ 5 con… 1 chồng : Bà Tú nuôi 6 miệng ăn. Ông Tú tự coi mình như một thứ con riêng đặc biệt ( Một mình ông = 5 người khác).

à Lòng biết ơn sâu sắc công lao của bà Tú đối với cha con ông Tú. Lòng vị tha cao quí của bà càng thêm sáng tỏ.

– – – Lặn lội thân cò: Vất vả, đơn chiếc khi kiếm ăn. Quãng vắng, đò đông: Cảnh kiếm sống chơi vơi, nguy hiểm. Eo sèo: Chen lấn, xô đẩy, vì miếng cơm manh áo của chồng con mà đành phải rơi vào cảnh liều lĩnh cau có, giành giật. – Nghệ thuật đối: Sự vất vả, sự hi sinh lớn lao của bà Tú đối với gia đình à Nói bằng tất cả nỗi chua xót. Thấm đẫm tình yêu thương.

à Câu thơ như một tiếng thở dài cam chịu. à Cách sử dụng phép đối, thành ngữ, từ ngữ dân gian, bộc lộ kiếp nặng nề nhưng rất mực hi sinh của bà Tú. – Dùng số từ tăng tiến: 1-2-5-10: Đức hi sinh thầm lặng cao quí. Bà Tú hiện thân của một cuộc đời vất vả, lận đận. Ở bà hội tụ tất cả đức tính tần tảo đảm đang, nhẫn nại. Tất cả hi sinh cho chồng con. à ÔngTú hiểu được điều đó có nghĩa là vô cùng thương bà Tú. Nhân cách của Tú Xương càng thêm sáng tỏ.

– Tú Xương tự chửi mình vì cái tội làm chồng mà hờ hững, để vợ phải vất vả lặn lội kiếm ăn. Ông vừa cay đắng vừa phẫn nộ. – Tú Xương chửi cả xã hội, chửi cái thói đời đểu cáng, bạc bẽo để cho bà Tú vất vả mà vẫn nghèo đói. – Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội

– Nội dung: Hình ảnh bà Tú hiện lên sinh động, rõ nét, tiêu biểu cho người phụ nữ VN đảm đang, tần tảo trong một gia đình đông con. Đức hi sinh, sự cam chịu của bà Tú càng làm cho ông Tú thương vợ và biết ơn vợ hơn. – Về nghệ thuật: Bài thơ hay từ nhan đề đến nội dung. Dùng ca dao, thành ngữ, phép đối. Thể thất ngôn bát cú Đường luật chuẩn mực. Mộc mạc chân thành mà sâu sắc, mạnh mẽ. à Thành công nhất của bài thơ là: Xây dựng hình tượng nghệ thuật độc đáo: Đưa người phụ nữ vào thơ ca, mà hình tượng đạt đến trình độ mẫu mực và thấm đượm chất nhân văn.

Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ

Phân tích bài thơ thương vợ – Bài làm 1

Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Có bài hoàn toàn là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng. Thương vợ là một bài thơ như vậy.

Thương vợ là bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Chỉ bằng vài lời kể nôm na, bình dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bà Tú một mình mang trên vai gánh nặng gia đình, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ.

Mom sông là mỏm đất nhô ra dòng sông, cũng là một địa điểm ở phía Bắc thành phố Nam Định. Ngày xưa, đây là nơi trên bến dưới thuyền, người từ các nơi đổ về buôn bán. Quanh năm, bà Tú làm ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình gồm hai vợ chồng và năm đứa con thơ.

Tại sao bà Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên là để nuôi chồng, nuôi con. Ngày xưa, xã hội phong kiến dành cho phụ nữ bổn phận là thờ chổng, nuôi con. Với bà Tú, chắc chắn là có chuyện thờ chồng. Thờ chồng bao hàm cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó là sự bất công của xã hội, nhưng xét về mặt đức độ thì sức đảm đang tháo vát của những người vợ như bà Tú thật đáng nể phục.

Cái không bình thường trong bài thơ là cách đếm số người. Giá như tính gộp lại là sáu miệng ăn và một mình bà Tú mà phải cáng đáng đến chừng ấy cũng đã là nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng này, tác giả đếm rõ ràng là: năm con với một chồng. Đặc biệt là tách riêng ông chồng ra và đếm là một. Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ này: “Hoá ra ông chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới đếm ngang hàng với chúng nó: một miệng ăn, hai miệng ăn…”.

Mà bà Tú nuôi chồng đâu có đơn giản như nuôi con. Cơm ăn đã đành, đôi khi phải có tí rượu tí trà cho ông ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đã đành, còn phải có bộ cánh tử tế cho ông đi đây đi đó, chứ ai lại để cho ông quanh năm “Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông” và “Một đoàn rách rưới con như bố”. Lại phải cho ông xỏng xảnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy thế mà bà nuôi đủ, tức là đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. Như vậy là bà Tú không chỉ nuôi ông Tú mà còn cung phụng, còn thờ.

Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ là ông chồng thấu hiểu và biết đánh giá một cách xứng đáng công lao của bà vợ. Như vậy là thương vợ.

Đến câu thứ ba, hình ảnh bà Tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên cụ thể và rõ nét hơn:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về người phụ nữ lao động ngày xưa: Con cò lặn lội bờ sông… nhưng ông không so sánh mà đồng nhất thân phận bà Tú với thân cò. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. Eo sèo chi sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đò đông có thể hiểu hai cách: một là đò ngang đã chở đầy người, hai là đò từ các nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nào cũng đúng với ý định đặc tả nỗi khó nhọc, gian nan trong cảnh kiếm ăn của bà Tú.

Bên cạnh nỗi khổ vật chất còn có nỗi khổ tinh thần. Vì chồng con mà phải lặn lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Và bà Tú cứ âm thầm lo toan như vậy cho đến hết đời, hết kiếp… số phận bà là vậy.

Câu thơ miêu tả mà đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm với nỗi khó nhọc của vợ và thương vợ đến vậy là sâu sắc.

Ông Tú hiểu thấu công việc làm ăn của bà Tú. Khi quãng vắng, buổi đò đông, bà đều vất vả khó nhọc, không kể gian nan, không quản thân mình, một lòng vì chồng, vì con. Bà Tú mà nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt và trong thâm tâm bà cũng được an ủi ít nhiều.

Nhưng không phải chĩ có thế, giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu tường thuật miêu tả (câu 3, 4) chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng. Thương vợ nhưng cũng là tự trách mình. Không phải chỉ tự coi mình là một miệng ăn để vợ phải nuôi mà còn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ông chồng trụ cột gia đình là mình ở đâu rồi mà để vợ phải nhọc nhằn, gian nan đến vậy? Tự trách mình như thế cũng là thương vợ thêm sâu.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Tú Xương lại vận dụng thêm một thành ngữ, một câu ca dân gian khác: Vợ chồng là duyên là nợ, Một duyên hai nợ ba tình… Vợ chồng gặp nhau là do ông Tơ bà Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có duyên thì tốt đẹp, hạnh phúc, là nợ thì đau khổ một đời.

Có lẽ ở đây, ông Tú mượn tâm tư bà Tú mà suy ngẫm hay đúng ra, ông hoá thân vào bà để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số phận.

Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo là duyên là nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số phận đã như thế thì cũng đành thôi, chứ biết làm thế nào?! Cái số kiếp người phụ nữ như tấm lụa đào, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ khi đói lòng… Trách làm sao được! Vậy thì còn dám kể gì gian lao, dám quản gì mưa nắng!

Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đành, dám quản. Âu đành là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục.. Dám quản tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

Vậy là chỉ bốn câu thơ mà chân dung bà Tú hiện lên hoàn chỉnh: từ vất vả bon chen, lăn lộn ở ngoài đời, đến năm liệu bảy lo trong gia đình, từ con người của công việc làm ăn, đảm đang tháo vát, chịu thương chịu khó, đến con người của đức độ, thảo hiền, đầy tinh thần vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của những người vợ, người mẹ Việt Nam.

Thương vợ mà nói ra là mình thương thì cũng đã quý. Ở đây, ông Tú đã nhập thân vào bà Tú để thấu hiểu nỗi niềm và thể hiện tình cảm của mình bằng những lời thơ chân thành, thấm thía. Như vậy mà không phải là thương vợ sâu sắc hay sao?

Đó là thương vợ, còn tự trách mình? Ngày ngày ngồi không, làm một miệng ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên hưởng thụ trong khi vợ phải ngược xuôi tần tảo, nghe cũng đã có cái gì đó bất nhẫn. Nay vợ thầm oán trách, tủi hờn mà quy số phận bất hạnh ấy là do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng làm sao mà không nhận thấy lỗi của mình? Tự trách đến như vậy là ngoài tình thương vợ đã có thêm ý thức trách nhiệm.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Không phải lần này ông Tú mới chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi mình mà thực ra là chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no,/ Cha thằng nào có, tiếc không cho. Chỉ khác ở chỗ là lần này, lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước hết là ném vào mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Mà ông phải đặt câu chửi ấy vào miệng bà Tú thì mới đích đáng! Nhưng bà Tú vốn con gái nhà dòng, chẳng đời nào lại chanh chua, thô tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là giận mình thật sự. Bài thơ ông viết ra cốt để bày tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự.

Bà Tú vất vả đến thế, ông Tú tự trách mình đến thế thì đương nhiên là phải bực bội đến bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi đổng mới xứng với tội lỗi, ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mà dùng luôn cách chửi dân gian: Cha mẹ thói đời.

Bà Tú không hề coi chồng là ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra như vậy, vợ chồng với nhau mà như thế thì còn gì mà không ông Tú lại không nói trực tiếp là mình ăn ở bạc mà khái quát nó lên thành thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho bản chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thành thị điều đó càng tệ hại hơn. Hoá ra đệ tử của thánh hiền là ông Tú mà cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa ấy. Như vậy là từ hổ thẹn, ông Tú đã đi tới chỗ xót xa, tự trách.

Câu kết là sự phán xét vô cùng đau đớn nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã là vợ chồng, trăm sự cùng lo mới phải. Bà Tú không bắt buộc ông vất vả như bà mà chỉ mong ông đừng hờ hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước hết là ông hiểu cho bà, như thế cũng đủ cho bà ấm lòng và có niềm vui.

Cả bài thơ cô đúc lại ở ý này: ở câu đề, ông chồng có mặt với tư cách là một miệng ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ông chồng vắng bóng. Bài thơ chấm dứt bằng sự day dứt, ân hận trong câu kết: Có chồng hờ hững cũng như không, càng làm tăng thêm nỗi thương vợ của nhà thơ. Đó là cách nói của Tú Xương, đã nói gì là nói ráo riết đến tận cùng. Tuy nhiên, có điều này ông đã nói oan cho mình: đó là hai chữ hờ hững. Vì giận mình mà ông nói thế thôi, chứ thực lòng ông đâu có hờ hững với bà. Bởi nếu ông hờ hững thì đã không có bài Thương vợ thấm thía và cảm động đến như vậy.

Phân tích bài thơ thương vợ – Bài làm 2

Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên Tú Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”…

Đó là ngoài xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mà phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình.

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.

Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Buôn bán cũng là một nghề như mọi nghề khác, người ta hành nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây là nghề duy nhất nếu muốn làm giàu (phi thương bất phú). Nhưng việc buôn bán của bà Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao. Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy dường như theo đuổi bà Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng làm cho bà khá hơn lên để có việc khác nhàn nhã hơn hoặc phát triển việc “buôn bán” lên một cấp độ cao hơn.

Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng ăn. Hơn nữa, không phải là sáu mà là “năm con với một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, là “một”, nhưng là chi phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói đến khi đồng chè đồng rượu,… Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào, chiều chồng biết chừng nào!

Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao quen thuộc:

… Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non;

… Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.

Trong thơ Tú Xương, không phải là con cò mà là thân cò. Không còn là một con vật cụ thể mà là thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc đời. Yếu đuối quá, bị động quá mà luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên con đường lầy lội. Hàng cất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Và kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trào nước mắt.

Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật là kiên cường nhưng sao mà tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, còn với bà Tú chỉ là thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vào nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu thơ cũng là sau những khó khăn được đưa ra là lời khẳng định: âu đành phận/ dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần bàn cãi, một cách ứng xử hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.

Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát. Bà Tú lấy phải một ông chồng bạc bẽo, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi. Thật là có chồng mà như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thơ có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn mướn không công.

Thân này ví biết đường này nhẽ

Thà trước thôi đành ở vậy xong.

Bài thơ nổi bật là hình ảnh bà Tú – hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại… quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.

Có một con người không xuất hiện trực tiếp là ông Tú, nhưng con mắt và trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hàng ngày, và con tim thì thấu hiểu những nỗi cô đơn, tâm trạng âm thầm chịu đựng của bà. Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.

Phân tích bài thơ thương vợ – Bài làm 3

Có người nói, nụ cười Nguyễn Khuyến là nụ cười thâm trầm, hóm hỉnh, còn nụ cười của Tú Xương là nụ cười cay cú, “cười ra mảnh sành”. Bài thơ Thương vợ của Tú Xương cũng có chất hài hước mà chua chát như thế:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông.

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên, hai nợ, âu đành phận

Năm nắng, mười mưa, dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hừng cũng như không”.

Thơ Đường bao giờ cũng cô đọng, lời ít mà ý nhiều. Với bài Thương vợ ta hãy lắng nghe Tú Xương muốn bày tỏ cái tình riêng tư chua chát của ông.

Thử đọc hai câu thơ đầu:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hai câu thơ đầu đi ngay vào việc kể lể sự vất vả, khó nhọc và đảm đang, tần tảo của bà Tú. “Quanh năm buôn bán ở mom sông”, nhà thơ đã xác định một địa thế buôn bán của vợ là chốn “mom sông”. Đó là nơi rất lầy lội, cheo leo nguy hiểm ở một xóm chợ nghèo ven con sông Vị Hoàng, làng Vị Xuyên – quê hương tác giả. Rõ ràng, đây là nơi cheo leo, khó khăn vất vả, hoàn toàn không phù hợp với những người phụ nữ chân yếu tay mềm. Thế mà bà Tú vẫn mặc cảnh “mom sông”, vẫn “quanh năm buôn bán”, cuộc đời bà dường như gắn bó với chốn lầy lội chênh vênh này. Với cách làm ăn trên, ta dễ đoán cuộc sống gia đình bà Tú cũng rất chênh vênh. Thế mà bà vẫn “nuôi đủ năm con với một chồng” câu thơ sau lại đi theo một xu hướng hoàn toàn khác, đảo ngược suy nghĩ người đọc. “Đủ” là thế nào? Có thể chỉ là cách nói của riêng ông Tú, tự ông cảm thấy vợ mình quá đảm đang, cuộc sống gia đình mình mới được chu toàn. Như vậy là quá hạnh phúc, quá “đủ” rồi chăng? Cũng có thể hiểu “nuôi đủ” nghĩa là nuôi hết cả, không trừ ai. Cái chua chát trong cái hài hước là chỗ đó: một “ông chồng” cũng được xếp ngang hàng vói những đứa con, để vợ phải “nuôi”(!) Ở đây còn có sự nhấn mạnh, đay lại, lặp lại các số từ: “năm con với một chồng”. Các số từ “năm” và “một ấy làm cho gánh nặng cùa bà Tú trong cuộc đời tần tảo vì chuyện sinh nhai càng trở nên nặng nề lắm thay! Câu thơ phảng phất một tiếng cười trào phúng. Ông đã buộc người đọc phải bật lên tiếng cười. Nhưng cười mà ngẫm lại, ngẫm lại mà thương thay cho bà Tú, cảm phục thay cho cái đảm đang của người mẹ, người vợ Việt Nam.

Người phụ nữ tảo tần xưa nay vẫn được ví như thân cò trắng, lặn lội không quản nắng mưa. Tác giả cùng đã ví vợ mình như thân cò:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Sử dụng đảo ngữ với các từ gợi cảm “lặn lội” “eo sèo”, nhà thơ một lần nữa muốn tô đậm cái vất vả của bà Tú. Hình ảnh con cò ẩn dụ buộc ta chạnh nhớ đến câu ca dao quen thuộc:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”

“Tiếng khóc nỉ non”! Câu ca nghe mà xốn xang cả lòng.

Nếu cò kia một mình “gánh gạo nuôi chồng” thì bà Tú cũng một mình chống lại với cuộc sống khắc nghiệt, chống chọi cả với nỗi cô đơn. Nhưng, nếu cò kia đã “khóc” thì bà Tú lại bật lên tiếng than não nề.

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng, mười mưa dám quản công”

Bà đã cất tiếng than? Không, đây thực ra là bài thơ của ông Tú viết về vợ mình, ông đã than cho cuộc đời bà. “Một duyên, hai nợ, ba tình”. Cái công thức mang đậm nét Á Đông xưa kia nói lên những mối phiền lụa ở đời lại được đặt vào bài thơ này. Cái sợi dây ràng buộc vô hình không phương tháo gỡ luôn thắt chặt ông Tú với bà Tú. Hóa ra, cái khổ là do duyên, là bởi bà Tú lấy phải ông Tú làm chồng (!) Vậy, nguyên nhân của nỗi khổ mà bà Tú phải gánh chịu là do ông Tú! Nhưng bà vẫn không hề phàn nàn, vẫn nhẫn nại và cam phận:

“Năm nắng, mười mưa dám quản công”. Các số từ một lần nữa lại được sử dụng một cách hữu hiệu để nói cái nỗi nhọc nhằn của bà Tú. Nói cách khác, ông Tú ở đây muốn động viên bà Tú một cách xót xa.

Viết Thương vợ, Trần Tế Xương thực ra còn có nỗi thương mình và xót xa thay cho thế thái. Cho nên hai câu thơ cuối không còn là tiếng cười hài hước chua chát mà là tiếng chửi:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Tác giả chửi cái “thói đời”, tức là chửi cái thời đại ấy, chế độ ấv – nó đã khiến cho những kẻ tài năng như Tú Xương trở thành gánh nặng đối với gia đình, tuy nhiên, ngay trong cái tiếng chửi vẫn còn có chất hài hước. Chửi “thói đời” nhưng mà cũng chửi mình. Chẳng có ai lại tự nêu nguyên nhân nỗi khỗ của vợ lại chính là… mình như vậy.

Đọc Thương vợ ta cảm thông với nhũng nỗi khổ của người phụ nữ ngày xưa, thêm yêu quý những người mẹ, người chị của ta hôm nay. Cái đáng quí đọng lại sau khi đọc bài thơ này vẫn là hình ảnh bà Tú, rất dân dã, rất thân thuộc và rất đỗi Việt Nam- bà là tượng trưng cho những người vợ, người mẹ tảo tần lam lũ, suốt đời cam chịu hi sinh vì chồng, vì con, vì hạnh phúc giản dị của gia đình.

Đọc Thương vợ, ta cũng cảm thông với nỗi khổ của nhà thơ Tú Xương, một nhà thơ tài năng, nhưng “sinh bất phùng thời”, bất lực trước nỗi vất vả vì cơm áo của vợ và xót xa phải chịu cảnh chính mình phải trở thành gánh nặng cho ngưòi vợ hiền đã quá vất vả vì đông con đang phải lặn lội, khốn cùng giữa buổi “đò đông”.

Cảm ơn các bạn các bạn vừa đọc xong top những bài làm văn Phân tích bài thơ thương vợ hay nhất. Chúc các viết cho mình một bài văn Phân tích bài thơ thương vợ thật hay và đạt được kết quả cao.

Nghị Luận Văn Học Bài Thương Vợ

Bài văn mẫu: Nghị luận văn học bài thương vợ

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn là đề tài muôn thuở cho nên văn chương kim cổ Việt Nạm. Tuy nhiên, để tìm ra những vẫn thơ văn viết về vợ bằng tình cảm của một người chồng đã ít nay lại viết về người vợ đang sống lại càng hiếm hoi hơn nữa. Và Trần Tế Xương là một trong những tác giản hiếm hói của nền thơ cat rung đại Việt Nam đưa hình ảnh người vợ tần tảo của mình ngay khi bà vẫn còn là một đóa hoa xinh tươi, vào những vẫn thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trào phúng làm bật lên được đức hi sinh đảm đang tấm lòng chịu khó của người vợ, người mẹ.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Trần Tế Xương thường được gọi là Tú Xương sống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân nửa phong kiến. Ông là một người thông minh, ham học, có tài thơ ca nhưng lại lận đận trên con đường thi cử và nổi tiếng chủ yếu với hai mảng thơ: trào phúng và trữ tình có pha chút trào phúng trữ tình. Ông được mệnh danh là nhà thơ trào phúng hàng đầu cuối thế kỷ XIX.

Kho tang thơ văn của nhà thơ Tú Xương tuy không nhiều chỉ với 100 bài, chủ yếu là thơ chứ nôm nhung rất đa dạng về thể thơ. Có nhiều bài đặc sắc về nội dung và nghệ thuật và được xem là những áng thơ bất tử. Minh chứng rõ ràng nhất là bài thơ Thương vợ.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Câu thơ mở ra một hoàn cảnh hết sức khó khăn, to toan của bà Tú. Tác giả đã sử dụng từ “quanh năm” cụm từ chỉ một khoảng thời gian lặp đi lặp lại, như một vòng tuần hoàn của tự nhiên để lột tả nỗi vất vả của bà. Tháng này sang tháng khác vất vả quanh năm, mặc cho nắng cháy hay mưa rào thì bà Tú vẫn phải tần tảo sớm hôm làm lụng. Chỉ 1 câu thơ thôi nhưng cũng lột tả được hình ảnh người vợ tần tảo sớm hôm vất vả. Chưa dừng lại đó, cách cân đo đong đếm như thế của thời gian còn góp phần làm bật lên không gian làm lụng vất vả, mom song, địa thế gian nan vất vả, dễ sạt lở gây nhiều khó khăn cho công việc buôn bán. Nhưng bà Tú vẫn phải mạnh mẽ để luôn cố gắng cho gia đình ấm no.

“Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Giọng thơ hóm hỉnh, tài năng trong nghệ thuật thơ trào phúng nhưng đang lên án gay gắt xã hội phong kiến xưa đã biến những người đàn ông trụ cột thành những kẻ vô tích sự, chỉ biết bám vợ , ăn lương vợ.

“Trống hầu chưa dứt bố lên thang,

Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.”

(Quan tại gia – Trần Tế Xương)

Đôi vai của bà Tú đã nặng nay lại còn nặng hơn gấp bội khi bà trở thành trụ cột bất đắc dĩ, trở thành trụ cột chính trong gia đình. Hai chữ nuôi đủ là vừa đủ không thiếu mà cũng không thừa vang lên tạo cho câu thơ một âm điệu trang tọng nhựng không mất đi phần tự hào. Bên cạnh đó các tác giả đã sử dụng số từ 5 và một rất độc đáo, và ông ví ông là một đứa con đặc biệt là gang nặng cho bà Tú. Giữa đôi va gầy guộc của người phụ nữ một bên là chồng một bên là con

Hai câu sau là nỗi khổ tâm của bà Tú :

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Tú xướng sử dụng thân cò chứ không phải con cò như trong ca dao, vừa thể hiện cá tính riêng, sự sáng tạo mang tính chất thời đại trong phong cách thơ ca của thi sĩ, vừa đồng nhất phận bà Tú và những người phụ nữ khác nói chung.

Khi quãng vắng là một cụm từ rất đặc biệt vì nó không chỉ gợi lên cái khoog gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ đến tột cùng. Thân gầy guộc lặn lội sớm hôm để lo cho chồng cho con.

Nếu như những câu thơ trên gợi lên nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại là sự vật đầy cam go của bà Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc.

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Từ “eo sèo” gợi nên sự tấp nập ồn ào, để nhấn mạnh tính chất nơi chợ búa và sự lam lũng của những người phụ nữ 5 con với một chồng. Mặt khác hình ảnh buổi đò đông cũng góp phần thể hiện được hình tượng bà Tú cần mẫn tất bật sự đông đúc, xô bồ đã được ca dao xưa nhắc đến:

“Con ơi nhớ lấy câu này,

Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”

Mặc dù khó khăn gian khổ là vậy nhưng bag Tú vẫn khăng khăng dấn thân vào cuộc chiến tranh âm thầm và dai dẳng này, những lần đôi co, eo sèo chen chúc nhau,tranh giành từng khách một, phân bua với những gian hàng khác. Cũng vì miếng cơm manh áo cho chồng cho con mà phải chịu cảnh gian khó như vậy. Một người phụ nữ vô cùng vĩ đại, hi sinh hết mình vì chồng vì con để kiếm những đồng tiền ít ỏi lo cho con. Đây chính là đức tính hi sinh hết mình vì chồng vì con.

Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giàu tính tạo hình vừa giàu tính biểu cảm như “lăn lội”, “eo sèo”… ngay đầu câu thơ kết hợp với hai hình ảnh đối nhau tạo nên một hình ảnh người vợ đầy khó khăn tủi nhục.

Những câu thơ tiếp theo ông Tú như nhập vai vào chủ thể trữ tình để mượn tâm sự của vợ ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú đang phải gánh trên vai.

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.”

Vợ đến với nhau không phải vì duyên mà còn có nợ, là sợi chỉ của ông tơ bà nguyệt đã se cho nhau. Tác giả đã sử dụng thành ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ: “một” – “hai”, “năm” – “mười”, đối nhau về ý đã khiến cho câu thơ bỗng nhiên chùng xuống như nỗi khổ tâm của bà Tú. Nhưng cho dù khó khăn là vậy bà Tú vẫn nhẫn nhục cho qua âu đành phận. Tại sao bà lại chấp nhận như vậy vì bà là một người mẹ một người vợ giàu đình hi sinh cho gia đình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

Mạch cảm xúc của bài thơ dường như có sự chuyển biến khi nhà thơ đã không còn ẩn mình để tuyên dương vợ nữa mà ông đã xuất hiện để nói thay cho lời oán trách chồng, trách cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ “có chồng hờ hững cũng như không”. Ông cũng đang tự trách mình trách xã hội đã đẩy một người tài giỏi như ông xuống vũng bùn để rồi ông khong giúp được gì cho vợ con.

Hai câu thơ khép lại như là lời tự trách bản thân mình, ông lên án xã hội một cách sâu sắc và cũng góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với vợ. Ông cũng bày tỏ niềm biết ơn đối với người vợ đã tần tảo chịu thương chịu khó vì gia đình vì chồng con.

Bài thơ Thương vợ là một thi phẩm mang đậm chính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mà trừ tình pha chút trào phúng. Tú xương đã khắc họa được bức chân dung người phụ nữ Việt Nam tần tảo chịu thương chịu khó và thể hiện được vẻ đẹp nhân cách của bà Tú nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.