Xuất Xứ Bài Thơ Sông Núi Nước Nam / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài: Sông Núi Nước Nam

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một danh tướng nổi tiếng đời nhà Lý có công lớn trong việc đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075 – 1077. Ông được cho là người đã viết ra bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc (Nam quốc sơn hà).

Ông cũng là vị tướng nổi tiếng nằm trong số 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Sông núi nước Nam là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Bài thơ được cho là thơ thần, do thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống vào năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống vào năm 1077.

* Thể thơ: Văn bản Sông núi nước Nam được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đây là một trong hai thể thơ rất phổ biến ở đời Đường (thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú), được du nhập sang nước ta và cũng trở thành một thể thơ phổ biến của văn học trung đại.

Quy định về thanh điệu, vần luật trong thơ thất ngôn tứ tuyệt rất chặt chẽ, tuy nhiên chỉ cần lưu ý sự hiệp vần ở chữ thứ bảy trong các câu 1,2,4 (cũng có khi là 2,4).

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thơ thất ngôn tứ tuyệt ở chú thích, bài thơ Sông núi nước Nam được làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật (có 4 câu, mỗi câu có 7 chữ, gieo vần ở chữ cuối của câu thứ 1,2.4).

Câu 2:

* Sông núi nước Nam được coi như là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta được viết bằng thơ. Tuyên ngôn độc lập chính là lời tuyên bố về chủ quyền đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy.

* Nội dung chính của Tuyên ngôn độc lập trong bài thơ Sông núi nước Nam là:

Khẳng định chủ quyền, nước Nam là của người Nam (hai câu đầu)

Kẻ thù không được phép xâm phạm, nếu xâm phạm thì sẽ phải chuốc lấy bại vong.

Câu 3:

Sông núi nước Nam là một bài thơ thiên về sự biểu ý (bày tỏ ý kiến), nội dung đó được thể hiện theo bố cục:

Hai câu đầu: khẳng định nước Nam là của người Nam, điều này đã được “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” nên không có bất kỳ thế lực nào được phép xâm phạm.

Hai câu sau: Quyết tâm bảo vệ chủ quyền, nếu có ai xâm phạm, chắc chắn kẻ đó sẽ bị bại vong.

Bố cục và cách biểu ý đó rất rõ và chặt chẽ, lời nói chắc nịch dứt khoát theo mạch ý, khiến cho những luận cứ đưa ra đều hết sức thuyết phục.

Câu 4:

Ngoài biểu ý, Sông núi nước Nam vì là một bài thơ nên vẫn có biểu cảm (bày tỏ cảm xúc). Tuy nhiên, tác giả lại không bộc lộ rõ cảm xúc một cách trực tiếp mà ẩn kín vào bên trong. Chính vì thế, người đọc cần phải nghiền ngẫm mới thấy được tình cảm yêu nước mãnh liệt của tác giả được thể hiện trong bài thơ. Hay nói cách khác, nếu không có tình cảm thì tác giả sẽ không thể viết ra được những dòng thơ đầy chí khí như vậy.

Câu 5:

Qua các cụm từ “tiệt nhiên” (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), “định phận tại thiên thư” (định phận tại sách trời”, “hành khan thủ bại hư” (Chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), chúng ta thấy giọng điệu của bài thơ là giọng điệu đanh thép, hào hùng.

Theo chúng tôi

Nội Dung Bài Thơ Sông Núi Nước Nam

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn về độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Bài thơ không những khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước mà còn nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.

Mở đầu bài thơ, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một cách mạnh mẽ chủ quyền của nước Đại Việt. Đó là ranh giới được định sẵn, được quy định bởi “sách trời”:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời)

Hai câu thơ nhấn mạnh một chân lý hiển nhiên không ai có thể chối cãi được: chủ quyền về lãnh thổ Đại Việt đã được trời đất quy định, chứng giám, không thể thay đổi được. “Sông núi” ở đây là hình ảnh biểu tượng không chỉ nói về sông núi nói chung mà còn là ranh giới lãnh thổ, chủ quyền của nước ta. Cặp từ “Nam” nằm song song tương ứng với nhau trên cùng một câu thơ “nước Nam – vua Nam” như ngầm nêu ra một nghịch lý không thể tồn tại: nước Nam vua Bắc. Tác giả cố ý sử dụng từ “đế” để chỉ vua nhằm khẳng định “vua Nam” không phải bề tôi của “vua Bắc” và “nước Nam” không phải chư hầu của “nước Bắc”. Lãnh thổ của nước Nam thuộc về người Nam, do vua Nam cai quản. Câu thơ như khẳng định sự bình đẳng và độc lập tuyệt đối của nước Nam đối với nước Bắc. Do đó, nước Nam có quyền có chủ quyền riêng biệt. Đây là lần đầu tiên mà vấn đề dân tộc được đề cập một cách chắc chắn, mạnh mẽ trong một tác phẩm thơ văn như vậy. Điều này là hoàn toàn có cơ sở, bởi đã được định trong “sách trời”. Từ “tiệt nhiên” với cách hiểu là hiển nhiên, rành rành biểu thị thái độ hoàn toàn tin tưởng của người nói vào “sách trời”. Từ đó, tác giả như ngầm báo trước sự thắng bại giữa ta và địch. Qua hai câu thơ đầu, bằng giọng điệu hào hùng, đanh thép, lời lẽ rõ ràng, Lý Thường Kiệt đã khẳng định quyền làm chủ về lãnh thổ của nước ta, không một thế lực nào có thể phủ định, xâm phạm được, đồng thời cũng thể hiện niềm tự tôn của tác giả đối với dân tộc.

Nếu như hai câu đầu khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc thì hai câu cuối lại là bản cáo trạng và lời cảnh cáo đối với kẻ thù nếu như chúng dám đến xâm phạm nước ta:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

(Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)

Lãnh thổ nước Nam đã được quy định bởi “sách trời” là của người Nam, nhưng bọn giặc không màng đến điều ấy, chúng đã phản lại ý trời, đến xâm phạm để thỏa mãn lòng tham khôn cùng của chúng. Lý Thường Kiệt hết sức khinh bỉ, căm phẫn và tức giận trước lòng tham ngu xuẩn của giặc. Câu thơ bắt đầu bằng từ “Cớ sao nhưng dường như không nhằm để hỏi mà như kể lại, vạch trần tội ác của chúng đã làm đối với dân tộc ta. Với những tội ác như thế, Lý Thường Kiệt đã có đầy đủ cơ sở để bắt kẻ thù nhận lấy hậu quả không thể tránh khỏi “bị đánh tơi bời”. Đây đồng thời cũng là quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trước mọi kẻ thù xâm lược. Hai câu thơ với nhịp thơ chậm, giọng thơ mạnh góp phần biểu hiện tâm trạng phẫn nộ của nhà thơ khi tổ quốc bị xâm lăng, lòng căm thù giặc sâu sắc và niềm tin sẽ chiến thắng kẻ thù.

Tóm lại, “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ khẳng định rõ ràng quyền độc lập tự chủ của dân tộc ta, đồng thời cũng nêu lên bản cáo trạng và hình phạt thích đáng dành cho kẻ thù nếu chúng muốn xâm lược nước ta. Qua đó, bài thơ không chỉ thể hiện niềm tự hào của người Việt Nam về chủ quyền dân tộc mà còn đề cao ý chí đấu tranh, sức mạnh của nhân dân trong phong trào giải phóng dân tộc.

TU KHOA TIM KIEM: NOI DUNG NOI DUNG BAI SONG NUI NUOC NAM SONG NUI NUOC NAM TRINH BAY NOI DUNG BAI SONG NUI NUOC NAM Theo chúng tôi

Cảm Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Sông Núi Nước Nam

Đề bài: Phat bieu cam nghi ve bai tho song nui nuoc Nam. Em hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ sông núi nước nam của Lí Thường Kiệt.

Mở bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư.

Người xưa kể rằng,Lí Thường Liệt sáng tác bài thơ “sông núi nước nam” trong một cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lược.Ông không chỉ là một vị tướng tài giỏi mà còn là một người có tấm lòng yêu nước thương dân,là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học việt nam.

Thân bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam

Khi quân Tống do sự chỉ huy của Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm quân sang xâm lược nước ta thì quân ta dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm không ngại hy sinh và chặn đánh chúng trên sông Như Nguyệt.

Câu thơ đầu:

” Nam quốc sơn hà Nam đế cư”

Ngay từ những dòng thơ đầu tiên tác giả đã đưa ra chân lí “sông núi Nam Việt vua Nam ở” nhân dân ta phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh gian khổ để giành lại độc lập chủ quyền của đất nước, chân lí ấy vẫn thật đơn sơ vì nó phản ánh đúng sự gian khổ hy sinh của biết bao nhiêu đồng bào dân tộc.Không chỉ vậy mà dân tộc ta đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng chính sức mạnh quân sự của mình,bằng chính tình đoàn kết của những người dân Việt Nam một lòng vì non sông đất nước nhất định phải giải phóng đất nước nhất định phải giành độc lập.

Không những vậy lũ giặc ngoại xâm còn ra sức bóc lột nhân dân ta nặng nề,luôn có tham vọng cướp thuộc địa của ta và biến ta thành thuộc địa của chúng.Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đây tác giả xưng danh nước ta là “Nam” ngầm gạt bỏ ý định của chúng định biến nước ta thành thuộc địa của chúng bấy lâu nay và đồng thời cũng gạt bỏ thái độ khinh miệt nước ta.Tác giả hẳn là người có vốn kiến thức thật uyên bác tinh sâu chỉ từ thể hiện qua những vần thơ mà đã nêu rõ được ý của mình,đặt nước mình là “Nam quốc” tức ngang hàng với “Bắc quốc” (vua phương bắc) đồng thời tác giả còn xưng vua Nam “Nam đế” cũng là bác bỏ ý nghĩ của chúng tự cho rằng chúng là con của chúa trời.

Câu thơ

“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(vằng vặc sách trời chia xứ sở)

Câu thơ ấy lại một lần nữa khẳng định chủ quyền của nước ta đã được ghi rõ trên sách trời không gì có thể thay đổi được.Sách trời đã chia riêng bờ cõi điều đó là bất khả xâm phạm.Câu thơ ấy đã khiến cho chân lí càng tăng thêm giá trị.Không gì có thể thay đổi được chân lí thiêng liêng ấy,nước nào có vua nước đấy.

Nếu câu thơ thứ hai là khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước Nam Việt ta thì ở câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi hướng đến giặc phương Bắc:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Dịch là:

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Chủ quyền dân tộc Việt Nam ta không chỉ là chuyện của riêng con người mà nó còn là chuyện vằng vặc rõ ràng minh bạch trên có sách trời không thể chối cãi được và không gì có thể thay đổi được điều đó là bất khả xâm phạm. “chúng mày nhất định phải tan vỡ” lại một lần nữa tác giả khẳng định rằng đất nước Việt Nam nhất định chiến đấu đến cùng để bảo vệ bờ cõi non sông đất nước và nhất định những người dân Việt Nam sẽ dùng chính tinh thần kiên quyết ấy để đánh chúng mày tan vỡ buộc phải rút về phương Bắc.

Qua bài thơ tác giả khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không thể chối cãi được và không gì có thể bác bỏ được.Dân tộc Việt Nam đã bao lần gan góc đứng lên chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.

Bài thơ “sông núi nước nam” thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh của dân tộc,sức mạnh của tinh thần đoàn kết và sức mạnh của chính nghĩa của dân tộc ta có thể đánh thắng tiêu diệt bất kì kẻ thù nào xâm phạm đến chủ quyền nước ta.Chính vì vậy mà bài thơ đã góp phần khích lệ tinh thần của dân tộc ta tiến lên đánh giặc ngoại xâm và làm cho tinh thần của quân xâm lược bị khiếp vía điều đó đã góp phần đem lại chiến thắng vinh quang cho dân tộc.Đặc biệt bài thơ được thể hiện dưới ngòi bút của Lý Thường Kiệt lại càng làm cho vần thơ thêm cứng rắn và khẳng định chủ quyền của nước Nam ta thêm một lần nữa.

Kết bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam

Bài thơ thiên về biểu ý nhưng khi ta nghiền ngẫm từng câu thơ,ta lại càng thấy được sự mãnh liệt hơn ở trong những vần thơ,câu thơ.và ta lại càng cảm nhận sâu rõ hơn tình yêu mãnh liệt của ông cha ta.Tình cảm mãnh liệt ấy được tác giả gửi gắm sâu vào những vần thơ khiến cho mình như đang được cùng lịch sử. Bài thơ “Sông núi nước nam” xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là điểm chói ngời trong trang sử dựng nước và giữ nước rất mực hào hùng của dân tộc Việt.Thật xúc động khi ta được học và được cảm nhận những bài thơ có ý nghĩa lớn lao như thế.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam Cảm nghĩ của anh chị về bài thơ Sông núi nước nam Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước nam Cam nghi cua em ve bai tho Song nui nuoc nam Cam nghi cua anh chi ve bai tho Song nui nuoc nam Theo chúng tôi

Phân Tích Bài Thơ Sông Núi Nước Nam Của Lý Thường Kiệt

Phân tích bài thơ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt

Bài làm

Ông cha ta kể rằng: Năm 1076, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sồng Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền Trương tướng quân (thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát là hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt) có tiếng thơ ngâm vẳng ra:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.

Đó là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt theo thể Đường luật, nguyên văn chữ Hán. Chúng ta có thể đọc bản dịch thơ như sau:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chưa xác định ai là tác giả bài thơ. Vì bài thơ được vọng ra từ một đền thờ linh thiêng có tác dụng khích lộ quân dân ta quyết tâm chiến đấu chống giặc, nên người dời gọi dây là bài “Thơ Thần”. Bài thơ không có tên. Để tiện ghi nhớ, nhiều người đặt tên là bài Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam). Như vậy, từ hoàn cảnh ra đời, đến việc tiếp nhận, truyền bá, việc tìm tác giả, việc đặt tên, tác phẩm thơ này đậm chất huyền thoại, linh thiêng. Đó không còn là tiếng nói của con người, mà âm vang tiếng thánh thần, không còn là suy ngẫm cảm xúc của một người – tác giả – mà là trí tuệ, tâm hồn của cả dân tộc Việt Nam xưa cũng như nay.

Bài thơ Nam quốc sơn hà là tác phẩm thiên về biểu ý, ý tướng lộ rõ trong các nghĩa của ngôn từ (kiểu nghị luận). Còn nội dung biểu cảm thì “ẩn kín” sau các lớp ý nghĩa, đòi hỏi người đọc phải nhạy cảm, vừa hiểu ý thơ vừa suy ngẫm, liên tướng, tưởng tượng để đồng cảm với tác giả, rung động cùng hồn thơ.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Nước Nam là của người Nam ở. Điều hiển nhiên đó đã được sách trời ghi rõ, xác định rõ. Ở câu đầu, ta chú ý hai chữ “Nam đế”. Nam đế là hoàng dế nước Nam, hiểu là “vua nước Nam”. Tại sao tác giả không dùng chữ “Nam vương”, cũng có nghĩa là “vua nước Nam”? Bởi vì, trong quan niệm của những kẻ thống trị phong kiến phương Bắc, thì chỉ có vua của họ mới được phép xưng là “đế”. Họ tự cho mình là “thiên tử” (con trời), hơn tất cả các vị vua ở các xứ sở khác. Dùng chữ “Nam đế”, tác giả Nam quốc sơn hà biểu hiện một niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ, ta như nghe được một tiếng nói mạnh mẽ, kiêu hãnh: Phương Nam ta cũng có đế, bình đẳng, ngang hàng với phương Bắc, không kẻ nào được phép coi thường. Sau câu thứ nhất vừa sáng ngời ý tưởng vừa dạt dào cảm hứng tự hào, đến câu sau tiếp tục ý tướng và cảm hứng ấy. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” mang âm trầm hùng, rắn chắc như một lời khẳng định dứt khoát. Hai chữ cuối “thiên thư” nghĩa là “sách trời, ý của trời”, tiếp tục nhấn mạnh một lẽ đương nhiên, ngày nay ta gọi là chân lí, là lẽ phải. Như vậy, về nội dung “biểu ý”, hai câu thơ đầu khẳng định chủ quyền đất nước, quyền độc lập, bình đẳng của dân tộc ta. Đồng thời từ ý nghĩa, từ âm điệu và ngôn ngữ thơ toát ra niềm tự hào, kiêu hãnh, thái độ hiên ngang, tư thế ngẩng cao đầu của tác giả bài thơ, của cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ.

Hai câu sau:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.

Nội dung biểu ý cũng thật rõ ràng: kẻ thù kia, không được xâm phạm. Nếu xâm phạm tới, chúng bay sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Lời lẽ và âm điệu rắn đanh lại, vừa nêu một phán đoán, vừa cảnh cáo bọn ngoại xâm. Nghe được lời thơ này, hẳn quân dân ta – những con người đã ý thức được chủ quyền đất nước, tin ở luật hiển nhiên của tạo hoá, tin ở “sách trời” – sẽ vô cùng phấn khởi, càng thêm niềm tin và quyết tâm xốc tới, tiêu diệt kẻ thù. Còn bọn ngoại xâm phi nghĩa, khi nghe những lời này – lời thơ, lời thánh thần truyền dạy, – hẳn sẽ không thế yên lòng. Chúng sẽ hoang mang, nghĩ tới tương lai, số phận “thủ bại hư”, sự thất bại tất yếu phải nhận lấy. Lời thơ khác nào lời kêu gọi, truyền hịch, truyền niềm tin, niềm phấn khởi cho quân ta, dồng thời cũng là lời cảnh cáo, lời báo hiệu, gieo sự hoang mang, hoảng hốt tới quân thù. Cũng giống hai câu thơ trên, hai câu thớ cuối bài này đã hài hoà ý tưởng với tình cảm, tính “biểu ý” hài hoà tính “biểu cảm”. Tính biêu ý nổi rõ trên bề mặt ngôn từ, còn tính biểu cảm ẩn sâu trong chữ nghĩa, trong nhạc diệu và trong sự cảm nhộn, liên tưởng suy đoán tự nhiên của người đọc.

Bài thơ Nam quốc sơn hà chính là tiếng nói, ý thức và tình cảm của cả dân tộc Việt Nam trong thời điểm lịch sử quyết liệt, một mất một còn trước hoạ ngoại xâm ở thế kỉ XI. Bài thơ khích lệ những đối tượng cụ thể. Đó là dân tộc Việt Nam, từ người cầm quân cao nhất là nhà vua đến các tướng lĩnh, quân sĩ và tất cả những người dân bình thường nhất. Đồng thời, bài thơ cũng gián tiếp nhằm vào bọn giặc Tống xâm lược lúc bấy giờ. Với dân tộc Việt Nam, người sáng tác, người ngâm thơ khích lệ, động viên, còn với bọn ngoại xâm, thì lên án, cảnh cáo nghiêm khắc. Do đó, Nam quốc sơn hà được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dàn tộc ta. Ở đây thể hiện chân lí lớn lao nhất, thiêng liêng nhất: đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, không kẻ nào được xâm phạm, xâm phạm sẽ bị thất bại. Thơ viết bằng chữ Hán, có nhiều từ Hán Việt, nhưng không quá khó. Nếu biết suy ngẫm cẩn thận, chúng ta vẫn hiểu được tư tưởng, để rồi cộng hưởng với những tình cảm của cha ông, càng thêm yêu mến, tự hào về dân tộc ta, một dân tộc yêu nước thiết tha, không bao giờ chịu cúi đầu trước kẻ thù xâm lược. Và chúng ta cũng hiểu được rằng đây là tiếng nói mở đầu, bởi sau này dân tộc ta còn có những bản tuyên ngôn khác, hào hùng hơn, vang dội hơn…