Xuất Xứ Bài Thơ Qua Đèo Ngang / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài: Qua Đèo Ngang

1. Tác giả (mời các em tham khảo phần giới thiệu về tác giả Bà Huyện Thanh Quan trong SGK Ngữ văn 7 Tập 1).

2. Tác phẩm

Bài thơ Qua Đèo Ngang được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618 – 907) ở Trung Quốc. Thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu gồm 7 chữ. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của những câu 1,2,4,6,8. Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 (tức 4 câu giữa). Có luật bằng trắc. Nếu không theo đúng những quy luật trên thì bài thơ bị gọi là thất luật (không đúng luật).

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Căn cứ vào lời giới thiệu bước đầu về thơ thất ngôn bát cú Đường luật ở Chú thích, bài thơ Qua Đèo Ngang được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Nhận dạng:

Bài thơ có 8 câu, mỗi câu có 7 chữ

Hiệp vần ở chữ cuối của câu 1,2,4,6,8, vần “a”

Câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6 (có phép đối ở 4 câu giữa).

Câu 2:

* Cảnh tượng Qua Đèo Ngang được miêu tả vào lúc xế chiều.

* Thời điểm này là thời điểm ngày sắp tàn, là thời điểm dễ gợi nỗi buồn trong lòng mỗi con người, đặc biệt là những người phải xa quê.

Câu 3:

* Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa, có vài chú tiều phu.

* Các từ láy: Lác đác, lom khom; các từ tượng thanh: quốc quốc, gia gia có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và càng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu.

Câu 4:

Nhận xét về cảnh tượng Đèo Ngang qua sự miêu tả của Bà Huyện Thanh Quan: Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng vẫn rất hoang sơ, vắng vẻ. Hơn thế nữa, cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của một người xa quê nên cảnh buồn, hoang sơ, vắng lặng càng được gợi lên một cách rõ ràng nhất.

Câu 5:

Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan được thể hiện qua 2 hình thức:

* Mượn cảnh nói tình: thông qua thời gian và không gian hình thức:

Gia gia: vừa mô phỏng tiếng chim, vừa như còn có nghĩa là nhà. Qua đó cho thấy nỗi nhớ nhà đang trào dâng trong lòng người nữ sĩ xa quê, trong cảnh chiều hôm người ta tìm về mái ấm gia đình, còn bà lại đang dừng chân chốn hoang sơ hiu quạnh, khi đó nỗi nhớ nhà càng được dâng lên đến tột độ.

Con cuốc cuốc: mô phỏng tiếng chim kêu và đồng âm với nó còn có nghĩa là quốc quốc – đất nước, Tổ quốc. Bà là nho sĩ xứ Bắc Hà quặn lòng nhớ về Thăng Long xưa, nhớ về quá khứ, về đất nước lúc còn hưng thịnh, lúc triều Nguyễn chưa dời kinh đô vào Huế.

* Trực tiếp tả tình: Thể hiện qua câu cuối của bài thơ “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Mảnh tình riêng đó thật sâu sắc, thấm thía.

Câu 6:

Nói đến “một mảnh tình riêng” giữa “cảnh trời, non nước, bao la” ở Đèo Ngang có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì con người càng cảm thấy cô đơn, cảm thấy mình nhỏ bé. Như vậy, có thể nói, chính cảnh đã góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả lớn hơn, nặng nề hơn. Và dĩ nhiên, sẽ hoàn toàn khác với cách nói “một mảnh tình riêng” trong một không gian chật hẹp.

Theo chúng tôi

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ “Qua Đèo Ngang”

Đề bài: Cam nghi ve bai tho “Qua Deo Ngang” – Bài viết của một học sinh trường Trung Học Cơ Sở Chương Xá hay nhất do chúng tôi chọn lọc Cảm nghĩ anh/ chị về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan – văn mẫu lớp 6

Mở bài: Giới thiệu về bài thơ “Qua Đèo Ngang”

Nói đến văn học trung đại của Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến tên tuổi của hai nữ thi sĩ tiêu biểu cho giai đoạn văn học này đó chính là Hồ xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Cùng nổi danh trong thời kỳ văn học trung đại nhưng mỗi thi sĩ lại mang một hồn thơ khác nhau. Nói đến Hồ Xuân Hương chúng ta sẽ nghĩ ngay tới bài thơ “bánh trôi nước” hồn thơ của Hồ Xuân Hương mang đầy vẻ gai góc, sắc bén và có hàm ý vô cùng thâm sâu và mạnh mẽ như chính con người bà vậy. Nhắc tới Bà huyện Thanh Quan thì chắc hẳn người đọc không tể quên được bài thơ “Qua Đèo Ngang” đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của bà, bài thơ là nỗi lòng trầm tư sâu sắc và đầy sâu lắng của tác giả.

Thân bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Qua Đèo Ngang”

Bài thơ Qua Đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ra đời trong khi bà vào Phú Xuân và đi qua Đèo Ngang. Trước vẻ đẹp của đất trời, non nước và con người bà đã sáng tác nên bài thơ này.Bài thơ mang ý vị sâu lắng, nỗi buồn, nỗi cô đơn của người thi sĩ dường như đã nhuốm màu lên cảnh vật. Tác giả đã mở đầu bài thơ với hai câu đề:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa

Lối mở đầu bài thơ của tác giả hết sức tự nhiên, chỉ với hai câu thơ vô cùng ngắn gọn tác giả đã khái quát được toàn bộ thời gian không gian cảnh vật. Đây là một bức tranh chiều hoàng hôn với hình ảnh “bóng xế tà” hình ảnh ấy gợi lên cho con người ta nỗi buồn mang mang mác vì một ngày sắp khép lại. Trong câu thơ dường như đang ẩn chứa nỗi niềm u buồn, tiếc nuối của nữ thi sĩ. Trước không gian rộng lớn của Đèo ngang và trước thời gian “bóng xế tà” nhen nhóm lên hình ảnh của cỏ cây, hoa lá. Đó là những điều đẹp đẽ, tươi mới của cuộc sống. Trong câu thơ “cỏ cây chen lá, đá chen hoa” tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa, cỏ cây hoa lá cũng biết chen chúc nhau, đua nhau trỗi dạy, thể hiện sức sống mãnh liệt của những thứ thật nhỏ bé và đơn giản. Tác giả đã phóng tầm mắt của mình ra xa hơn, nhìn bao quát cảnh vật, cảnh vật trong quan sát của tác giả được thể hiện trong hai câu đề:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Trong bức tranh đã xuất hiện hình nhr của con người nhưng nó lại “lác đác” “tiều vài chú “con người thư thớt làm cho bức tranh cũng chở nên đìu hiu vắng vẻ, càng khiến con người trở nên nhở bé và hiu quạnh trước cảnh tượng hùng vĩ của thiên nhiên. Trong hai câu thơ này tác giả đã triệt để sử dụng biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh dáng vẻ “lom khom”của chú tiều, sự “lác đác “của những mái nhà bên sông. Chính biện pháp đảo ngữ khiến chúng ta thấy được nét quạnh hiu, vắng vẻ của bức tranh chiều tà. Đến hai câu luận người đọc sẽ hiểu rõ hơn lí do vì sao mà bức tranh thiên nhiên dưới ngòi bút của tác giả lại u buồn đến vậy, câu thơ ẩn chứa nỗi buồn thê lương của người nữ sĩ:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Câu thơ không chỉ đơn thuần là tiếng kêu tha thiết của con cuốc mà còn là chính nỗi lòng của tác giả, đó là nỗi nhớ thương quê nhà. Câu thơ đã sử dụng thành công điển tích xưa nói về thời vua Thục mất nước, ông đã hóa thành con chim cuốc và vì nhớ nước mà luôn kêu “cuốc cuốc”. Tiếng chim cuốc cuốc trong bóng chiều tĩnh lặng càng tô đậm nỗi buồn của tác giả. Tiếng kêu “gia gia” ẩn chứa trong đó là nỗi “thương nhà”. Qua nghệ thuật chơi chữ kết hợp với việc sử dụng sắc sảo thủ thuật nhân hóa người đọc đã hiểu được nỗi lòng sâu thẳm của tác giả, hiểu cảm nhận của bà về thực tại xã hội lúc bấy giờ.Kết thúc bài thơ là hình ảnh:

Dừng chân đứng lại trời, non, nước

Một mảnh tình riêng ta với ta Cảnh Đèo Ngang thật đẹp và hùng vĩ đó là núi non, mây trời. Cảnh đẹp ấy như muốn níu chân người thi sĩ. Cảnh thì đẹp như vậy nhưng lòng người lại chứa đựng nỗi buồn mang mác, chính sự hùng vĩ của núi đồi khiến người thi sĩ nhận ra đó là “Một mảnh tình riêng ta với ta” lòng tác giả có biết bao u buồn sầu lắng nhưng biết chia sẻ cùng ai bây giờ. Kết thúc bài thơ là tiếng thở dài, để lại trong lòng người đọc những day dứt không nguôi.

Kết bài: Bài văn cảm nghĩ về bài thơ “Qua Đèo Ngang”

Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện rõ tâm tư của tác đó là nỗi buồn, nỗi nhớ thương và cả lòng yêu nước tha thiết của tác giả. Bài thơ đã khép lại nhưng hồn thơ của bà sẽ còn mãi, nó đã in đậm trong lòng người đọc.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM CAM NGHI VE BAI THO QUA DEO NGANG MIÊU TẢ KHUNG CẢNH ĐÈO NGANG PHÂN TÍCH BÀI THƠ QUA ĐÈO NGANG CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN Theo chúng tôi

Từ khóa tìm kiếm:

cảm nghĩ của em về bài bứơc qua đèo ngang ngắn nhất

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang ngắn nhất

phát biểu cảm nghĩ về bài thoe qua đèo ngang viết mgawns gọn

Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Văn mẫu Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Phân tích bài thơ Qua đèo Ngang

B ài thơ “Qua đèo ngang” được bà Huyện Thanh Quan vận dụng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật . Với cách sử dụng ở luật thơ nghiêm ngặt về số câu, số tiếng, bố cục, gieo vần, luật đối liên song tác giả vẫn giúp người đọc hiểu được tình cảm sâu sắc kín đáo qua những hình ảnh thơ , tứ thơ .

Trong lòng văn thơ cổ VN có 2 nữ thi sĩ đc nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan . Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo, trịch thượng, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm … Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua đèo ngang ” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc , kín đáo của nhà thơ . Bằng cách sử dụng ngôn từ trang nhã, điêu luyện nhà thơ đã tả được bức cảnh thiên nhiên đèo ngang khi bà ta từ đàng ngoài vào đàng trong . Đồng thời lời thơ đã hàm ẩn tình cảnh hoài cổ, phủ nhận thực tại của nhà thơ

Mở đầu bài thơ , tác giả đã giới thiệu cảnh quan nơi đèo ngang qua những vần

thơ

(2 câu đề ) “Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa “

Câu thơ đã giới thiệu ko gian, thời gian để bắt đầu bước vào thế giới tâm hồn của chính nhà thơ . Cảnh đèo ngang đáng với ý nghĩa tên gọi của nó đầy hiểm trở, hoang sơ . Cảnh tượng ấy gợi lên trong con người cái nhìn heo hút , hiu quạnh . Cảnh tượng ấy lại còn được nói tới vào thời điểm vào lúc “bóng xế tà” . Đây là những lúc dễ dàng gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ …. Đúng vậy !

“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ “

Từ cái nhìn thực tại ấy, cảnh quan trc’ mắt hiện lên trg tầm ngắm của nhà thơ. Để rồi nhà thơ mới nhận định tổng thể cảnh đèo Ngang. Lời thơ: “Cỏ cây chen đá lá

chen hoa” Với cách sử dụng điệp từ và hiệp vần “Cỏ cây chen đá” và “lá chen hoa” cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy chứ! Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả n~ thực vật ấy lại đc hiển hiện trg 1 hoạt động “chen chúc”. Như vậy, cảnh tượng ở đây cho ta thấy là hoang vu, ko có bàn tay con ng` chăm sóc, vun tưới. Do vậy, sự vật ở đây trở nên sô bồ, hỗn độn, mọi vật cố gắng ngoi lên, chen lẫn để duy trì sự sống. Đứng trc’ cảnh tượng đó khiến cho con ng` càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con ng` đã hiu quặng, đơn chiếc càng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trãi.. Mới bước vào thế giới thơ ca của Bà HTQ ta đã cảm thụ đc 1 nỗi buồn của 1 thời đại đổi thay. Thời đại của nhà Lê. Vốn thuộc dòng tộc nên nhà thơ đã trung thành với triều đình. Nhưng làm sao có thể trung thành mãi đc 1 triều đại mục nát như thế. Hiểu đc hoàn cảnh đó ta mới thấu tỏ đc nỗi lòng của nhà thơ trg lúc này. Chẳng thế mà ng` ta vẫn thường khẳng định bước vào bài thơ của bà HTQ như bước vào 1 ngôi chùa cổ kính, thật tĩnh lặng nhưng cũng chất chứa rất n` nỗi niềm sâu kín.

Đến 2 câu thực, nhà thơ đã thể hiện cảnh sinh hoạt nơi đèo Ngang = n~ câu

thơ:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà.”

2 câu này, tác giả đã thực sự đứng trên vị trí đỉnh của đèo Ngang. Từ vị trí này, nhà thơ mới có thể quan sát tổng thể cảnh sinh hoạt nơi đây. Tác giả đã dùng thị giác để nhìn nhận n~ h. ảnh vài chú tiều, mấy nhà chợ cùng với n~ t/c lom khom, lác đác.

Với cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ: ” lom khom- lác đác, dưới núi- bên sông, tiều vài chú-chợ mấy nhà” nhằm để tạo sự nhấn mạnh, nổi bật ý thơ. Ngoài ra với cách nói đảo ngữ, tác giả đã thay đổi trật tự của câu thơ. Đúng ra câu thơ phải đc sắp xếp:

“Vài chú tiều lom khom dưới núi

Mấy nhà chợ lác đác bên sông.”

Thế nhưng, nhà thơ đã đưa vị ngữ lên trên đầu câu để nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt.

Với cách sử dụng n~ từ láy gợi hình “lom khom”, dáng vẻ thu gọn, gập ng`; “lác đác” tạo sự thưa thớt, vắng vẻ. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng n~ số từ ” vài-mấy” làm cho ng` đọc hiểu rằng cảnh sinh hoạt ở đây chỉ có 1 vài chú tiều trg dáng vẻ tiều tụy, bé nhỏ; thêm vào đó 1 vài ngôi nhà nằm rải rác ở bên ven sông. Cảnh sinh hoạt thật buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ n~ cảm giác hiu quặng, tẻ nhạt, trống trải.

Từ cảnh quan sinh hoạt đìu hiu, quặng quẽ ấy, nhà thơ đã bàn luận thêm cảnh quan nơi đèo Ngang qua n~ câu thơ:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

giác quan thính giác, nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh đèo ngang . Đc thể hiện = lối nói đối ngữ : nhớ nước – thương nhà; đau lòng – mỏi miệng; con cuốc cuốc – cái gia gia . T/giả đã tạo sự cân đối về nội dung ý nghĩa nhằm nhấn mạnh , nổi bật nội dung .

Bên cạnh đó, tác giả còn vận dụng cách nói đảo ngữ, trật tự, bình thường của

câu :

“Con cuốc cuốc đau lòng nhớ nước

Cái gia gia mỏi miệng thương nhà”

Tuy nhiên, nhà thơ đã đưa những từ ngữ : nhớ nước , thương nhà lên đầu câu nhằm để nhấn mạnh nỗi niềm nhớ nước, tấm lòng thương nhà

Với cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa : con cuốc cuốc mà cũng nhớ nước đau lòng, loài gia gia mà cũng thương nhà mỏi miệng . Trong thơ ca, nghệ thuật này thường dùng để mang ý hàm ẩn . Đó ko phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim gia . Hay nói đúng hay đó chính là tiếng lòng của nhà thơ . Vì sao vậy ?

cách nghệ thuật chơi chữ dựa vào hiện tượng đồng âm : cuốc = quốc , hiện tượng đồng nghĩa : gia = nhà . Qua đó, giúp ta có thể hiểu đó là sự đau lòng, thương nhớ về đất nước , nỗi niềm mỏi miệng , suy nghĩ về quê nhà . Làm sao mà ko nhớ nước đến đau lòng , ko mỏi miệng vì thương nhà đc ? Bởi vì trong cách sử dụng điển tích , nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ , triều đại nhà Lê thời kì vàng son,hưng thịnh nay ko còn nữa mà đó là 1 triều đại nhà Lê mục rỗng, thối nát . Gia tộc của t/giả vốn trung thành với nhà Lê nhưng ko thể nào theo 1 chế độ bất tài , chác đáng trước hiện thực đáng lên án như thế này . Thêm vào đó, đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà 1 bước ngoặt đổi đời . Vì vậy , với cách dùng h/ảnh cái gia gia để gợi về thủy chung, thương nhớ về quê nhà

Với tất cả những gì thấy đc và nghe đc đã tạo ra cảm xúc của t/giả trước thực tại, cảnh vật vắng lặng , đơn chiếc, xót xa , buồn bã . Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng . Tình cảm này đc đúc trong 2 câu thơ cuối :

“Dừng chân đứng lại trời non nc

Một mảnh tình riêng ta với ta “

Với nhóm từ “dừng chân đứng lại” đọc lên ta nghe như thừa vì khi dừng chân thì sẽ đứng lại . Nhưng ko, cách sử dụng từ ở đây muốn thể hiện trạng thái tĩnh gần như tuyệt đối của nhà thơ . Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng để rồi nhìn bao quát nơi Đèo Ngang : 1 bầu cao xa, cả dãy núi trùng điệp , dòng sông trải đầy . Như vậy, thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la . Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng” . Cách sử dụng từ của t/giả thật điêu luyện

đã ít vì chỉ có “một ” , lại còn rất nhỏ “mảnh” và cách dùng từ “tình riêng” càng cho ta thấy tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn của bà Huyện Thanh Quan . Sau đó lại sử dụng nhóm từ kết hợp “ta với ta” tưởng như có thêm tâm hồn con người nào khác , nhưng ko đây chỉ là 1 con người : thân xác, tâm hồn của nhà thơ . Như vậy thiên nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau để nhấn mạnh, nổi bật ý nghĩa , tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ .

Qua đèo ngang là 1 bài thơ trữ tình đặc sắc . Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy đc bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín . Cảnh đèo ngang thật buồn vắng, tội nghiệp phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm . Từ bài thơ , cảm thụ tâm cảm của nhà thơ , ta càng cảm thông nỗi lòng của t/giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan . Đúng là lượng thơ của t/giả rất ít, song cái khiêm tốn đó cũng đủ để tạo ấn tượng đó làm lay động lòng người . Có lẽ ai ai cũng biết đến bài thơ khi đọc hiểu về bà Huyện Thanh Quan . Thơ là tình cảm , là cảm xúc của con người là thế đấy .

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan để thấy một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc về khung cảnh hữu tình của Đèo Ngang. Qua đó cảm nhận được từ trong câu chữ ấy cả tiếng lòng thầm lặng, nỗi niềm sâu kín của tác giả đối với đất nước, quê hương.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan là một nữ sĩ nổi tiếng sống ở giai đoạn đầu của thế kỉ XIX, Bà quê ở làng Nghi Tàm, ven Hồ Tây, Thăng Long (nay là Hà Nội). Bà có tên thật là Nguyễn Thị Hinh nhưng người đời thường quen gọi là Bà Huyện Thanh Quan vì chồng bà là Lưu Nghi, từng đảm nhiệm chức tri huyện Thanh Quan (Thái Bình).

Bà vốn xuất thân trong một gia đình quan lại coi trọng việc học hành, chính vì thế nên bà có vốn hiểu biết khá rộng về chữ Nôm. Bên cạnh đó, bản thân bà lại là một người nhạy bén trong học tập và có tâm hồn nhạy cảm với cuộc đời và bà đã bộc lộ những khả năng đó của mình trong lĩnh vực sáng tác thơ ca chữ Nôm.

Về sự nghiệp văn chương, những sáng tác của bà được lưu lại không nhiều, hiện người đời có thể tìm được sáu bài thơ Đường luật mà bà đã để lại, có thể kể tên như: “Chiều hôm nhớ nhà” , “Thăng Long thành hoài cổ” , “Chùa Trấn Bắc” , “Chơi đài Khán Xuân Trấn Võ” , “Tức cảnh chiều thu” và “Qua Đèo Ngang” .

Tất cả những bài thơ này đều được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tuy số lượng những tác phẩm để lại không nhiều nhưng người đời có thể thấy được bà đã thể hiện trong thơ mình một giọng thơ man mác buồn, ngôn ngữ mực thước, trang trọng và chất chứa trong đó là nỗi niềm hoài cổ và cái nhìn trĩu nặng tâm tư về nhân thế.

Giới thiệu bài thơ Qua đèo ngang

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan

Bức tranh thiên nhiên trong nỗi niềm của người thi nhân

Qua hai câu thơ đầu của bài thơ, bà Huyện Thanh Quan đã tái hiện trước mắt người đọc cả không gian và thời gian của Đèo Ngang khi nhân vật trữ tình đặt chân đến địa danh này:

“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.”

Bức tranh cuộc sống hiện lên trong bài thơ

Bên cạnh việc thể hiện sự sống của thiên nhiên, với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã làm xuất hiện trong bức tranh cảnh vật ấy bóng dáng của con người:

“Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.”

Thông thường, một bức tranh thiên nhiên khi có sự xuất hiện của con người thì cũng trở nên sống động hơn và mang lại cảm giác hài hòa giữa nhân với cảnh . Thế nhưng, khi con người xuất hiện trong tranh ấy với bóng dáng nhỏ nhoi và sự ít ỏi, trong trạng thái “lác đác” , trong tư thế “lom khom” thì lại càng làm cho không gian cảnh vật thêm hoang vắng, mênh mông.

Nói như vậy là bởi giữa không gian rộng lớn, hùng vĩ, bát ngát trùng mây của Đèo Ngang nhưng chỉ xuất hiện đôi nét phác họa về vài chú tiều, về những mái nhà, khu chợ thưa thớt. Con người chính vì vậy trở nên nhỏ bé vô cùng trước sự vô hạn của không gian. Như vậy, trên khung nền của cảnh thiên nhiên núi đèo bát ngát, bao la, mặc dù có sự hiện hữu của đời sống con người nhưng nếu đó chỉ là sự xuất hiện thấp thoáng, ít ỏi thì chỉ càng tô đậm thêm sự hoang sơ, trập trùng, và bất tận của cảnh mà thôi.

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, ta thấy hai câu thơ đã thể hiện việc tác giả sử dụng rất khéo léo nghệ thuật đăng đối. Nếu câu trước có “tiều vài chú” , thì câu sau có sự xuất hiện của “chợ mấy nhà” , nếu câu trước những chú tiều ở trong tư thế “lom khom dưới núi” thì câu sau những gian nhà, phiên chợ chỉ “lác đác bên sông” .

Đặc biệt, với phép đảo trật tự cú pháp, để tính chất của hình ảnh lên trên trước sự xuất hiện của nó (thay vì viết “Vài chú tiều lom khom dưới núi” – “Chợ mấy nhà lác đác bên sông” thì nhà thơ lại viết thành “Lom khom dưới núi, tiều vài chú” – “Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” ) cùng với sự kết hợp các từ láy “lác đác” , “lom khom” đã có tác dụng gợi hình cho và nhấn mạnh sự leo lét của sự sống con người ở hai câu thực này.

Tâm trạng tác giả trong khung cảnh chiều buồn

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang, người đọc còn nhận ra rằng trước khoảnh khắc tắt nắng của một ngày, không gian mênh mông, hoang sơ và đời sống con người thì thưa thớt, vắng vẻ, tâm trạng của nhân vật trữ tình mới thêm trĩu nặng những nỗi niềm, tâm tư:

“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

Trong hai câu thơ trên, bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng điển tích về chim quốc quốc và chim gia gia . Theo chuyện xưa tích cũ, vua Thục Đế do bị mất nước nên rất đau lòng đến nỗi ngày đêm kêu gào và tiếng kêu cất lên chính là tiếng “quốc quốc” (nghĩa là đất nước) và về sau chim quốc quốc được xem là sự hóa thân của nhà vua mà thành.

Tâm trạng “nhớ nước” , “thương nhà” của nhà thơ đã làm toát lên một tấm lòng đáng trân trọng và cần được cảm thông. Bởi vì, trước khi đến Huế, nhân vật trữ tình đã có một khoảng thời gian dài sống và gắn bó với mảnh đất Thăng Long. Chính hình ảnh về vùng đất và con người nơi ấy đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ. Nó đã trở thành một miền kí ức dạt dào để đến lúc rời xa, trong thâm tâm bà nảy sinh những cảm xúc “nhớ” , “thương” trên là điều không thể tránh khỏi.

Do vậy, khi phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang ta thấy Đèo Ngang vốn đã hoang vắng, u tịch nhưng cũng không thể trở nên rộn rã, vui tươi hơn khi có sự xuất hiện của âm thanh tiếng chim. Bởi, tiếng kêu tha thiết, xót xa như vậy thì chỉ làm tăng thêm vẻ cô liêu, buồn vắng của cảnh vật. Tiếng kêu của những loài chim ấy là một cách ẩn dụ cho tiếng lòng của một tâm hồn hoài vọng về sự thịnh suy của triều đại đã qua.

Khi tâm trạng không thể cất giấu mãi hoài vào trong trong cảnh vật, tác giả đã bộc lộ nó một cách trực tiếp qua hai câu thơ cuối:

“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta . ”

Những câu thơ tiếp tục gợi ra sự đối lập giữa một con người nhỏ bé, đơn độc với sự rợn ngợp, bao la của non nước mây trời Đèo Ngang. Khi con người đã có dịp cùng trải qua bao thăng trầm với lịch sử dân tộc, con người ấy như bỗng nghiệm ra một điều: đời người chỉ là hữu hạn trong sự vô cùng của thiên nhiên, đất nước…

Cách cắt mảnh các hình ảnh “trời” , “non” , “nước” và những từ mang ý nghĩa riêng lẻ “một” , “mảnh” , “riêng” , “ta” đã làm nổi bật lên trên sự bất tận, bao la của tạo vật là nỗi trống vắng, cô đơn của con người. Con người ấy lại không thể tỏ bày cùng ai những nỗi niềm đang chất chứa mà chỉ có thể bầu bạn với chính mình ( “ta với ta” ) thì lại càng trở nên cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết.

Nhận xét về giá trị của tác phẩm

Bài văn mẫu: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo ngang

Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng của bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đ ường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”

Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.

“Cỏ cây chen là đá cheo hoaLom khom dưới núi tiều vài chú“Lom khom dưới núi tiều vài chú“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc“Dừng chân ngắm lại trời non nướcMột mảnh tình riêng ta với ta” Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” Lác đác bên sông chợ mấy nhà” Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.

Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.

Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vài chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom” khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác, chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc, chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.

Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ con là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.

Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.

Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc.