Xuất Xứ Bài Thơ Sang Thu / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Phân Tích Bài Thơ “Sang Thu”

Phân tích bài thơ “Sang thu” – Ngữ Văn 9

Phân tích bài thơ Sang thu Đề bài: Phân tích khổ thở đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh. 1. Yêu cầu

– Viết bài văn nghị luận về một khổ thơ trong bài thơ.

– Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là khổ đầu của bài thơ Sang thu của tác giả Hữu Thỉnh.

– Cần phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức khổ thơ.

2. Gợi ý

– Cần đọc kĩ cả bài thơ, nhất là khổ đầu.

– Cần đọc các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ, kể cả một số bài viết của các bạn trong tập Những bài làm văn chọn lọc lớp 9 (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998).

– Những cảm nhận về mùa thu thể hiện qua các giác quan nào? Sự tinh tế và mới lạ trong cách cảm nhận và thể hiện là gì?

– Cần kết hợp nghị luận với biểu cảm.

3. Lâp dàn ý (dàn ý sơ lược)

a.Mở bài: Thơ về mùa thu và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

b. Thân bài

– Cảm nhận mùa thu của tác giả.

– Phân tích vai trò các giác quan (khứu giác, xúc giác, thị giác).

– Vẻ đẹp của các từ ngữ hương ổi, phả, gió se, chùng chình, hình như.

– Suy nghĩ về mùa thu thiên nhiên thời khắc giao mùa.

c. Kết bài: Nhấn mạnh vẻ đẹp của khổ thơ trong vẻ đẹp của toàn bài: mùa thu của đất trời và mùa thu trong hồn người.

Bài 1

Xuân, hạ, thu, đông – bốn mùa trôi qua đã trở thành đề tài quen thuộc cho biết bao tác phẩm văn thơ và cũng là nguồn thi cảm vô tận của nhiều thi nhân. Đặc biệt là mùa thu với những nét buồn man mác, với nắng vàng và hương thơm dịu dàng cùng gió, cùng hoa… Chúng ta đã gặp thu trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, trong Thu của Chế Lan Viên hay Chiều thu của Thái Can,… Nhưng Hữu Thỉnh lại đem đến cho bạn đọc một nét riêng biệt của mùa thu, đó là thời khắc giao hoà của cuối hạ với đầu thu. Bài thơ Sang thu của ông đã gợi lên một cảm xúc bồi hồi, bâng khuâng của những rung động ngọt ngào và tinh tế.

Đọc thơ mà ta thấy quen đến kì lạ. Những hình ảnh không hề cao sang mà vẫn gần gũi. Những cảm xúc hình như ta đã có, đã bắt gặp ở đầu rồi. Y như khi ta đột ngột nhận ra cái gì mà rất lâu mình không nhớ, không để ý tới. Có phải đó là khi thiên nhiên chuyển mình, là khi thời gian nhẹ nhàng bước những bước khẽ khàng, kín đáo:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về.

Tác giả dùng từ “bỗng” thật khéo, câu thơ không kéo dài mà trở nên đầy thú vị, bất ngờ. Nó như cái giật mình nhẹ, lôi ta ra khỏi những công việc thường ngày. Đọc câu thơ khiến ta nhớ đến một đoạn văn mà nhà văn nào đó đã viết: “Ngày và đêm theo nhau qua đi trên trái đất này” giữa bao mối lo và công việc, giữa bao nỗi buồn và niềm vui “Chúng ta quên đi rất nhiều điều mà lẽ ra không được quên”. Thế thì chính cái giật mình ấy đã kéo ta ra khỏi sự quên lãng bấy lâu nay, để lại hoà mình với thiên nhiên, thấy được từng vẻ đẹp li ti nhất của nó. Mà “chợt” cũng như một phát hiện thật mới mẻ, một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Kìa! Mùa hạ đã sắp qua, hình như mùa thu đã đến! – Trái tim nhà thơ sau khoảnh khắc ấy đã tự nhủ thầm như vậy.

Tác giả đã cảm thấy gì đầu tiên? Giống như tiếng tu hú đã đánh thức nỗi khao khát tự do trong bài thơ của Tố Hữu, thì chính hương thơm của ổi chín đã tác động mạnh mẽ tới tâm hồn nhà thơ Hữu Thỉnh:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se.

Đọc câu thơ mà ta biết mùa hè chưa qua hẳn. Bởi hình ảnh những chùm ổi chín vàng ruộm, trĩu cành dưới cái nắng gay gắt đã trở thành hình ảnh của mùa hạ. Nhưng qua câu thơ, ta biết mùa thu đã về. Mùa thu đặt những bước chân nhẹ nhàng, buông mình về theo những cơn gió se – thứ gió khô và lạnh đặc trưng của khí thu. Và hương ổi cũng hết sức đặc biệt, nó không “thoảng”, không “bay”, không nhẹ dịu như ổi khi vừa chín mà đậm đặc, mà ngào ngạt thơm nồng. Đó là hương thơm của ổi cuối mùa. Hương thơm ngọt ngào ấy mạnh đến mức có thể “phả” vào từng cơn gió, đánh thức khứu giác của cả những người vốn vô cảm với thiên nhiên. Khi Hữu Thỉnh cảm được cái lạ lùng ấy của hương ổi bằng khứu giác và cảm nhận được bằng da thịt (xúc giác) cơn gió thu đủ làm ông vừa bối rối lại vừa vui mừng. Có lẽ, ông còn nghi ngờ, sợ rằng mình nói ra thì cái cảm giác ấy sẽ bay mất, sẽ tan biến mất.

Câu thơ thứ ba như khẳng định mùa thu về rõ ràng hơn: Sương chùng chình qua ngõ.

Lần này thu được nhìn bằng mắt qua cái vẻ dùng dằng nửa đi nửa ở của sương thu. Từ “chùng chình” thật đặc biệt. Nó là từ láy của thanh bằng, tạo nên một cảm giác êm ả, dịu dàng. Nhà thơ đã nhân hoá màn sương để nó trở nên có hồn, sống động bởi từ láy chỉ hành động lưỡng lự, lưu luyến trong động thái của con người. Sương như muốn ở lại để ngắm nhìn khoảnh khắc giao mùa. Điểm thú vị là với từ “chùng chình” sương thu trở nên gợi tả vô cùng. Đọc thơ ta lại nhớ đến đoạn văn Pau-tốp-xki viết trong Một mình với mùa thu về “mơ-ga”. Đó là một làn khói lam nhàn nhạt bao phủ trên mặt sông Ô-ka. Nó “khi thì sẫm màu tụ lại, khi thì bàng bạc tan ra” ; ” Khi ấy qua màn sương nhẹ nhàng mỏng như tấm kính mờ mờ, ẩn hiện bóng dáng hàng liễu rủ bên sông, những bãi chăn thả cằn khô và những cánh đồng mơn mởn màu xanh”. Chúng ta như cảm được sương ở giữa hai mùa tụ lại thành từng đám mây trong suốt màu bạc “chùng chình” chắn cả con ngõ nhỏ chứ không tan loãng vào không gian.

Mỗi bước đến của mùa thu thật bất ngờ. Thu đến vội vã mà thật nhẹ nhàng, không ồn ào. Chỉ cần quan sát và cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả sự tinh tế của các giác quan là ai trong chúng ta cũng có thể thấy được. Đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, đó cũng là những phát hiện liên tiếp, nối nhau mà mỗi phát hiện lại đem đến một cảm xúc riêng tư, tinh mới. Sự vội vã ấy được thể hiện qua cách ngắt nhịp tài tình:

Bỗng / nhận ra hương ổi Phả / vào trong gió se. Sương / chùng chình qua ngõ

Cái nhịp điệu vội vàng ấy cứ như nhịp điệu của mùa hạ, khi mọi thứ đắm chìm trong cái nắng rực rỡ, khi cây trái vội vàng ra hoa, ra quả. Và đó cũng là nhịp điệu của những cái giật mình liên tiếp. Cái cảm giác bất ngờ còn chưa đi hẳn. Nhưng đến câu cuối cùng, nhịp ngắt 2/3 lại trở nên dàn trải, nhẹ nhàng như khoảnh khắc mùa thu, như một niềm vui mơ hồ mà mãnh liệt, hoặc như một nụ cười kín đáo: Hình như thu đã về.

Không khẳng định, mà chỉ “hình như”. Bởi thu đến nhẹ quá, mơ hồ quá. Tác giả thấy thu, nhưng vẫn còn bâng khuâng lo ngại. Trong lòng tác giả như có một băn khoăn, da diết như một câu hỏi: “Thu đã về rồi đấy” hay là “Không, thu chưa về đâu!”. Trong tâm tư tác giả vẫn còn cái nắng chói của mùa hè nhưng lại có cảm giác phảng phất, như một cánh bướm nhẹ chạm vào tà áo mỏng manh của tiết thu? Chính niềm vui bối rối, bâng khuâng, lúc khẳng đình, lúc nghi ngờ đã làm nên cái duyên dáng của Sang thu.

Dù chỉ là một khổ thơ đầu, nhưng cái rung cảm tinh tế trong tâm hồn Hữu Thỉnh với thiên nhiên khiến độc giả càng thêm yêu mùa thu, càng thêm yêu bài thơ. Nó làm ta chợt nhớ tới câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Nhờ tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ đã cho ta thấy được những bước đi nhẹ nhàng, duyên dáng của thời gian. Sự chuyển tiếp lúc rất mềm mại, uyển chuyển lúc lại như tinh nghịch, vui đùa. Và một bài thơ đầy cảm xúc, đầy rung cảm ra đời từ chính cảm nhận ấy…

(Lưu Hoài An, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên,

Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Nhận xét

Bài viết chặt chẽ, giàu cảm xúc. cảm nhận thơ khá tinh tế, cộng với ngôn ngữ diễn đạt giàu chất thơ đã dẫn người đọc vào những vẻ đẹp của cảm xúc, ngôn ngữ, hình ảnh thơ độc đáo của khổ thơ đầu bài Sang thu. Bạn đã cố gắng cắt nghĩa nhịp của đoạn thơ này:

Bỗng / nhận ra hương ổi Phả / vào trong gió se. Sương / chùng chình qua ngõ

Cái nhịp điệu vội uàng ấy cứ như nhịp điệu của mùa hạ, khi mọi thứ đắm chìm trong cái nắng rực rở, khi cây trái vội vàng ra hoa, ra quả. Và đó cũng là nhịp điệu của những cái giật mình liên tiếp. Cái cảm giác bất ngờ còn chưa đi hẳn. Nhưng đến câu cuối cùng, nhịp ngắt 2/3 lại trở lên dàn trải, nhẹ nhàng như khoảnh khắc mùa thu, như một niềm vui mơ hồ mà mãnh liệt, hoặc như một nụ cười kín đáo: Hình như thu đã về.

Không khẳng định, mà chỉ “hình như”. Bởi thu đến nhẹ quá, mơ hồ quá.

Việc liên hệ với thơ Trần Đăng Khoa, Tố Hữu, văn Pau-tốp-xki giàu chất thơ đúng chỗ đã tăng thêm giá trị của bài viết. Tuy nhiên, sự liên hệ với thơ Trần Đăng Khoa lại chưa thật thích hợp. Tuy vậy đây vẫn là một bài viết tốt, giàu chất thơ.

Bài 2

Thiên nhiên đi vào thi ca đã từ lâu và trong bốn mùa, có lẽ thu được chú ý hơn cả. Phải chăng bởi nó gợi ra nỗi buồn nhẹ nhàng, kín đáo với nhiều dư âm khó gọi thành tên? Hình như cảnh trong thơ càng trầm buồn lại càng thi vị, tha thiết. Nói đến thu ta vẫn nhắc đến Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Nguyễn Bính – những ngòi bút xuất sắc của thi ca Việt Nam. Ớ đó, thu hiện lên bằng những vẻ đẹp muôn hình, muôn sắc, muôn thanh âm của thiên nhiên. Nhưng với người yêu thơ và yêu mùa thu hẳn sẽ ngạc nhiên, bất ngờ lắm khi thu tới với họ qua Sang thu của Hữu Thỉnh. Mà khổ thơ thứ nhất chính là khúc nhạc dạo đầu cho bản hoà ca tràn đầy cảm xúc này.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn thôi nhưng như thế cũng là quá đủ để phác lên một bức tranh vô hình của thời gian: khúc giao mùa hạ – thu. Bức tranh ấy được vẽ lên bởi giác quan đa dạng của người hoạ sĩ, vẽ thu bằng ngôn từ. Bắt đầu bằng khứu giác và xúc giác với mùi hương ổi “phả vào trong gió se”. Câu thơ có cái ấm nồng nàn của hoa trái mùa hạ, lại có cái lạnh se se của mùa thu. Sự giao hoà kì diệu ấy khơi gợi kí ức tuổi thơ và thức dậy kỉ niệm xa lắc…

Dòng xúc cảm tự nhiên đến, đầy bất ngờ, vì thế ngay ở đầu câu, tác giả đã đặt vào đó từ “bỗng”. Đột ngột, mùi hương “phả” mạnh mẽ, nên lại thấy vị thơm mát, ngọt ngào? Hai câu thơ như thoáng chút bâng khuâng, xao xuyến. Mạch cảm xúc tiếp tục tràn xuống câu sau với sự đón nhận của thị giác:

Sương chùng chình qua ngõ

Giữa bầu trời quang đãng, trong xanh, tác giả chợt bắt gặp một màn sương mờ ảo. Mỏng manh thôi nhưng cũng là nét gì đó báo hiệu thu sắp về. Sương đi qua, “chùng chình” như cố ý chậm lại. Nó đang đón chờ ai hay đang luyến tiếc điều gì? Có lẽ đó là sự luyến tiếc, bịn rịn, không muốn rời xa, khi hạ sắp sửa bước đi, nhường chỗ lại cho thu với những màn sương sớm, với những cơn gió heo may, diu mát. Cái cảm giác mơ hồ, hư hư thực thực ấy đã gợi nên một thời điểm nhạy cảm, rất khó xác định:

Hình như thu đã về.

Hạ vẫn còn đó nhưng trong không gian phải chăng mùa thu đang về? Trước những tín hiệu của thiên nhiên, của đất trời, làm cho lòng người băn khoăn, rạo rực những tình cảm khó tả. Rõ ràng là thu đấy mà cũng chẳng phải đâu! Mọi thứ cứ chuyển động không ngừng, có cái gì gấp gáp, mãnh liệt nhưng cũng có cái gì đó chậm rãi, nhẹ nhàng. Khung cảnh hiện lên vừa đậm nét, vừa mơ hồ. Vì thế, thu đến với tác giả trong một sự cảm nhận rụt rè, kín đáo. Một làn gió nhẹ thoảng qua đưa theo cùng thứ hương vị cỏ cây hay một màn sương êm ái, khẽ lướt đi cũng vương vấn lại sợi dây cảm xúc rung lên thứ nhạc điệu kì diệu mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm, những trái tim biết rung động trước thiên nhiên mới có.

Khổ thơ mang cái man mác buồn lắng nhưng ngọt ngào thi vị của mùa thu. Từ đây cũng cho thấy con người của thi ca đến với thiên nhiên bằng sự khám phá từng nét nhỏ nhất, tinh xảo nhất của vũ trụ bao la. cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh không có lá rụng, không phải một màu vàng úa héo của không gian mà được tiếp nhận bằng những bước chuyển mình của trời đất. Rất mới lạ và độc đáo. Đó cũng là cái hay tạo nên sự riêng biệt cho Sang thu mà ngay ở bốn câu đầu ta đã thấy.

Thành công của khổ thơ này bên cạnh việc tả cảnh còn là bởi sự cảm nhận tinh tế về một thứ trừu tường như thời gian. Và hai mươi chữ cô đọng, súc tích đã tạo nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp – đẹp từ chính những bước đi lặng lẽ, thầm thì của nó hay đẹp ở tâm hồn của thi nhân.

(Nguyễn Thuận Yến, lớp 9H1, Trường THCS Trưng Vương,

Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Nhận xét

Bài làm đạt được yêu cầu của bài nghị luận về một khổ thơ. Người viết bằng một giọng văn nhẹ nhàng, đĩềrn đạm, có phần tinh tế đã chỉ ra cách cảm mùa thu bằng các giác quan khác nhau của nhà thơ. Bạn đã cảm nhận đúng và lí giải được sự gửi gắm tình cảm của tác giả qua những hình ảnh thơ được vỗ bằng ngôn từ. Nhận xét của bạn là một nhận xét sắc sảo, chứng tỏ người viết đã cảm nhận bài thơ trong sự so sánh đúng đắn:

Cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh không có lá rụng, không phải một màu vàng úa héo của không gian mà được tiếp nhận bằng những bước chuyển mình của trời đất. Rất mới lạ và độc đáo. Đó cũng là cái hay tạo nên sự riêng biệt cho “Sang thu” mà ngay ở bốn câu đầu ta đã thấy.

Thành công của khổ thơ này bên cạnh việc tả cảnh còn là sự cảm nhận tinh tế về một thứ trừu tượng như thời gian. Và hai mươi chữ cô đọng, súc tích đã tạo nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp – đẹp từ chính những bước đi lặng lẽ, thầm thì của nó hay đẹp ở tâm hồn của thi nhân.

Bài 3

Sang thu là một trong những tác phẩm thành công của nhà thơ Hữu Thỉnh, thể hiện những rung cảm trữ tình của nhà thơ trước thời điểm giao mùa. Trong đó, khổ thơ đầu của bài đã khắc hoạ rõ nét sự bất ngờ, ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã về:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về.

Với các mùa khác trong năm, ta đều có thể nhận thấy rất rõ những tín hiệu chuyển mùa. Mùa xuân đến với những cơn mưa nhè nhẹ và những lộc non mơn mởn trên cành cây. Hè về mang theo những cơn mưa rào bất chợt, những tia nắng vàng rực rỡ và tiếng ve kêu râm ran. Đông tới cùng những cơn gió buốt lạnh từ phương bắc kéo về trải trên khắp các nẻo đường. Khác biệt hẳn với các mùa trong năm, thu sang một cách nhẹ nhàng, âm thầm, dịu dàng, rất khó nhận biết được. Bằng khứu giác và xúc giác nhạy cảm tinh tế, nhà thơ đã nhận ra những tín hiệu giao mùa của mùa thu:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se.

“Gió se” khiến ta liên tưởng tới một cơn gió nhẹ; khô và hơi lạnh – một cảm giác rất thu. Từ “phả” vừa cho thấy sự hoà quyện hài hoà của mùi hương vào làn gió, vừa tạo cảm giác rõ ràng, chắc chắn về những tín hiệu của mùa thu đang về. Sự thoảng qua mà rõ ràng trong nhận thức của tác giả về mùa thu đã được thể hiện rất thành công. Qua đó, tác giả vừa thể hiện được một số đặc trưng của mùa thu như hương ổi đang vào độ chín, là gió se lạnh, vừa khắc hoạ được phần nào nét đẹp nhẹ nhàng mà tinh tế của mùa thu.

Vẻ đẹp của thiên nhiên độ giao mùa đã được thể hiện rõ hơn trong câu thơ thứ ba, nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả sử dụng khứa giác và xúc giác để nói lên những dấu hiệu của mùa thu thì ở đây, một lần nữa ta thấy được sự cảm nhận sâu sắc hoàn hảo của nhà thơ bằng những hình ảnh tiếp thu từ thị giác:

Sương chùng chình qua ngõ

Vào mỗi buổi sớm mùa thu, ta có thể thấy cảnh vật luôn bị sương trắng bao phủ, đến khi gặp ánh mặt trời chúng mới dần tan đi, tựa như một tấm màn mỏng trùm lên thiên nhiên đang dần được kéo lên. Bằng việc sử dụng từ láy “chùng chình” và phép nhân hoá thành công, tác giả đã cho ta hình dung như màn sương kì ảo ấy còn chậm rãi lướt đi, còn ngập ngừng chưa muốn ra đi. Phải chăng nó đang ngỡ ngàng, say mê ngắm nhìn quang cảnh thiên nhiên giao thoa tuyệt đẹp, hay còn gì khác để vương vấn, quyến luyến, tiếc nuối, không muốn rời xa? Như vậy, chỉ bằng một câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã thể hiện rất đặc sắc, sinh động quang cảnh mùa thu vừa mang nét thơ mộng, huỵển ảo lại vừa nồng nàn cảm xúc trữ tình.

Trước những vẻ đẹp kì diệu của mùa thu, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ những cảm xúc của mình. Qua những cảm nhận tinh tế của tác giả, bằng nhiều giác quan khác nhau, ta có thể hiểu nhà thơ là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu mùa thu, yêu làng quê, vì quả thật không yêu quý, không trân trọng thì tác giả không nói lên được những cảm nhận đẹp đến thế. Ngày ở câu thơ đầu, từ “bỗng” đã cho thấy tâm trạng bất ngờ, ngạc nhiên của tác giả khi chợt nhận ra tín hiệu mùa thu đang về. Từ cái bất ngờ ấy, ta nhận thấy xen lẫn vào những cảm xúc ngạc nhiên đó có phần nào sự bâng khuâng, luyến tiếc. Điều này càng được đúc kết bằng câu hỏi tu từ ở cuối khổ thơ:

Hình như thu đã về?

Câu thơ ngắn mà lắng đọng, đan xen nhiều cảm xúc, vừa thực vừa mơ hồ không rõ ràng. Có lẽ ở đây, sự luyến tiếc của tác giả xuất phát từ sự liên tưởng về hình ảnh mùa thu. Cuộc đời con người cũng trôi theo dòng chảy củạ thời gian trong thiên nhiên. Ngỡ hạ còn chưa qua mà thu đã tới rồi, giống như con người chợt nhận ra mình đã bước vào tuổi “sang thu”, lòng không khoi bất ngờ hay lưu luyến. Khổ thơ khép lại mở ra trong lòng người đọc bao cảm xúc, liên tưởng.

Qua những hình ảnh, hương vị quen thuộc, gần gũi đặc tưng của mùa thu, cùng với ngòi bút đặc sắc và những cảm nhận tinh tế, nhà thơ Hữu Thỉnh đã thể hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên độ giao mùa cùng những cảm xúc trữ tình của chính tác giả.

(Khúc Mai Thương, lớp 9A1, Trường THCS Ngô Sĩ Liên,

Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Nhận xét

Một bài viết chắc tay. Bạn đã có những nhận xét có tính chất khám phá về các mùa so với mùa thu: Với các mùa khác trong năm, ta đều có thể nhận thấy rất rõ những tín hiệu chuyển mùa. Mùa xuân đến với những cơn mưa nhè nhẹ và những lộc non mơn mởn trên cành cây. Hè về mang theo những cơn mưa rào bất chợt, những tia nắng vàng rực rỡ và tiếng ve kêu râm ran. Đông tới cùng những cơn gió buốt lạnh từ phương Bắc kéo về trải trên khắp các nẻo đường. Khác biệt hẳn với các mùa trong năm, thu sang một cách nhẹ nhàng, âm thầm, dịu dàng, rất khó nhận biết được.

Người viết đã đặc biệt chú ý đến tính chất giao mùa và cắt nghĩa những xúc cảm của tác giả một cách tinh tế và hợp lí. Những từ ngữ phả, gió se, chùng chình, hình như đã được cảm nhận và phân tích khá thuyết phục.

Theo Nguồn: chúng tôi

Bài 31: Sang Thu ( Hữu Thỉnh)

Bài 31: Sang Thu ( Hữu Thỉnh)

Bài 32: Soạn bài Bến Quê

Hướng dẫn tìm hiểu bài Sang Thu ( Hữu Thỉnh):

I. Tìm hiểu chung về văn bản 1. Tác giả, tác phẩm

a) Tác giả

Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở Tam Dương – Vĩnh Phúc

Nhập ngũ năm 1963, rồi trở thành cán bộ tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ.

Tham gia ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam các khoá: III, IV,V

Từ năm 2000, là tổng thư ký Hội nhà văn Việt nam.

Hữu Thỉnh là người viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn về mùa thu: cảm giác bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng.

b) tác phẩm

– Bài thơ được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Sau đó được in lại nhiều lần trong các tập thơ.

II. Đọc, hiểu văn bản Khổ thơ 1:

– Tín hiệu của mùa thu đã về (sự chuyển mùa cuối hạ đầu thu)

+ Hương ổi: Đầu thu (cuối tháng 7 đầu tháng 8) mùa ổi chín rộ.

Từ “phả”: Hương ổi ở độ đậm nhất thơm nồng quyến rũ, hoà vào gió heo may của mùa thu lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát, của trái ổi chín vàng – hương thơm nông nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.

+ Gió se: Gió khe khẽ, hơi lạnh chỉ có ở mùa thu

+ Là những hạt sương: nhỏ li ti giăng mắc nhẹ nhàng như “cố ý” chậm lại thong thả àchuyển động chầm chậm sang thu.

Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn, có cảm nhận riêng cũng nhẹ nhàng, thong thả qua ngưỡng cửa (qua ngõ) của mùa ghu vậy (ngõ thực và cũng là cửa ngõ thời gian thông giữa 2 mùa)

-Kết hợp một loạt các từ: “Bỗng – phả – hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng, cảm nhận tinh tế của tác giả tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh thu của tạo vật đã thấp thoáng hồn người sang thu: chùng chình, bịn rịn, lưu luyến, bâng khuâng, chín chắn, điềm đạm.

* GV chốt: khổ thơ nói lên những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời. Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió) mờ ảo (sương chùng chình), nhỏ hẹp và gần (ngõ).

Khổ thơ 2

+ Dòng sông thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thanh thản, gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu.

+ Những cánh chim chiều bắt đàu vội vã tìm về tổ trong buổi hoàng hôn (không còn nhởn nhơ rong chơi hoài bởi tiết trời mùa hạ).

+ Hình ảnh đám mây mùa hạ với sự cảm nhận đầy thú vị, sự liên tưởng độc đáo “vắt nửa mình sang thu”: Cảm giác giao mùa được diễn tả cụ thể và tinh tế bằng một hình ảnh đám mây của mùa hạ mềm mại dịu dàng như một dải lụa thả hồn mình sang thu . Hữu Thỉnh không chỉ cảm nhận thị giác mà là sự cảm nhận bằng chính tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết .

àTóm lại: Bằng sự cảm nhận qua nhiều giác quan , sự liên tưởng thú vị bất ngờ, với tâm hồn nhạy cảm tinh tế của tác giả, tất cả không gian cảnh vật như đang chuyển mình từ tư điềm tĩnh bước sang thu.

Khổ thơ 3 Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa….

– Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần (tuy không còn nét tươi mới của đầu hạ), nắng đã yếu dần bởi gió se đã đến.

-Mưa: Tác giả dùng từ “vơi” có giá trị gợi tả như sự đong đếm những vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số lượng vô định – diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt bất ngờ của mùa hạ. Tất cả đều chầm chậm, từ từ, không vội vã, không hối hả.

Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ cuối:

– Ý nghĩa tả thực:

+ Hình tượng sấm thường xuất hiện nhiều và bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).

+ Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa hạ.

– Nghĩa ẩn dụ (đầy tính suy ngẫm)

+ Sấm: Những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

III. Luyện tập

Soạn bài Sang thu của Hữu Thỉnh

Phân tích bài Sang Thu

Vẽ đẹp bức tranh mùa thu trong bài Sang Thu

Cảm nhận tinh tế về thời khắc giao mùa trong bài Sang Thu

+ Hàng cây đứng tuổi: Hình ảnh gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.

Bài 31: Sang Thu ( Hữu Thỉnh)

Phân Tích Bài Thơ “Sang Thu” Của Hữu Thỉnh

Bài làm

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn dời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

“Sang thu” là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất.

Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về nhưng điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương chùng chỉnh qua ngõ Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tương tưởng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “chùng chình” dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất. Tác giả phải thốt lên “hình như” , là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi.

Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai thì dường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

Nước mùa thu dâng lên theo mùa “dềnh dàng”, những cánh chim trời bắt đầu “vội vã” bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tưởng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

Từ “vắt” dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh.

Điều bất ngờ nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến rồi và đất trời đã có nhưng chuyển biến khiến con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật mình nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây đứng tuổi. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng đến “hàng cây đứng tuổi”. Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, nhiều hối hả. Ở giai đoạn con người ta “đứng tuổi” mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lên đời người ở tuổi xé chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa. Nhịp đập của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu rất nhẹ nhàng và êm đềm. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm.

Hữu Thỉnh với bài thơ “Sang thu” độc đáo và thú vj, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta.