Xuất Xứ Bài Thơ Nói Với Con / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Xuất Xứ Của Bài Thơ “Gửi Lời Chào Lớp Một”

Từ thập kỷ 80, bài thơ “Gửi lời chào lớp Một” đã được đưa vào sách giáo khoa và vẫn hiện hành với sách cải cách. Đã có những nhầm lẫn về xuất xứ bài thơ và cuối cùng cũng tìm ra xuất xứ tin cậy nhất. Xin tổng hợp các thông tin để chia sẻ với các bạn.

Bài thơ “Gửi lời chào lớp Một”

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Cố sẽ xa chúng em…

Cô sẽ luôn ở bên.

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Lời bình của nhà văn Phạm Khải

Nghi ngờ sách giáo khoa ghi sai tên tác giả

Ở SGK Tiếng Việt lớp 1 (tập 2) dưới bài thơ ghi tên tác giả là Hữu Tưởng. Người đưa nghi vấn đầu tiên về tác giả là nickname Tran Trung.

Trên trang cá nhân của mình, Tran Trung chia sẻ: “Internet thật là tuyệt! Nhờ nó mà tình cờ mình biết được bài thơ quen thuộc một thời Gửi lời chào lớp Một là lời bài hát trong bộ phim Liên Xô (cũ) Maruxia đi học, sản xuất năm 1948″.

Những độc giả khác truy tìm trên mạng thì thấy quả kịch bản của phim Maruxia đi học này có lời bài hát Nga tựa như bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong SGK. Dòng trạng thái này của Tran Trung được nhiều bạn bè, cư dân mạng chia sẻ với nhiều câu hỏi.

Nickname Uyên Thảo Trần Lê cung cấp thêm thông tin: “Bài thơ này tôi nhớ học từ năm lớp 1 cách đây 50 năm, khi ấy người ta ghi là phỏng thơ”. Nickname Mai Anh cũng viết: “Bài này hồi mình học năm 1970 đã biết là của Nga mà”.

Qua tìm hiểu, được biết sau năm 1975, SGK lớp 1 có hai lần được sửa chữa. Lần chỉnh sửa thứ nhất là năm 1979, xuất bản năm 1981. Lần chỉnh lý thứ hai là năm 1989, xuất bản năm 1994. Sách Tiếng Việt lớp 1 được lưu hành hiện nay dựa trên bản chỉnh lý năm 1994.

Ý kiến các nhà làm sách giáo khoa

PGS.TS Đặng Thị Lanh, chủ biên của sách Tiếng Việt lớp 1 hiện hành, cho biết bản chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1994 dựa trên sách Tập đọc lớp 1 xuất bản năm 1981.

Lúc đó, sách vẫn đề tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một là “theo Hữu Tưởng”. Còn với những bản gốc trước năm 1981, bà Lanh cho hay bà cũng không biết nên chưa có cơ hội đối chiếu.

“Tôi cũng không biết tác giả Hữu Tưởng là ai. Khi làm sách thì chúng tôi không thể gặp từng tác giả một. Chúng tôi chỉ trích lại theo nguồn (năm 1981) mà thôi” – bà Lanh nói.

Thạc sĩ Trần Mạnh Hưởng – người cùng tác giả Nguyễn Có được giao chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1989 – cũng xác nhận bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong quyển Tiếng Việt lớp 1 hiện hành được trích lại từ sách Tập đọc lớp 1 năm 1981, ghi tác giả bài thơ là “theo Hữu Tưởng”, còn bản hiện hành để tên tác giả là Hữu Tưởng.

Theo ông Đào Duy Mẫn – nguyên phó vụ trưởng Vụ Giáo dục phổ thông, một đồng nghiệp cũ của ông Hữu Tưởng – thì ông Hữu Tưởng tên thật là Nguyễn Hữu Tưởng, nguyên viện phó Viện Khoa học – giáo dục trước đây, đã mất vào những năm 1980. Theo đánh giá của ông Mẫn thì tác giả Hữu Tưởng là một đồng nghiệp rất uy tín.

Như vậy, xung quanh tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một đã có nhiều thông tin lẫn lộn – học sinh thuộc những năm 1970 cho biết bài thơ được phỏng theo một ca khúc Nga, học sinh từ năm 1981 đến nay hiểu là thơ của Hữu Tưởng.

Để giải quyết sự không rõ ràng này, chúng tôi Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: “Người làm sách cần phải tra cứu lại những bản sách trước sách Tập đọc năm 1981, xem lại bài thơ có giống như bài hát Nga đã nói không. Nếu có, cần phải chú thích lại cho rõ”.

Xuất xứ bài thơ theo tài liệu lâu nhất

Sau khi đọc bài viết “Gửi lời chào lớp Một: Thơ của ai?” (Tuổi Trẻ ngày 7/7/2015), ông Lê Khánh Hoài (bút danh Châu La Việt) đã nhận ngay ra đây là bản dịch của cha ông – nhà báo Lê Khánh Căn.

Tại Thư viện Quốc gia, ông Lê Khánh Hoài đã tìm thấy bản dịch truyện Ma-rút-xi-a đi học gồm hai tập do NXB Kim Đồng in năm 1959 với số lưu chiểu lần lượt là 6.379 và 6.511.

Ngay trang đầu tập truyện dịch (in lần đầu năm 1958), lời nhà xuất bản có ghi: “Xin giới thiệu với các em tập truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác. Đây là một truyện rất quen biết của các em nhỏ Liên Xô, đã được quay thành phim lấy tên là Em nữ sinh lớp một… Lần tái bản này chúng tôi có lược bớt đi một số đoạn. Mong rằng sau này sẽ có dịp giới thiệu với các em toàn bộ cuốn truyện”.

Đáng chú ý là ở cuối tập hai của truyện có in toàn bộ bài thơ được dẫn dắt như sau:

“Toàn lớp hai “A” kéo ra đầy sân khấu. Các em hát: Lớp một ơi, lớp một!/Đón em vào năm trước;/Năm nay lên lớp hai,/Gửi lời chào tiến bước!/ Phấn, bảng, sổ gọi tên,/Theo chúng em cùng lên/Chúng em dần lớn mãi,/Bàn ghế cùng lớn thêm,/Chúng em chơi thân mật/Yêu thương cả mọi người,/Đứa bạn em yêu nhất/Cũng cùng lên lớp hai./Còn cô giáo thân mến/Cô sẽ xa chúng em?/Không, cô yêu chúng em/ Cô cũng lên lớp chứ./Thế là cùng vui vẻ,/Chúng em tiến bước đều,/Cùng cả trường cả lớp,/Cùng Tổ quốc thân yêu!…

Khánh Như trích dịch (theo bản Pháp văn Maroussia va à l’ecole của Nhà xuất bản Ngoại Văn Liên Xô)/ In 5.065c tại Nhà máy in Tiến Bộ – Hà Nội. Gửi lưu chiểu tháng 3-1959.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Khánh Hoài nói: “Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, bố tôi làm bí thư Đoàn Trường Khải Định ở Huế, sau đó cùng với bác Trần Hoàn đi theo kháng chiến. Năm 1956, bác Tố Hữu cử ông sang làm Sở Báo chí trung ương. Năm 1957 ông về làm báo Nhân Dân với bút danh Hồng Chuyên. Với vốn tiếng Pháp của mình, ông đã dịch tập truyện Ma- rút- xi-a đi học do NXB Kim Đồng ấn hành.”

“Theo tôi nhớ, bản in lần đầu năm 1958 có ghi Lê Khánh Căn dịch. Đáng tiếc bản này tôi không tìm thấy nữa. Đến lần tái bản 1959, ông lấy tên con gái út mà ông yêu quý là Khánh Như để đặt bút danh. Đây là bản Thư viện Quốc gia còn lưu. Như vậy từ năm 1958-1959 đã có Ma-rút-xi-a đi học này rồi. Đến năm 1971, tập truyện tiếp tục được NXB Kim Đồng tái bản và dồn lại thành một tập”.

Về câu chuyện dư luận đang quan tâm, ông Khánh Hoài giải thích: “Theo như tôi tìm hiểu qua các bản in bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong sách giáo khoa lớp 1, lần đầu tiên phần tác giả được ghi là Hữu Tưởng (theo quyển Ma- rút- xi-a đi học), lần in thứ hai chỉ đề là Theo Hữu Tưởng, lần ba chỉ còn Hữu Tưởng – lúc đó ông Hữu Tưởng đã mất rồi. Không hiểu sao lại ghi như vậy? Trong khi lẽ ra bài thơ này chính xác nhất phải viết là: “Dựa theo truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác (Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một” – PV), bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959″.

Bản gốc bài hát

LỜI CHÀO LỚP MỘT

Đây là bài hát rút từ đoạn kết kịch bản phim “Nữ sinh lớp một” (Первоклассница – Режиссёр Илья Фрэз, Союздетфильм, 1948) của nhà văn, nhà soạn kịch Nga Evghenhi Lvovich Shvarts (Евгений Львович Швaрц, 1896 – 1958), tác giả của những truyện cổ tích tân biên nổi tiếng như “Phép lạ đời thường”, “Cái bóng”, “Lọ lem”, “Giết rồng”… Năm 1949, Shvarts công bố kịch bản “Nữ sinh lớp một” như một truyện vừa.

BigSchool: Như vậy, dưới bài thơ ở sách giáo khoa nên ghi: Dựa theo truyện “Ma-rút-xi-a đi học” của nhà văn Liên Xô Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một”. Vì ông Hữu Tưởng đã mất nên không hiểu ông đọc bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959 hay ông đọc thẳng bản tiếng Nga hay tiếng Pháp? Dù là cải biên hay phóng tác theo lời bài hát đã có, tác giả Hữu Tưởng vẫn đáng để chúng ta ghi nhận công của ông. Với những tác giả giáo khoa thì đây cũng là điều cần chú ý khi đưa các tác phẩm vào sách của mình.

Các bạn có thể xem và nghe bài hát này ở phần kết của video:

Nguồn: Báo Tuổi trẻ và FB của TS. Đỗ Hải Phong

Nghị Luận Về Bài Thơ Nói Với Con

Dàn ý nghị luận về bài thơ “Nói với con” của Y Phương

Giới thiệu tác phẩm cần nghị luận: bài thơ “Nói với con” của Y Phương.

Tác giả: Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc tiêu biểu. Thơ ông vừa gần gũi, giản dị vừa mang giá trị sâu sắc.

Tác phẩm: “Nói với con” là lời chia sẻ, trò chuyện của một người cha với con. Bài thơ mang đậm bản sắc dân tộc miền núi.

Người cha nói cho con nghe về cội nguồn sinh dưỡng.

4 câu đầu: cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên là tình cảm gia đình:

Con lớn lên trong tình yêu thương nồng ấm của cha mẹ.

Nhịp thơ ⅔ cùng cấu trúc đối xứng: âm hưởng vui tươi, quấn quýt.

5 câu tiếp: con còn lớn lên trong không khí lao động, trong tình yêu thương của quê hương:

Niềm vui lao động, sự gắn bó của người đồng mình.

Vẻ đẹp quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn con lớn lên từng ngày.

Cha nhắc tới điểm tựa hạnh phúc: “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

Cha nói với con về phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình

Đó là sức sống mãnh liệt và truyền thống cao đẹp của người đồng mình:

Người đồng mình: cha mẹ, quê hương.

Phẩm chất của người đồng mình được thể hiện qua lời ăn tiếng nói gần gũi, mộc mạc.

Đó là phẩm chất chung thuỷ với nơi chôn rau cắt rốn: kết hợp nhiều điệp từ, nhiều kiểu câu dài ngắn khác nhau.

Mong con sống thuỷ chung, tình nghĩa với quê mình:

Biết dùng ý chí để đối mặt với khó khăn.

Duy trì phong tục của người đồng mình: sống cao thượng, mạnh mẽ bước đi vì luôn có cha mẹ, quê hương ở bên.

Khẳng định lại giá trị bài thơ: bài thơ giúp hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn và sức sống của đồng bào miền núi, gợi nhắc về ý chí vượt qua khó khăn trong cuộc sống.

Đề tài tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước không hề mới lạ. Nó đã được rất nhiều nhà văn, nhà thơ lựa chọn cho những sáng tác của mình. Nhưng Y Phương lại đem một cách tiếp cận hoàn toàn mới lạ cho đề tài này. Bài thơ “Nói với con” chính là lời của người cha nói với con, mang đậm bản sắc dân tộc, nhắc nhở con về những truyền thống tốt đẹp của đồng bào cũng như dặn con vững tin bước tiếp tới tương lai. Bằng tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim mình, Y Phương đã thật thành công trong việc thể hiện tình cảm thiêng liêng của cha với con, với quê hương xứ mình. Áng thơ ấy mở ra cho người đọc những cảm xúc thật sâu lắng…

Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc tiêu biểu. Thơ ông vừa gần gũi, giản dị vừa mang giá trị sâu sắc. Tác phẩm “Nói với con” là lời chia sẻ, trò chuyện của một người cha với con. Bài thơ mang đậm bản sắc dân tộc miền núi, gợi nhắc cho người đọc trách nhiệm của người làm con. Qua đó, ta có thể thấy mong ước của một người cha đối với con thật nồng ấm và giản dị.

Mở đầu bài thơ, người cha đã nói với con về cội nguồn sinh dưỡng. Những hình ảnh gia đình đầm ấm, quấn quýt dần hiện ra:

“Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười”

Cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên là tình cảm gia đình. Cách diễn đạt thật độc đáo cho thấy tình yêu thương của cha mẹ với con. Con được lớn lên từng ngày trong sự chở che ấy. Nhịp thơ ⅔ cùng cấu trúc đối xứng càng tạo nên âm hưởng vui tươi, tràn đầy hạnh phúc của gia đình. Người ta nói nhà là nơi nuôi dưỡng tốt nhất cho tâm hồn cũng bởi lẽ đó. Không khí gia đình ấm áp chính là nguồn sữa mát lành nhất cho sự phát triển của con. Cha nhắc nhớ con về cội nguồn sinh dưỡng, về sự đón nhận của mẹ cha với mỗi bước đi của con đầu đời của con. Từ tình cảm gia đình ấy, cha nói với con rằng con còn lớn lên trong không khí lao động, trong tình yêu thương của quê hương:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.

Một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện được sử dụng: “cài nan hoa”, “ken câu hát”,… khắc họa rõ nét cuộc sống người đồng bào dân tộc miền núi. Niềm vui lao động, sự gắn bó của người đồng mình cũng từ đó mà hiển hiện trên trang thơ. Thiên nhiên với những ghềnh thác, núi rừng,… cũng là những bàn tay êm ái nuôi dưỡng con người cả về lối sống lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp ấy của quê hương đã nuôi dưỡng con lớn lên từng ngày. Cách nói “người đồng mình” càng tạo cảm giác thân thiết, gắn bó tới độc giả. Không chỉ vậy, cha còn nhắc tới điểm tựa hạnh phúc: “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Y Phương từng chia sẻ rằng khi con người sống gắn bó với lao động, với quê hương nghĩa tình thì họ sẽ dễ dàng tìm được hạnh phúc của mình. Tình yêu của cha mẹ, tình cảm gia đình, rộng ra là tình thương quê hương đang từng ngày hội tụ vào trong tâm hồn con. Quê hương là nơi có rất nhiều văn hoá nghĩa tình, cha không bao giờ muốn con quên điều đó.

Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng, người cha lại tiếp tục nói với con về phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Người đồng mình có những đức tính cao đẹp mà con cần phát huy và trân trọng:

” Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc.”

Đó không chỉ là sức sống mãnh liệt mà còn chính là truyền thống cao đẹp của người đồng mình. Nếu khổ thơ đầu Y Phương dùng “yêu lắm con ơi” thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết thì ở đây lại là “thương lắm con ơi”. Tình thương đến đây đã bao gồm tình yêu, nó không chỉ xuất phát từ trái tim nữa, nó còn đến từ sự đồng cảm, chia sẻ tự đáy lòng. Vậy nên “người đồng mình” – những người cùng nguồn cội – đều cùng mang phẩm chất cao đẹp, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Phẩm chất ấy được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hàng ngày gần gũi, giản dị; qua sức sống mạnh mẽ, kiên cường. Hình ảnh đối lập “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn” nhấn mạnh những khó khăn mà người đồng mình gặp phải. Nhưng trong trường hợp nào, họ cũng vững vàng đối mặt, vững vàng tiến lên, chung thuỷ với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Niềm tự hào ấy gắn với những phẩm chất mà cha muốn truyền cho con: “Lên thác xuống ghềnh/ Không lo cực nhọc”. Cha mong con biết chấp nhận những khó khăn, thử thách và vượt qua bằng niềm tin, ý chí tất thắng. Câu thơ dung dị, mộc mạc nhưng lại càng làm nổi thêm chất quật cường của những con người vùng núi…

Giọng tâm tình ngọt ngào đến đây chuyển thành giọng triết lí sâu sắc:

“Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục.”

Ngoại hình của người đồng mình có “thô sơ” đến đâu thì tâm hồn vẫn đáng quý, đáng trọng. Họ giàu lòng tự trọng, ý chí, giàu niềm tin để rồi xây dựng quê hương trên nền tảng văn hoá của dân tộc. Thật vậy, chính những phong tục ngàn đời kia đều được vun đắp bằng đôi bàn tay lao động miệt mài của người đồng mình. Việc nhắc đi nhắc lại cụm từ “người đồng mình” chắc hẳn Y Phương muốn khơi lên trong con tình yêu quê hương, bản làng để từ đó khẳng định khát vọng, ý chí của người đồng mình và mong con giữ vững thái độ sống tích cực ấy.

Ước mong lớn nhất của người cha được đúc kết trong những vần thơ cuối cùng:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con.”

Từng lời thủ thỉ tâm tình thấm vào lòng người đọc, người nghe. Cha mong con sống thuỷ chung, tình nghĩa với quê mình. Con lớn lên, nhất định phải giống như sông, như suối của người đồng mình: mạnh mẽ mà kiên cường. Con cần biết dùng ý chí để đối mặt với khó khăn; cần biết duy trì phong tục của người đồng mình: sống cao thượng, mạnh mẽ bước đi vì luôn có cha mẹ, quê hương ở bên. Thì ra, cha mẹ vẫn không ngừng hi vọng, kì vọng vào con cái. Đây chắc hẳn không phải tiếng lòng của một người mà của muôn người cha:

“Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Chỉ khi con giữ vững niềm tin vào quê hương, lấy truyền thống quê hương làm động lực cố gắng thì lúc ấy, con mới nắm chắc được chìa khoá của thành công. Và tin chắc rằng, con sẽ lại quay về “tự đục đá kê cao quê hương”, làm giàu đẹp thêm cho quê hương, bản làng mình. Bài thơ kết lại bằng hai tiếng “Nghe con” thật bồi hồi, xao xuyến. Dư âm lời dặn của cha cứ thế vang mãi, ngân mãi…

Bài học của cha muôn thuở đều là những bài học giá trị, nâng đỡ con trên mọi bước đường đời sau này. Y Phương mượn lời cha, giúp con hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn và sức sống của đồng bào mình, gợi nhắc con về ý chí vượt qua khó khăn trong cuộc sống.

Bình Luận Facebook

.

Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con Của Y Phương

I. Tác giả:

– Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, là nhà thơ dân tộc Tày. Ông sinh năm 1948, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

– Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.

1. Hoàn cảnh sáng tác:

– Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cùng khó khăn, thiếu thốn.

2. Bố cục: 2 phần:

– Phần 1: Từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”: Người cha nói với con cội nguồn sinh dưỡng: Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.

– Phần 2: Còn lại: Đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Người cha bộc lộ lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, về truyền thống cao đẹp của quê hương và mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.

3. Những nét tiêu biểu về nội dung, nghệ thuật

a. Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.

– Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nói với con chính là cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – tình gia đình:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

+ Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười”….

+ Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.

+ Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, đang bi bô tập nói, lúc thì sa vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha.

+ Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng rỡ cùng với vòng tay dang rộng của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng.

+ Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Trong tình yêu thương, trong sự nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từng ngày.

– Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình mà còn là quê hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Đó là:

Người đồng mình yêu lắm, con ơi!

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát.

+ Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những “người đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương.

+ Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý: “Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát”. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn.

+ Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc sống lao động.

– Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn,cũng là quê hương với thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình:

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

+ Hình ảnh “rừng cho hoa” gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý nhất.

+ Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân thương. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”.

+ Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn, dành tặng cho con người những gì đẹp đẽ nhất. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống.

– Sung sướng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:

Cha mẹ mãi nhớ về ngàycưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

b. Đức tính tốt đẹp của người đồng mình.

– Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồngmình.

*. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước ( Giàu ý chí, nghị lực ).

– Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:

Người đồng mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chi lớn.

+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.

+ Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơcho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.

*. Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.

+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Chính cuộc sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.

+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

*. Người đồng mìnhcó ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:

– Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúngvới người miền núi:

Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.

+ Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.

+ Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.

+ Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.

+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực ( chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.

+ Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.

+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin.

– Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Không bao giờ nhỏ béđược

+ Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”.

+ Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước

trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.

+ Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tìnhyêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một cảnh tượng cảm động đang diễn ra lúc chia li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe lời cha dặn.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi , gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống,

2. Nghệ thuật:

– Thể thơ tự do.

– Bài thơ giản dị,với những hình ảnh vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa biểu tượng, giàu sắc thái biểu đạt và biểu cảm.

– Cách nói giàu bản sắc của người miền núi tạo nên một giọng điệu riêng cho lời tâm tình mộc mạc mà sâu sắc của người cha đối với đứa con.