Xuất Xứ Bài Thơ Khi Con Tu Hú / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Soạn Bài: Khi Con Tu Hú

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Nhà thơ Tố Hữu (1920 – 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, từ sáu, bảy tuổi Tố Hữu đã học và tập làm thơ. Giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937 – 1938. Tháng 4 – 1939, bị thực dân Pháp bắt, giam giữ ở các nhà lao miền Trung và Tây nguyên. Tháng 3-1942, vượt ngục Đắc Lay, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Huế. Sau Cách mạng, Tố Hữu đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền (từng là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).

Tác phẩm đã xuất bản: Từ ấy (thơ, 1946); Việt Bắc(thơ, 1954); Gió lộng (thơ, 1961); Ra trận (thơ, 1971); Máu và hoa (thơ, 1977); Một tiếng đờn (thơ, 1992); Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973); Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981).

được Tố Hữu viết khi ông đang bị địch giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế).

Thơ viết trong tù có nhiều loại, thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau. Có khi nhà thơ diễn tả nỗi khổ cực của người tù:

Cũng có khi nhà thơ vượt lên trên cảnh ngộ tù đày để chủ động đến với thiên nhiên, rèn luyện ý chí.

Nhưng phổ biến nhất là những câu thơ diễn tả nỗi khổ tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Càng khao khát được hoạt động, được cống hiến, người tù càng cảm thấy bức bối, uất ức khi bị giam hãm giữa bốn bức tường ngột ngạt, chứng kiến thời gian đằng đẵng cứ chầm chậm trôi qua trong khi ở bên ngoài, phong trào cách mạng đang sôi sục.

1. Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.

Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi, nó là tín hệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.

Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:

Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.

Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cách diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không” Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.

3. Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.

Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.

Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau. Ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy.

4. Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.

Các bài thơ viết về nhà tù của Tố Hữu luôn luôn có sự đối lập sâu sắc giữa hai thế giới: một thế giới của tự do rộn rã tiếng chim ca, suối chảy, rộn rã tiếng kèn xung trận đối lập với thế giới chật hẹp, ngột ngạt của nhà tù. Sự đối lập đó càng lớn thì khát vọng tự do càng được biểu hiện mãnh liệt.

Bài thơ có hai đoạn thơ thể hiện hai hoàn cảnh, tâm trạng đối lập, do đó khi đọc cần chú ý giọng điệu rộn rã, tươi vui ở 6 câu thơ đầu và giọng điệu căm uất, nghẹn ngào ở 4 câu thơ còn lại.

Cảm Nhận Về Bài Thơ “Khi Con Tu Hú” (6)

Khi con tu hú của Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ – nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt.

Có những bài thơ để ta yêu. Có những bài thơ để ta nhớ. Bàicủa Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ – nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt.

Bài thơ này, Tố Hữu viết vào tháng 7-1939, khi nhà thơ bước sang tuổi 19, ở nhà lao Thừa Thiên, tư thế hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ gồm 10 câu lục bát, chứa đầy tâm trạng. Sáu câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ da diết đồng quê. Bốn câu cuối là niềm sục sôi căm hờn uất hận.

Thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), Tố Hữu được giác ngộ cách mạng, hoạt động bí mật trong học sinh, thanh niên tại thành phố Huế quê mẹ. Tháng 4-1939, nhà thơ bị mật thám Pháp bắt giam. Nhiều bài thơ tràn đầy dũng khí cách mạng được viết sau song sắt nhà tù đế quốc, sau này được tập hợp lại trong phần Xiềng xích của tập Từ ấy.

Sống trong cảnh lao tù ngột ngạt, người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng tâm hồn mình về cuộc sống bên ngoài song sắt nhà tù. Với tâm hồn khao khát tự do và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ lắng nghe mọi âm thanh từ xa vọng đến nơi tối tăm tù ngục.

Tiếng kêu của chim tu hú trên đồng quê nghe bồi hồi, tha thiết. Tiếng chim gọi bầy xa gần vang lên. Tiếng ve ngân lên từ những vườn cây trái đôi bờ sông Hương suốt đêm ngày nghe dắng dỏi. Tiếng sáo diều trên đồng quê gợi nhớ gợi thương một thời cắp sách với bao kỉ niệm đẹp:

Khi con tu hú gọi bầy

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.

Nhớ khúc nhạc đồng quê những âm thanh dân dã bình dị và thân quen ấy vô cùng, bởi lẽ trong cảnh tù đày nhà thơ khao khát một tình quê vơi đầy, nhớ khôn nguôi.

Chân tay bị cùm trói trong bốn bức tường xám lạnh và kín mít, người chiến sĩ vẫn nhìn thấy cảnh sắc quê hương bằng tất cả tấm lòng nhớ quê, yêu quê. Sự tưởng tượng thật phi thường. Trong tâm hồn Tố Hữu lúc bấy giờ, hình ảnh quê hương lần lượt hiện lên như một cuốn phim màu tuyệt đẹp.

Có màu vàng thẫm của lúa chiêm, màu đỏ của trái chín với vị ngọt say người:

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần

Có màu “vàng” của bắp, màu “đào” của nắng hạ:

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Có màu “xanh” của bầu trời trên đồng quê. Cánh đồng thì rộng, mây trời thì cao.

Các tính từ chỉ màu sắc, tính từ chỉ tính chất: “Xanh, vàng, đào, ngọt, rộng, cao”, được phối hợp hài hoà, gợi tả màu sắc và hương vị quê nhà. Những âm thanh nghe thấy, những hình ảnh tưởng tượng thể hiện một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, nỗi nhớ da diết triền miên suốt đêm ngày không bao giờ nguôi. Nỗi nhớ ấy đã phản ánh khát vọng tự do bùng lên như ngọn lửa cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trong đoạ đầy. Trong một bài thơ khác của phần Xiềng xích, Tố Hữu đã nói lên tâm trạng mình khao khát tự do, luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ánh sáng, hướng vẻ cuộc sống bên ngoài:

Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều,

Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh

Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh

Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về

Bài thơ Khi con tu hú thật đáng nhớ. Bốn câu thơ, đã bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ. Đầy bực bội và sục sôi! Đầy căm thù, uất hận:

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi

Ngột làm sao, chết uất thôi

“Phòng” là phòng giam, là nhà đá, là nơi biệt giam những người con ưu tú của dân tộc. Lòng căm thù được thể hiện bằng ước muốn và hành động quyết liệt: “Mà muốn đạp tan phòng hè ôi!”. “Phòng” ở đây còn tượng trưng cho chế độ thực dân với chính sách cai trị dã man đang đầy đoạ nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ.

“Đạp tan phòng…” là đạp tan chế độ thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do. Câu cảm thán: “Ngột làm sao! Chết uất thôi!“là tiếng than, là thái độ căm giận sục sôi, quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Câu thơ Tố Hữu là sự kế thừa những bài ca yêu nước của ông cha ta những năm đầu thế kỉ XX:

Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột

Vạch trời: kêu mà tuốt gươm ra

Khép lại bài thơ là tiếng kêu của chim tu hú. Âm thanh ấy góp phần đặc tả tâm trạng người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim gọi bầy… tiếng chim báo mùa gặt, gợi nhớ hương vị và cảnh sắc đồng quê. Tiếng chim khắc khoải giục giã căm hờn, nung nấu tinh thần bất khuất đấu tranh.

Có thể nói chất trữ tình tráng ca được diễn đạt một cách đặc sắc để nói tình yêu thuơng và lòng căm giận của nhà thơ trong cảnh tù đày. Cái hay của bài thơ là lấy ngoại cảnh để diễn đạt tâm trạng. Tiếng kêu của chim tu hú như một ám ảnh. Nói rằng bài thơ để ta nhớ là vì thế. Ta nhớ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có một đầu óc lạnh và một trái tim nóng đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.

Đọc bài thơ đầy tâm huyết của Tố Hữu, là cảm nhận một phần nào tinh thần gang thép của những chiến sĩ cách mạng. Sống vì tự do và sẵn sàng chết vì tự do. Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù đế quốc đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Uống nước nhớ nguồn, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn các chiến sĩ cách mạng.

Thật vậy, bài thơ Khi con tu hú gợi nhớ trong lòng ta:

Những hồn Trần Phú vô danh Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn

Phân Tích Khổ Thơ Đầu Của Bài Thơ “Khi Con Tu Hú”

Đề bài: Em hãy phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Khi con tu hú” và chỉ ra những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của khổ thơ.

I. Dàn ý bài viết

1. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ “Khi con tu hú”: Trong thời gian bị giam cầm tại nhà tù Thừa Phủ ở Huế, người chiến sĩ cộng sản Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ “Khi con tu hú” để bày tỏ nỗi lòng và khát khao được tự do của mình.

2. Thân bài

-Giới thiệu về khổ thơ đầu bài thơ:

+ Là một người chiến sĩ trẻ, mang trong mình lòng yêu cuộc sống, khát vọng tung hoành ngang dọc và đặc biệt là có tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên,

+ Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè trong sáu câu thơ đầu của bài thơ “Khi con tu hú”

-Phân tích dấu hiệu của mùa hè đang đến: Bắt nguồn từ tiếng chim tu hú, trong nhà tù tối tăm, chật hẹp, bỗng nghe được tiếng chim vọng từ không gian rộng lớn bên ngoài khiến cho tác giả như bừng tỉnh, nhận ra bên ngoài kia là mùa hè đang đến

-Phân tích những đặc trưng của mùa hè: Tiếng ve là âm thanh thân thuộc gắn liền với mùa hè mà thiếu nó thì không còn phải mùa hè nữa, tiếng ve râm ran trong vòm lá gợi về kí ức sân phơi đầy ngô thóc vàng ươm dưới cái nắng đào.

-Phân tích cảm nhận của nhà thơ: Đó là một hình ảnh thôn quê với cuộc sống thường nhật rất đỗi gần gũi mà nay tác giả chỉ có thể cảm nhận qua hồi tưởng kí ức của mình. Tất cả hòa quyện vào bầu trời trong xanh cao vút với tiếng sáo diều vi vu

– Phân tích nỗi lòng của nhà thơ: Hình ảnh con diều chính là biểu tượng của sự tự do, tung hoành ngang dọc giữa đất trời, và đó cũng chính là tiếng lòng khát khao tự do cháy bỏng của tác giả.

3. Kết bài

 Nêu ý nghĩa của khổ thơ đầu bài thơ “Khi con tu hú”: Khổ đầu của bài thơ “Khi con tu hú” quả là một bức tranh thiên nhiên mùa hè tuyệt đẹp, đồng thời nó cũng chứa đựng những tâm sự và nỗi lòng sâu lắng của nhà thơ.

II. Bài tham khảo

Trong thời gian bị giam cầm tại nhà tù Thừa Phủ ở Huế, người chiến sĩ cộng sản Tố Hữu đã sáng tác ra bài thơ “Khi con tu hú” để bày tỏ nỗi lòng và khát khao được tự do của mình. Dù trong cảnh lao tù nhưng từng câu chữ của bài thơ vẫn chứa đựng ngọn lửa hừng hực của lòng yêu nước, yêu cách mạng và khát vọng tuổi trẻ của người tù cộng sản Tố Hữu.

Là một người chiến sĩ trẻ, mang trong mình lòng yêu cuộc sống, khát vọng tung hoành ngang dọc và đặc biệt là có tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên, Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè trong sáu câu thơ đầu của bài thơ “Khi con tu hú”:

“Khi con tu hú gọi bầy…

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”

Bắt nguồn từ tiếng chim tu hú, trong nhà tù tối tăm, chật hẹp, bỗng nghe được tiếng chim vọng từ không gian rộng lớn bên ngoài khiến cho tác giả như bừng tỉnh, nhận ra bên ngoài kia là mùa hè đang đến:

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

Tiếng tu hú gọi bầy báo hiệu đất trời chuyển sang mùa hè, tác giả liền liên tưởng đến mùa của những cánh đồng lúa vụ chiêm đang chín vàng, mùa của hoa trái chín ngọt và đượm hương thơm. Thiên nhiên, đất trời và cảnh vật mùa hè được bắt nguồn từ đó, từ tiếng chim tu hú, rồi càng rõ nét hơn khi tác giả nhớ về tiếng ve:

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân…

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”

Tiếng ve là âm thanh thân thuộc gắn liền với mùa hè mà thiếu nó thì không còn phải mùa hè nữa, tiếng ve râm ran trong vòm lá gợi về kí ức sân phơi đầy ngô thóc vàng ươm dưới cái nắng đào. Đó là một hình ảnh thôn quê với cuộc sống thường nhật rất đỗi gần gũi mà nay tác giả chỉ có thể cảm nhận qua hồi tưởng kí ức của mình. Tất cả hòa quyện vào bầu trời trong xanh cao vút với tiếng sáo diều vi vu:

“Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo nhộn lào từng không”

Tuổi thơ của những đứa trẻ nông thôn chẳng ai là không gắn bó với con diều, tiếng sáo, từng chiều hè chạy thả diều trên những cánh đồng, nhìn những con diều tung bay trong gió, nhộn lào. Hình ảnh con diều chính là biểu tượng của sự tự do, tung hoành ngang dọc giữa đất trời, và đó cũng chính là tiếng lòng khát khao tự do cháy bỏng của tác giả.

Bằng tất cả niềm tin yêu vào cuộc sống và khát vọng tuổi trẻ của mình, người tù cộng sản Tố Hữu đã không ràng buộc mình vào chốn tù ngục mà thả tâm hồn ra ngoài với mùa hè sống động và tràn đầy sắc hương. Nhà thơ chắc hẳn phải là người yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời và yêu lí tưởng cách mạng mới có thể đạt đến những cảm nhận tinh tế và sâu sắc như vậy. Khổ đầu của bài thơ “Khi con tu hú” quả là một bức tranh thiên nhiên mùa hè tuyệt đẹp, đồng thời nó cũng chứa đựng những tâm sự và nỗi lòng sâu lắng của nhà thơ.

Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú

I. Giới thiệu tác giả * Chú thích (SGK – tr. 21) * Bổ sung – Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với con đường cách mạng. – Thơ của ông được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng. – Trong thơ Tố Hữu ta bắt gặp một tâm hồn nồng nhiệt của tuổi trẻ gặp lý tưởng cách mạng. – Khi bị tù đày: Thơ của ông vượt qua song sắt để cổ vũ cuộc đấu tranh, – Bài thơ: Khi con tu hú được sáng tác tháng 7/1939 tại nhà lao Thừa Phủ II. Đọc hiểu văn bản: * Nhan đề bài thơ – Tên bài thơ: Chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý. VD: Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng gian chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài. Tên bài thơ đã gợi mạch cảm xúc của bài thơ. Tiếng chim tu hú được gợi từ đầu bài thơ đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng, của trời cao lồng lộng tự do. Tiếng chim đã tác động mạnh đến tâm hồn người tù. * Thể thơ: – Bài thơ được viết theo thể lục bát. – Tiếng 6 của câu 6 hiệp vần với tiếng 6 của câu 8. 1. Sáu câu thơ đầu: Cảnh vào hè + Sáu câu thơ lục bát đã mở ra một thế giới rộn ràng tràn trề nhựa sống. – Hình ảnh: nắng đào lúa chín trái cây, hạt bắp, tiếng ve, bầu trời cao rộng, cánh diều chao lượn. Mùa hè rộn rã âm thanh rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vụ, bầu trời thoáng đạt tự do. Tiếng chim tu hú đã thức dậy tất cả. Đây là cảnh trong tâm tưởng người chiến sĩ trẻ trong cảnh thân thù. Từ tiếng chim tu hú tác giả đã huy động mọi giác quan để đón nhận mọi tín hiệu của sự sống bên ngoài. Đây là sự cảm nhận mãnh liệt tinh tế của mọt tâm hồn trẻ trung yêu đời nhưng đang mất tự do và khao khát tự do. 2. Bốn câu cuối: Tâm trạng của người tù + Tâm trạng đau khổ, uất ức ngột ngạt được nhà thơ biểu hiện trực tiếp. – Cách ngắt nhịp bất thường 6/2 (câu 8), 3/3 (câu 9). – Cách dùng từ ngữ mạnh.. đạp tan phòng, ngột, chết uất… – Từ ngữ cảm thán: ôi, thôi, làm sao… Tạo cảm giác ngột ngạt cao độ, niềm khao khát mãnh liệt muốn thoát khỏi tù ngục, trở về cuộc sống tự do. Tiếng chim tu hú mở đầu đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do. Tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ cách kết cấu đầu cuối tương ứng tạo hiệu quả nghệ thuật thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy. IV. Tổng kết: Bài thơ lục bát giản dị, giọng điệu tha thiết đã thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do cháy bỏng của nhà thơ. tham khảo Cũng là một tiếng chim, nhưng tiếng gọi bầy của con chim tu hú gợi lên sự tưởng tượng phong phú về bức tranh thiên nhiên rộng lớn và tinh tế. Từ thế giới vĩ mô đến thế giới vi mô, từ cánh đồng, bầu trời, khu vườn, vạt sân đến hạt bắp, trái cây. Còn nhớ những tiếng chim độc đáo trong thơ: – Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng). – Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm (Định Hải). – Tiếng chim nghe thánh thót Văng vẳng khắp cánh đồng (Trần Hữu Thung)… ở bài thơ này, chim tu hú gọi bầy thức dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao nhiêu hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hương vị của mùa hè. Sắc màu thật là rực rỡ và lộng lẫy: – Cánh đồng lúa chín ửng vàng – Vườn cây râm mát xanh – Nắng đỏ tươi – Ngô vàng – Trời xanh thăm thẳm Những âm thanh thật là náo nức, rạo rực. Tiếng chim tu hú lảnh lót trên nền nhạc rộn rã của những tiếng ve ngân. Trên cao xanh điệp vào đó là tiếng sáo diều réo rắt. Cùng với sự đầy ắp âm thanh, màu sắc là hương thơm. Hương của đồng lúa chín, hương của những trái cây ngọt ngào từ những khu vườn, hương từ những vạt ngô đang rây vàng hạt mẩy. Cảnh vật rất sống động, chúng như đang phát triển, đang cựa quậy một cách hết sức tự nhiên, mạnh mẽ. Tiếng ve “dậy”, nắng đào “đầy”, trời xanh bát ngát như căng ra – “càng rộng càng cao”. Đến cả những cánh diều vô tri vô giác cũng biến thành vật sống – con diều sáo – bay lượn thoải mái tự do trong bầu trời khoáng đãng. Tuy nhiên, đặc sắc của bức tranh không phải chỉ là chất liệu, mặc dù chúng làm nên vẻ đẹp bề bộn, rậm rạp của Huế lúc vào hè. Đặc sắc là bức tranh này được vẽ bằng sự tưởng tượng, vẽ trong tưởng tượng. Nó là mùa hè, nhưng mùa hè “dậy” lên qua tiếng chim lọt vào buồng giam, mùa hè “nghe” thấy “cảm” thấy trong tiếng chim tu hú và xa xa là tiếng ve, tiếng sáo diều. Thiên nhiên tự do phóng khoáng bên ngoài được dành cho nhiều dòng thơ. Trong khi đó cuộc sống mùa hè của người bị giam chỉ được viết trong một dòng thơ ngắn ngủi vỏn vẹn sáu tiếng: Ngột làm sao, chết uất thôi Sự tương phản không chỉ là cảnh vật mà thậm chí đến ngay cả cấu tứ và diễn đạt. Không cần nói nhiều về tình trạng đối lập bên trong và bên ngoài phòng giam, mà vẫn cứ ngồn ngộn sự đối lập. Bởi vì rằng cảnh vật tự nó gợi lên sự đối lập. Bên ngoài là thiên nhiên phóng khoáng, dịu mát, thơm hương tràn đầy sức sống. Thế mà, cũng là mùa hè, nhưng trong phòng giam là sự ngột ngạt – và chết uất. Thế giới tù tội và thế giới tự do vốn là đối lập, nhưng nếu như không đặt chúng cạnh nhau, không so sánh bởi cùng một thước đo thì sự đối lập và tương phản ấy sẽ không có được tính chất gay gắt mãnh liệt. Tiếng chim tu hú cứ như khoan vào trong phòng giam để cho thế giới bên ngoài tràn vào ào ạt. Mà như vậy càng khiến cho sự ngột ngạt càng trở nên ngột ngạt, sự khao khát càng thêm khao khát, sự bức bối càng thêm bức bối. Đến nỗi người trong tù phải kêu lên, phải khao khát hành động đập phá, tháo cũi, sổ lồng. Người tù muốn đập tan phòng để ôm lấy mùa hè tự do. Người tù cảm thấy không thể sống nổi cuộc sống tù tội. Trong khi đó tiếng chim tu hú vẫn cứ giục giã, giục giã… Ban đầu tiếng chim tu hú chỉ là tiếng chim hiền lành gọi bầy, nhưng đến đây nó thấm đầy tâm trạng cho nên thành tiếng kêu. Nó Kêu ở ngoài trời, nó Kêu ở nơi tự do, nó Kêu ở trong lòng người. Nó khắc khoải, giục giã, thiêu đốt. Bài thơ kết thúc ở tiếng chim cứ kêu cứ kêu… Người tù có đạp tan phòng giam, có bị chết vì ngột, vì uất ở trong đó hay không bài thơ không nói rõ. Nhưng người đọc thì rõ điều này: Người thanh niên 19 tuổi “gân đang săn và thớ thịt căng da” khao khát tự do, căm thù sự giam cầm trói buộc. Cuộc đấu tranh của anh cực kì quyết liệt: – Hoặc là phá tan tù ngục – giành tự do – Hoặc sẽ bị nhà tù tiêu diệt – chết ngột, chết uất. Chỉ có một cách lựa chọn duy nhất giữa hai khả năng đó. Con chim tu hú cứ kêu hay đó là tiếng đời, tiếng gọi do như thúc giục, như khích lệ đập tan cái xà lim nhốt người, và tiến tới đập tan cái chế độ dã man đang cầm tù cả một dân tộc, một đất nước.