Xuất Xứ Bài Thơ Chiều Tối / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối (Mộ)

1.1. Mở bài

– Giới thiệu một cách khái quát về tác giả Hồ Chí Minh

– Giới thiệu về tác phẩm: xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác bài thơ

1.2. Thân bài

– Đi sâu vào phân tích hoàn cảnh sáng tác

Trong lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, cả ngày đó là một ngày dài Bác phải đi bộ ở đường rừng núi với xiềng xích còng vào tay chân, đã đến tận tối muộn nhưng vẫn chưa được dừng chân.

Chiều tối – khoảng thời gian chuyển giao từ ngày sang đêm, lúc mà cảm xúc thường có nhiều rung động, đối với Bác một người con xa quê thì tâm trạng lúc này là một nỗi buồn man mác rất khó diễn tả.

– Nơi núi rừng khi trời chuyển tối

Đây là bức tranh đầy ấn tượng với bút pháp thơ ca chấm phá, thêm vào đó là phong vị của phong cách thơ thời Tống mang đầy nét cổ điển, có sự sáng tạo nghệ thuật mang nét riêng của Bác.

– Vẻ đẹp tâm hồn của người làm thơ

Bác xuất hiện rất giản dị, bình thường hòa mình vào với thiên nhiên cảnh vật xung quanh. Với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy, bao nhiêu cảm xúc, khát vọng lại ùa về. Bài thơ còn thể hiện ý chí của Bác – một con người phi thường.

Bác vẽ lên một bức tranh sinh hoạt đời thường, hình ảnh con người xuất hiện trở thành trung tâm của khung cảnh rừng núi vào chiều, thể hiện một cách rõ nét cuộc sống khổ cực của những con người lao động. Từ đó có thể thấy được tình nhân ái, yêu thương nhân loại của Bác.

– Sự vận động các hình tượng trong thơ

Nghệ thuật lặp lại điệp ngữ, làm cho nhịp điệu thơ uyển chuyển, tăng lên ý nghĩa bài thơ, đặc biệt phân tích rõ từ ‘’hồng” trong câu thơ cuối để thấy trong thơ có cảnh sắc, trong cảnh có tâm tư tình cảm của Người.

– Sau phân tích bài thơ Chiều tối và đánh giá và khái quát lại toàn bộ nội dung, ý nghĩa của bài thơ

1.3. Kết bài

Nêu lên cảm nhận khi phân tích bài thơ: về các giá trị nghệ thuật, nội dung và về tâm hồn của Bác – người chiến sĩ, người con xa quê qua bài thơ.

2. Phân tích bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh

2.1. Phân tích về tác giả Hồ Chí Minh

Vốn xuất thân trong  một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là người có kiến thức uyên thâm, sâu rộng, người ta thường gọi Hồ Chí Minh với cái tên vô cùng gần gũi đó là “Bác Hồ”.Ngay từ thuở  bé, tác giả Hồ Chí Minh đã rất am hiểu về văn học cũng như văn hóa của các nước phương Đông và phương Tây. Ban đầu khi còn nhỏ tác giả học chữ Hán, sau đó học chữ quốc ngữ và còn thông thạo rất nhiều thứ tiếng khác.

Là người có tinh thần yêu nước và tham gia hoạt động cách mạng hăng say: Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng Bác lên đường ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng thời gian sau đấy vào năm 1918 – 1922, Bác hoạt động cách mạng ở Pháp, tích cực viết sách, viết báo với mục đích tuyên truyền tinh thần đoàn kết các dân tộc thuộc địa và chống lại chủ nghĩa thực dân. Năm 1923 – 1941, Bác hoạt động cách mạng chủ yếu tại Trung Quốc, Liên Xô, Thái lan. Trong quá trình hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị giam giữ tại nhà ngục ở Trung Quốc vào năm 1942 – 1943. Chưa một lần bỏ cuộc, Bác kiên trì trên con đường đi tìm lý tưởng cách mạng chân chính của mình, và đến ngày 2- 9 -1945, bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta đã được Bác đọc dưới sự chứng kiến hân hoan, mừng rỡ của nhân dân cả nước.

Hồ Chí Minh vừa là nhà thơ, nhà văn và cũng là nhà cách mạng lớn của dân tộc, với vô vàn tác phẩm thơ văn đã trở thành di sản quý giá của dân tộc. Phần lớn các tác phẩm văn học của Bác được chia thành các mảng như truyện, kí, văn chính luận và thơ ca. Các tác phẩm đều có phong cách nghệ thuật riêng, mang đậm phong cách của Hồ Chí Minh, Bác luôn chú ý đến cảm xúc của người đọc, luôn có quan điểm rằng tác phẩm văn học phải thật sự chân thật, vì vậy Bác rất quan trọng đến lối biểu đạt, cách thể hiện, không viết quá xa lạ, nặng nề, cầu kì.

2.2. Phân tích bài thơ Chiều tối

– Hoàn cảnh ra đời

Đây là một bài thơ được trích ra từ tập “Nhật kí trong tù”, được Bác sáng tác trong khoảng thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Nguồn cảm hứng chính để Bác sáng tác ra bài thơ này chính là lúc chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

– Bài thơ “Chiều tối”

 Hai câu đầu thể hiện bức tranh thiên nhiên rừng núi bao la, hai câu thơ cuối thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu đất nước của Bác.

– Giá trị nội dung của bài thơ

Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên ý chí lạc quan trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt của người chiến sĩ – nhà thơ Hồ Chí Minh.

– Giá trị nghệ thuật của bài thơ

Bài thơ mang đậm nét đặc trưng của thơ cổ điển, nhưng có pha thêm phần hiện đại.

3. Văn mẫu phân tích bài thơ Chiều tối tham khảo

3.1 Bài văn mẫu phân tích “Chiều tối” số 1

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu, đối với mỗi người dân Việt Nam đây là cái tên được ghi tạc trong tim với lòng kính yêu và tôn trọng vô bờ bến. Trên con đường đi theo lý tưởng cách mạng, tìm lại tự do cho dân tộc, Người đã phải chịu không ít những khó khăn, gian khổ, rất nhiều lần đã bị bắt và bị tra tấn, đánh đập dã man. Tuy nhiên, ở con người ấy dù trong bất kì hoàn cảnh nào vẫn luôn hiện hữu một tinh thần lạc quan, yêu đời mà không gì có thể dập tắt nổi. Phân tích bài thơ Chiều tối một trong những tác phẩm nằm trong tập “Nhật kí trong tù”, được Người sáng tác khi bị bắt giam đã phần nào thể hiện lên tinh thần đáng quý đó. Bài thơ tập trung thể hiện hình ảnh con người lao động trong khung cảnh một buổi chiều tà, nhưng ở bài thơ đó người đọc lại bắt gặp được một tư tưởng lớn lao, khát vọng tự do, ước mơ có thể trở về quê hương yêu dấu để hoàn thành sứ mệnh cao cả của Người.

Bài thơ được Bác sáng tác khi bị giam tại Trung Quốc và trong ngày chuyển lao từ nhà tù Tĩnh Tây đến nhà tù Thiên Bảo. Trong mắt người tù binh chân tay đang mang nặng xiềng xích, khung cảnh buổi chiều được hiện lên như sau:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Buổi chiều là khoảng thời chuyển giao giữa ngày sang đêm, khi mà người ta muốn được đoàn tụ với gia đình, và đây cũng là khoảng thời gian khiến người ta cảm thấy vô cùng lạc lõng, cô đơn nếu như phải xa nhà. Những chú chim sau một ngày bay mỏi cánh kiếm ăn cũng đã bắt đầu trở về ngôi nhà của chúng. Trên bầu trời chỉ còn những chòm mây lẻ loi lững lờ trôi. Trong thời khắc đấy, giữa thiên nhiên hùng vĩ bao la, tất cả mọi thứ đều như đang dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn đang nhẹ nhàng trôi đi, điều này càng làm nổi bật lên một khung cảnh vô cùng yên lặng, êm cả nhưng lại buồn tẻ của rừng núi khi trời vào tối.

Bác cũng giống như chính chòm mây đó, vẫn đang lặng lẽ bước đi một cách đơn độc. Chòm mây một mình cô đơn giữa bầu trời bao la, Bác cũng cô đơn giữa một đất nước xa lạ. Tuy nhiên, Bác hẳn là người có một tình yêu đặc biệt với thiên nhiên, có một tâm thái bình tĩnh, ung dung, lạc quan, yêu đời mới có thể vượt qua khỏi sự xiềng xích của gông cùm để có thể hòa mình vào thiên nhiên và có một cái nhìn về thiên nhiên đặc biệt như thế. Dù thân xác mệt mỏi, đau đớn rã rời vì vất vả đi cả một ngày, nhưng Bác vẫn hướng mắt để nhìn những chú chim bay về tổ, những đám mây nhẹ nhàng trôi lúc chiều tà.

Tuy chỉ qua hai câu thơ ngắn gọn nhưng người đọc đã hoàn toàn có thể hình dung và tưởng tượng ra khung cảnh chiều tà nơi núi rừng bao la, mênh mông, vắng vẻ, âm u, quạnh hiu. Đồng thời  cũng làm cho người đọc thấy rõ được một niềm khát khao, mong ước vô cùng lớn lao muốn được tự do trở về quê nhà của Bác.

Trong cái khung cảnh thiên nhiên bao la, mênh mông, đượm nỗi buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi vắng vẻ ấy bỗng nhiên xuất hiện hình bóng của con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

Giữa bốn bề thiên nhiên buồn như trong thơ cổ ấy, hình ảnh cô sơn nữ xuất hiện như một điểm sáng, làm cho bức tranh ảm đạm bỗng trở nên vui tươi, sinh động hơn. Đó chính là nét cố điển hiện đại mà chỉ trong thơ của Hồ Chính Minh mới có. Bức tranh vừa vẽ lên con người, vừa thể hiện hoạt động khỏe khoắn của một con người lao động, trong đó cô thôn nữ đang miệt mài với công việc xay ngô, cô ngồi xay ngô bên lò than đang cháy hồng để chuẩn bị cho bữa tối.

Ở bản dịch thơ không thể đảm bảo được nghệ thuật mà Bác đã sử dụng trong bản tiếng Hán, Bác đã dùng nghệ thuật lặp từ, lặp lại hai lần từ “Bao túc” ở cuối câu thơ thứ ba và đầu câu thơ cuối, như chính những vòng xoay, như sự tuần hoàn của không gian, thời gian ám chỉ trời đang tối dần và tối dần.

Bức tranh đó hiện lên vừa ấm áp, vừa gần gũi từ hình ảnh của cô thôn nữ lao động khỏe khoắn và từ hình ảnh của ánh lửa hồng ánh ra từ bếp lò. Đó chính là một cảm xúc hạnh phúc đến bình dị, Bác đã gạt bỏ hết những mệt mỏi, đau đớn về thân xác để cảm nhận được cảm xúc đó.

Nhà văn Nam Cao đã từng nói rằng: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác.” Để thể hiện rằng, mỗi con người đều luôn lo lắng cho bản thân mình nhiều hơn là lo cho người khác. Thế nhưng ở đây, Bác – một con người với bao nỗi lo cho dân tộc, cho đất nước vậy mà Bác vẫn còn tâm trí để quan tâm đến những thứ bình dị, nhỏ nhặt xung quanh. Đó chính là nhân cách cao đẹp, đức tính vô cùng đáng quý của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.

Khi phân tích bài thơ Chiều tối chúng ta sẽ thấy rằng đây là một bài thơ tiêu biểu của Hồ Chí Minh thể hiện một nét đẹp vừa cổ điển vừa mang nét hiện đại. Bài thơ không chỉ đơn giản là vẽ lên bức tranh thiên nhiên cũng như con người nơi xóm núi vào lúc chiều tà, mà còn ẩn sâu trong đó tâm tư tình cảm của Bác, niềm khát khao tự do và mong ước được trở về quê hương đất nước, sum họp với gia đình. Đồng thời người đọc cũng có thể nhận thấy được, ở Người luôn mang một vẻ đẹp lớn lao của tinh thần nồng nàn yêu nước, một trái tim ấm áp, giàu lòng yêu thương, dù ở bất kì hoàn cảnh gian khổ khó khăn nào vẫn luôn quan tâm đến mọi thứ xung quanh.

Tóm tắt: Đọc bài phân tích bài thơ Chiều tối chúng ta sẽ thấy rõ tâm hồn của Bác, cho người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người vượt qua một hoàn cảnh khó khăn gian khổ.

3.2 Bài văn mẫu số 2 phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ “Chiều tối” 

“Đi khắp đèo cao khắp núi cao

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao

Núi cao gặp hổ mà vô sự

Đường phẳng gặp người bị tống lao”

(Đường khó khăn)

Hồ Chí Minh đã viết những câu thơ này khi bị bắt giam tại nhà lao Tưởng Giới Thạch, trong thời gian đó, Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” ghi lại những gian khổ, khó khăn mà mình đã trải qua. Nhưng dù có khó khăn, đày đọa, ở người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn ngời sáng một niềm tin và ý chí cách kiên cường. Tinh thần thép này được thể hiện ở rất nhiều tác phẩm trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến là “Chiều tối”. Đọc bài thơ, ta thấy được nét hiện đại và cổ điển cùng với vẻ đẹp tâm hồn của vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) là bài thơ thứ 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” gồm 134 bài thơ. Bài thơ được sáng tác trên đường bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây tới nhà lao Thiên Bảo, trong một buổi chiều tối tại một vùng rừng núi bao quanh. Trong thơ vừa có nét cổ điển mà ta vẫn thường bắt gặp trong thơ Đường, cũng vừa có nét hiện đại của người chiến sĩ cách mạng.

Trước tiên nét cổ điển của bài thơ được thể hiện qua hai câu thơ đầu:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cảnh chiều tối vốn là một cảnh quen thuộc trong thơ cổ, nhiều nhà thơ đã chọn khung cảnh buổi chiều tối, khi ánh mặt trời vừa tắt để thể hiện tâm trạng buồn man mác của mình. Trong bài thơ “Cảnh ngày hè”, buổi chiều tối với Nguyễn Trãi là ánh dương còn sót lại trên “lầu tịch dương”: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, Lý Bạch xưa cũng từng lấy hình ảnh cánh chim và chòm mây để vẽ lên bức tranh chiều tối:

“Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn”

(Chim bầy vút bay hết

Mây lẻ đi một mình)

(Độc tọa kính Đình Sơn_Lý Bạch)

Hay trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta cũng nhiều lần bắt gặp bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà nơi đèo núi “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà lảng bảng bóng hoàng hôn”. Hay trong “Tràng Giang”, Huy Cận cũng dùng hình ảnh cánh chim nghiêng để diễn tả khoảnh khắc ngày tàn: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”.

Nếu như trong thơ cổ, cảnh chiều thường gợi một cảm giác buồn mênh mông, vô định thì trong thơ Bác, cánh chim và chòm mây dường như thể hiện rất rõ tâm trạng của con người gửi gắm trong đó. Cánh chim “mỏi” hay chính người tù đang cảm thấy mỏi mệt sau một ngày dài bị đày lao, đi những chặng đường dài. Hành trình tìm một nơi chốn nghỉ ngơi sau một ngày dài kiếm ăn vất vả phải chăng chính là niềm mong mỏi của Bác có một chốn nghỉ chân khi buổi chiều đã dần buông xuống.

Hồ Chí Minh dường như thấy được chuyển động bên trong của cảnh vật, từ “cánh chim mỏi” đến chòm mây “lẻ loi”. Bút pháp cổ điển chấm phá, hình ảnh ước lệ tượng trưng là hình ảnh ta vẫn thường bắt gặp trong thơ cổ, nay đã được thể hiện rất xuất sắc trong thơ Bác. Qua đó, ta thấy được bức tranh thiên nhiên núi rừng rộng lớn, thoáng đãng, đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên của Bác, dù cho có mỏi mệt nhưng tầm mắt vẫn hướng lên trời cao với một tư thế hiên ngang để cảm nhận sức sống của từng cảnh vật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, Hồ Chí Minh bằng bút pháp cổ điển đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tối, đồng thời phần nào thể hiện tâm trạng của người tù cách mạng thì ở hai câu thơ cuối bằng nét vẽ hiện đại, nhà thơ đã tập trung làm nổi bật bức tranh cuộc sống con người mà trung tâm của bức tranh ấy chính là vẻ đẹp của người lao động bình dị:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Bức tranh thiên nhiên đã không còn vẻ buồn, u tối, lạnh lẽo mà trở nên sinh động hơn, có sức sống hơn, ấm áp hơn. Bức tranh cảnh vật đã nhường chỗ cho bức tranh cuộc sống con người, thời gian đã có sự chuyển biến từ chiều sang tối mặc dù trong câu thơ không hề có một chữ “tối” nào được nhắc đến.

Hai câu thơ là vẻ đẹp hiện đại của bức tranh sinh hoạt bình dị, trung tâm bức tranh là cô em gái xóm núi đang thực hiện công việc hàng ngày là “xay ngô tối”, công việc vất vả, nặng nhọc nhưng ta lại cảm nhận được niềm vui, sự hăng say của người lao động khi thực hiện công việc đó.

Hình ảnh “lò than đã rực hồng” đã thể hiện sự vận động của thời gian, từ tối chuyển sang đêm. Chữ “hồng” ở cuối bài chính là nhãn tự của bài thơ, vừa gợi lên sự ấm áp, vừa gợi một nét tươi sáng, ở thời điểm sáng tác bài thơ, ta có thể xem như đây là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng hay chính là thắng lợi của cách mạng.

Trong nhiều bài thơ khác, Bác cũng từng nhắc về chữ ‘hồng”, điều này thể hiện một tinh thần lạc quan, luôn hướng về ánh sáng:

“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”

(Tảo giải)

hay:

“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc

Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài

Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”

Thành công của Bác chính là việc kết hợp hài hòa chất cổ điển và nét hiện đại trữ tình, giữa tâm hồn thơ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và tâm hồn của một người lính cách mạng kiên cường, lạc quan, luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Tác phẩm “Chiều tối” đã thể hiện rất rõ tài hoa của Người cũng như tâm hồn đẹp, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chính vì nét đẹp sáng ngời trong tâm hồn Bác mà Tố Hữu đã từng viết:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông trọn kiếp người”

Những vần thơ của Bác sẽ vẫn sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam thế hệ bây giờ và cho mãi về sau.

Chiều Tối ( Hồ Chí Minh )

Tìm hiểu chung– Hồ Chí Minh (1890 – 1969), là búp sen xanh của làng Kim Liên – Nam Đàn – Nghê An – Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo cha là ông nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan – Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã thông minh và lớn lên đã được tiếp thu tư tưởng làm cách mạng – Sinh ra trong một thời đại đất nước làm nô lệ, Hồ Chí Minh đã đi theo con đường cứu nước và trở thành một vị lãnh tụ đầu tiên của nước Việt Nam ta. – Bác không chủ tâm làm thơ văn nhưng vì để phục vụ cho cách mạng và yêu thơ văn cho nên Bác đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị

2.Tác phẩm: – Bài thơ được viết trong lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Bài thơ là một bức tranh xinh xắn về miền sơn cước đồng thời toát lên ở đó vẻ đẹp của một con người cách mạng với tinh thần lạc quan vượt qua mọi gian khổ của cuộc chuyển lao, vẫn ung dung ngắm cảnh. Bài thơ không nói chuyện thép, không lên giọng thép nhưng vẫn lấp lánh chất thép – Vị trí xuất xứ: nằm trong tập thơ Nhật Kí Trong tù của Hồ Chí Minh

Hai câu thơ cuối– Cảnh: * “sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” + trong thơ cổ dưới áng chim chiều mây nổi thì xuất hiện con người đó là những đạo sĩ, ẩn sĩ lánh đời + Trong thơ lãng mạn: xuất hiện những con người là mỹ nhân tuyệt đẹp + Trong thơ bác lại chính là người lao động * Hoạt động gắn liền với cô gái ấy chính là hoạt động say ngô tối, cái chữ tối bộc lộ sự chăm chỉ cần mẫn của con người. đây là một hình ảnh tuyêt đẹp về cuộc đời người thiếu nữ vất vả đáng quý đáng yêu * Điệp vòng “ma bao túc” cho thấy công việc diễn ra thường xuyên hàng ngày * Từ “hồng” như làm sáng cả bài thơ, nhãn tự của bài thơ, có tác dụng mang lại tươi sáng niềm ước vọng cho ngày mai – Tình: * Nhà thơ phải là người yêu cuộc sống lắm mới có thể làm cảm nhận được cái đẹp trong công việc lao động thường ngày * Không những thế còn phải có một trái tim nhân hậu và một sự lạc quan tin vào tương lai tươi sáng hơn

III. Tổng kết Nhà thơ Hồ Chí Minh đã mang đến cho chúng ta một bức tranh miền sơn cước khi về tối. Cảnh tượng thiên nhiên hiện lên bàng bạc ánh chiều, sự vật hiện tượng đang chuyển từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh. Nhưng riêng có Người và cô gái xay ngô tối kia vẫn đang hoạt động. đó là một tinh thần lạc quan đáng khen ở Người

Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.

Bài làm 1 Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ “Chiều tối” nằm trong tập thơ “Nhật kí trong tù” đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.

Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng : “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”

Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.

Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rùng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.

Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

“Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết, lò than đã rực hồng.”

Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cố điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó. Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ “bao túc” ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần. Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.

Nhà văn Nam Cao đã viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được.”, để nói rằng, con người ta thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ – một người lúc nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước – vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.

Bài làm 2 Hồ Chí Minh được nhân loại biết đến không chỉ là một vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc VN mà còn được biết đến như một nhà văn, nhà thơ lớn của tk XX. Trong đó nổi bật nhất là tập thơ Nhật ký trong tù, một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ Chiều tối là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập Nhật ký trong tù:

Tháng 8/1942, Bác Hồ sang TQ để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế về CMVN. Sau mười lăm ngày đi bộ, khi vừa tới Túc Vinh, tỉnh QTây, Người bị chính quyền TGT bắt giam vô cớ và bị “mười bốn trăng tê tái gông cùm” trong gần ba mươi nhà lao của tỉnh QT. Trong thời gian này Người đã sáng tác tập thơ Nhật ký trong tù gồm 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ “Mộ” được xem là áng thơ tuyệt bút, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu hoạ về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm “chiều tối”.

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”

Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả “luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày”. Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” (BHTQ). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài thơ Độc tọa Kính Đình san cũng đã từng viết: “Chúng điểu cao phi tận/Cô vân độc khứ nhàn”(Chim trời bay đi mất/ Mây lẻ trôi một mình)

Điều mới mẻ ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của HCM. Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật . Đúng như Tố Hữu đã từng viết “Bác ơi tim Bác mênh thống thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”. Qua đó ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày”.

Cùng với “Quyện điểu quy lâm”, là “Cô vân mạn mạn”. Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy “mạn mạn”. Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời. Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng của người tù trên đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển. Mặc dù câu thơ dịch: “Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó. Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại , bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình. Đó chính là TINH THẦN THÉP vĩ đại của người tù – thi sĩ HCM.

Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Th.s Nguyễn Đức Hùng nhận xét rằng “Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” là bài thơ của thời Thịnh Đường”

Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ dẹp của con người lao động: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,/Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng “

Sinh thời HCM chỉ có một ao ước lớn:”Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Nghĩa là ao ước của Người luôn hướng về nhân dân, nhân dân ở đây không chỉ hiểu là dân tộc Việt Nam ta mà còn là nhân dân cần lao trên thế giới. Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả của Quốc tế cộng sản. Câu thơ nguyên bản”Sơn thôn thiếu nữ” dịch là “Cô em xóm núi” đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch. Người phụ nữ đã nhiều lần có mặt trong thơ chữ Hán, nhưng phần lớn họ đều thuộc giới thượng lưu hoặc chí ít cũng gần gũi với giới thượng lưu. Phần lớn người phụ nữ trong cổ thi đều mang nỗi buồn thương man mác vì chiến tranh sinh ly tử biệt hay lỡ dỡ tình duyên, Vương Xương Linh đời Đường từng viết Khuê oán: “Cô gái phòng the chửa biết sầuNgày xuân trang điểm dạo lên lầuĐầu đường chợt thấy tơ xanh liễuHối để chồng đi kiếm tước hầu. “

Cái mới ở đây là cũng viết về hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ “thiếu nữ” gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lao động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa. Có lẽ cũng chính vì vậy mà có một nhà phê bình nào đó từng nhận xét rằng “Không rõ trước Hồ Chí Minh đã có một “sơn thôn thiếu nữ” thực sự là người lao động bước vào thế giới của nàng thơ hay chưa? Chỉ biết rằng việc đặt hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ”ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động”.

Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối. Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) “ma bao túc – bao túc ma hoàn” đã cho ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Đó cũng là lúc mà cô gái kia được quây quần bên mâm cơm ấm cúng của gia đình.

Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được xem là nhãn tự là con mắt thần. Nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ đường người ta gọi là “con mắt thơ” (Thi nhãn hoặc là nhãn tự (chữ mắt nó sáng bùng lên, nó căn lại, chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dẫn đầu nặng đến mấy đi chăng nữa. Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác.

Như vậy chữ “hồng” rất xứng đáng là “ông thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Về nét nghĩa khác, chữ “hồng” còn là biểu hiện của cuộc vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, luôn hướng về ánh sáng. Trong bài thơ Tảo giải, chữ Hồng ấy cũng đã từng xuất hiện: “Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng/Bóng tối đêm tàn sớm sạch không “

Chữ hồng ấy với chữ hồng trong Chiều tối có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang. “Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,/Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;/Trong ngục giờ đây còn tối mịt,/Ánh hồng trước mặt đã bừng soi. “(Trích nhật ký trong tù)

Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày vè thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút. Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Xin được mượn bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu thay cho lời kết: “Lại thương nỗi đọa đày thân Bác/Mười bốn trăng tê tái gông cùm/Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc/Mà thơ bay cánh hạc ung dung“

10 Kết Bài Chiều Tối Của Hồ Chí Minh

Để viết tốt Kết bài chiều tối của Hồ Chí Minh, mời bạn xem 10 kết bài cực hay sau đây

Kết bài 2.

“Chiều tối” – một bài thơ đáng yêu: màu sắc cổ điển hàm súc kết hợp với tính chất trẻ trung, hiện đại, bình dị. Tứ thơ vận động từ cảnh đến tình, từ trong bóng tối đến sự sống, đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ linh tế, thể hiện một hồn thơ “bát ngát tình”. Bài thơ thấm đượm một tình yêu mênh mông đối với tạo vật và con người. Trong đoạ đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn dào dạt sự sống.

Kết bài 3.

Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.

Kết bài 4.

Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ và tinh thần thép của người tù cách mạng. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày vè thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút. Qua bài thơ ta càng hiểu, càng yêu hơn lãnh tụ Hồ Chí Minh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Kết bài 5.

Nếu trong văn chính luận, văn phong Bác sắc sảo, chắc chắn, giàu sức thuyết phục với những lý lẽ chính xác, khách quan thì trong thơ Bác lay động lòng người bởi sự bình dị mà sâu sắc. Sự kết hợp vô cùng nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cổ điển và nét hiện đại giúp thơ Bác mang một phong cách riêng, độc đáo, tài hoa. Đọc bài thơ “Chiều tối”, em càng thêm khâm phục Bác, càng trân quý tự do và hoà bình hôm nay. Và tự hứa với lòng, dù trong khó khăn thử thách của cuộc sống vẫn không nản chí, giữ vững tinh thần lạc quan và niềm tin tất thắng ngày ngày phấn đấu nỗ lực hơn để xứng đáng là thế hệ trẻ bản lĩnh, tài năng như cách sống của Người.

Kết bài 6.

Bài thơ vừa mang phong vị cổ điển vừa có phẩm chất hiện đại, dào dạt cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên và những con người lao động bình dị mà cao đẹp. Cảnh chiều tà vùng sơn cước trong cái nhìn của người tù trên đường lưu đày sự chuyển đổi của thời gian, cảnh vật…. đã làm cho bức tranh “chiều tối”không kết thúc với bóng đêm u tối, với cái buốt lạnh của núi rừng mà ấm sáng bởi ngọn lửa hồng – ngọn lửa của một trái tim, một tấm lòng yêu sự sống, yêu đời, yêu đất nước và lòng thương người vô hạn.

Kết bài 7.

Bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh là bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển vừa mang màu sắc hiện đại đã mang đến dấu ấn riêng, đặc trưng. Bài thơ chính là tâm sự, là ước muốn nhỏ nhoi có thể thoát khỏi chốn gông cùm, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Kết bài 8.

Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.

Kết bài 9.

Chiều tối đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người nơi núi rừng hoang dã. Đằng sau bức tranh ấy là vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh: luôn mang trong mình tinh thần lạc quan, tin tưởng dù gặp khó khăn vẫn luôn tin rằng ánh sáng đang đợi dân tộc, đất nước nơi cuối con đường.

Kết bài 10.

Qua bài thơ Chiều tối, từ bức tranh thiên nhiên, từ bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người, ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh. Đó là một tâm hồn luôn luôn hướng về sự sống và ánh sáng dù trong bất cứ tình huống nào, chủ nghĩa lạc quan luôn luôn gắn liền với lòng nhân ái và tình yêu thiên nhiên tha thiết của người chiến sĩ đồng thời cũng là một thi sĩ xuất sắc. Về nghệ thuật, bút pháp gợi tả thiên nhiên tinh tế và giản dị, kết hợp với bút pháp tả cảnh ngụ tình, có sự kết hợp rất nhuần nhuyễn giữa tính cổ điển và hiện đại trong từng vần thơ, từng hình ảnh thơ, tất cả đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc mang dấu ấn đậm nét của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.