Xuất Xứ Bài Thơ Đất Nước / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Bài Thơ Đất Nước: “Đất Nước Mình Không Phải Vậy Đâu Em!”

Bài thơ hay “Đất nước mình không phải vậy đâu em” được tác giả Kỳ Tâm cảm tác từ bài thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh” của cô giáo Trần Thị Lam.

Tiếng thở dài của lớp người ra trận

Chẳng phải ngàn năm thêm mãi ngàn lần

Sao em nỡ thấy gần rồi sâu hận Gây đau buồn để giận giữ đời sau Chắc là em không một vết thương đau Cũng đúng thôi em nuông chiều giàu có Đâu có biết trong gian nan cùng khó Để bây giờ ngực da đỏ hồng căng Em nghĩ suy cho thấu đáo công bằng Ai nằm xuống để bây giờ lăng mạ Nước Việt này là tất cả con tim Hàng triệu người ôm đất mẹ lặng im

Cũng vì để các em tìm độc lập

Cũng vì để không xích xiềng đánh đập Sống cuộc đời trong độc lập tự do Hòa bình rồi ta đứng giữa tàn tro Xây tổ quốc ấm no và giàu mạnh Xóa cho đời những nỗi niềm bất hạnh Đến bây giờ ta hãnh diện lắm thay Đổi mới từ từ đâu phải được ngay Ta phải mượn phải vay nhiều bè bạn Xây đất nước cho ngày thêm sáng lạng Em có nhìn thấy sáng phía hừng đông Tránh khỏi sao những món nợ chất chồng Nhưng đâu phải vay mà không trả được Chống tham nhũng cần có thêm biệt dược Em có ý gì xin được hiến dân Đừng viết thơ hay từ những câu vần Nhưng sáo rỗng rồi vân vân chấm phẩy Anh tin em không phải người như vậy Nếu quá lời xin được hãy cảm thông Lời sẻ chia người nếm trải xiềng gông

Xin được gửi nỗi lòng cho hậu duệ

Cảm tác từ bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh

Bạn đang mất phương hướng trong cuộc sống hay chưa thể tìm được hướng đi cho cuộc sống hoặc chưa đạt được mục tiêu mà mình mong muốn vậy hãy đến với chúng tôi chuyên cập nhật những câu nói tạo động lực trong cuộc sống, bài học thành công, câu chuyện thành công, những câu trích dẫn hay, quote tiếng anh hay, quote hay. Hãy đến với chúng tôi và chọn cho mình một danh ngôn sống làm kim chỉ nang cho mình

Cùng Nội Dung:

Liên Quan Khác

Soạn Bài Đất Nước Lớp 5

Soạn bài Đất nước lớp 5

A- KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM

Đây là đoạn trích trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác theo thể thơ tự do. Khi đọc, cần căn cứ vào ý nghĩa của từng dòng thơ, đoạn thơ đế có ngữ điệu đọc thích hợp. Âm điệu chung của đoạn trích phải biểu hiện được cảm nhận của tác giả trong sự đối sánh giữa hai mùa thu: mùa thu xưa ở Hà Nội lúc tác giả tạm biệt Hà Nội để lên đường đi kháng chiến và mùa thu nay, mùa thu ở Việt Bắc một vùng trời được giải phóng. Vì vậy phần đầu (2 khổ thơ đầu) giọng đọc trầm lắng, tha thiết gợi những kỉ niệm buồn. Phần sau (3 khổ thơ còn lại của văn bản) giọng đọc phải toát lên niềm phấn khởi, tự hào, sảng khoái đầy niềm tin và kiêu hãnh trước cảnh non sông bát ngát, tươi đẹp, khẳng định quyền làm chủ của một dân tộc.

B. TÌM HIỂU NỘI DUNG BÀI:

*Câu 1: Những ngày thu đẹp và buồn dược tả trong khố thơ nào?

-Trả lời: Những ngày thu đẹp và buồn được tả trong khố thơ thứ 2:

Sáng chởm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lả rơi đầy.

*Câu hỏi 2: Nêu một hình ảnh đẹp và vui về mùa thu mới trong khổ thơ thứ 3.

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

*Câu hỏi 3: Nêu một, hai câu thơ nói lên lòng tự hào về đất nước tự do, về truyền thống bất khuất của dân tộc trong khổ thơ thứ 4 và 5.

+ Lòng tự hào về đất nước tự do:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng dây là của chúng ta.

+ Về truyền thống bất khuất của dân tộc:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Tư Tưởng Đất Nước Của Nhân Dân Trong Bài Thơ Đất Nước Của Nguyễn Khoa Điềm

Mở bài 1: ” Đất nước” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca ” Mặt đường khát vọng” – 1974 đã có một khám phá thật mới mẻ và độc đáo về đất nước. Đó là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.

Mở bài 2: Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh ” Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên ” Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, ” Những người đi tới biển” của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi ” Tuổi trẻ không yên“, những tà ” áo trắng” đã ” xuống đường” trong ” Mặt đường khát vọng ” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản Trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã giành hẳn một chương (V) để nói về đất nước:

” Để đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”

1.Giới thiệu tác giả và tác phẩm.

2.1. Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã xâu chuỗi mọi cảm xúc, chi tiết, hình ảnh thơ)

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã thấm nhuần trong cả chương thơ về “Đất nước“.

Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian. Nghĩa là văn hóa của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hóa dân gian Việt Nam bền vững và độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hóa dân gian, mà chính là thấm nhuần quan niệm về đất nước của nhân dân, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả.

” Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể “

Bằng giọng tâm tình như lời kể chuyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tùy bút bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đây: Trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ xa xưa cho đến hiện tại tương lai); trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong việc gắn bó thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cùng nói về cả mấy phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ phương diện nào, thì quan niệm ” Đất nước của nhân dân ” cũng là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể. Chính nhờ đó mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen thuộc.

2.2.Tư tưởng Đất Nước của nhân dân hiện lên trong chiều dài thời gian lịch sử.

Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:

” Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong ” miếng trầu bà ăn“, trong ” cây tre đánh giặc“. Hay nói cách khác, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là “Đất nước của nhân dân”.

Vì vậy, khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại ” từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập ” ( Nguyễn Trãi);

” Nước Việt nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê

Thành nước Việt nhân dân trong mát suối “

Không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung:

” Hỡi Sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? Chưa đâu! Và ngay cả những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc, Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”

mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:

” Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra đất nước”

Những con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đát nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho mọi thế hệ nối tiếp nhau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”

2.3. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân hiện lên trong không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cộng đồng.

Cùng với ” thời gian đằng đẵng” là ” không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ ” Đất là nơi chim về. Nước là nơi rồng ở “- Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao!

Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân ” Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm ” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:

Đất nước là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Từ quan niệm ” Đất nước của nhân dân “, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người, mà trước hết là những con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”

rồi ” người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên“, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. ” Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điềm “. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:

” Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

2.4. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” hiện lên trong bề dày văn hóa

Đất nước ấy còn có một bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt nam. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hóa không được nói đến qua các danh nhân văn hóa như Nguyễn trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian để nêu lên truyền thông tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng ” Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại“. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thủy chung trong tình yêu: ” Yêu nhau từ thuở trong nôi“; ” Cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn“; Biết quý trọng tình nghĩa: ” Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội“. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: ” Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù không sợ dài lâu “. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp- những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.

Tóm lại “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về Đất nước của thơ ca chống Mỹ.

” Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời “

( Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh