Xuất Xứ Bài Thơ Cảnh Ngày Hè / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Bài Thơ Cảnh Ngày Hè (Nguyễn Trãi)

Nội Dung

Rồi hóng mát thuở ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tịn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976

Nguyễn Trãi là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn hóa Việt Nam, là một trong những danh nhân văn hoá thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị lớn. Bài thơ Cảnh ngày hè là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.

Bài thơ Cảnh ngày hè được chia thành 2 phần:

Phần 1 gồm 6 câu thơ đầu: Bức tranh cảnh ngày hè

Phần 2 gồm 2 câu thơ còn lại: Tấm lòng và mong ước của nhà thơ.

Mở đầu, bài thơ Cảnh Ngày Hè là sự xuất hiện những hình ảnh về thiên nhiên vô cùng rực rỡ.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Câu thơ đầu mở đầu với từ “rồi”, phải chăng đây chính là sự diễn tả tâm trạng bất đắc dĩ của nha thơ Nguyễn Trãi. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn sáu từ nhưng miêu tả khó rõ nét về thời gian, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ. Điều này thể hiện tài năng, lối phá cách trong thơ Nguyễn Trãi đầy sáng tạo. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở.

Bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, nổi bật với hình ảnh một con người ngồi đó vô cũng thảnh thơi và tao nhã. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hoà mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.

Tiếp 3 câu thơ sau là sự miêu tả một bức tranh thiên nhiên vô cùng sống động và đầy màu sắc. Đó là màu xanh của cây hoè, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả những hương vị ấy tạo thành một bức tranh cảnh vật đặc trưng của mùa hè.

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Nhà thơ sử dụng tính từ “đùn đùn” “kết hợp với động từ mạnh “giương” vô cùng thành công trong việc diễn tả sự sum xuê, nảy nở của cây hoa hòe, làm cho bức tranh thiên nhiên thêm hút mắt hơn. Bức tranh thiên nhiên ngày hè không những được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác mà còn có sự cảm nhận của thính giác và khứu giác. Với cách sử dụng nhịp thơ 3/4 kết hợp với động từ mạnh” phun “làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, khó chịu vô cùng mát dịu và tinh tế. Khung cảnh thiên nhiên được nhà thơ miêu tả vào thời gian cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống.

“Lao xao chợ cá làng ngư Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Hai câu thơ tiếp sử dụng từ láy “lao xao” và “dắng dỏi” kết hợp với nhau tạo nên những âm thanh của làng chài quen thuộc. Hai câu thơ cho ta thấy rằng nhà thơ cảm nhận cuộc sống, cảnh vật thiên nhiên với một tâm hồn vô cùng rộng mở của một con người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại. Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết.

“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

Hai câu cuối của bài thơ được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ của mình, qua đó giúp người đọc hiểu hơn về vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Ngyễn Trãi.

Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ.

Bài Thơ Cảnh Ngày Hè (Nguyễn Trãi) – Bức Tranh Ngày Hè Rực Rỡ

Nội Dung

Rồi hóng mát thuở ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp trương. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tịn mùi hương. Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976

Nguyễn Trãi là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn hóa Việt Nam, là một trong những danh nhân văn hoá thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị lớn. Bài thơ Cảnh ngày hè là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.

Bài thơ Cảnh ngày hè của tác giả Nguyễn Trãi, là bài thơ số 43 nằm trong số 61 bài thơ của mục Bảo kính cảnh giới (thuộc phần Vô đề của tập thơ Quốc âm thi tập).

Bài thơ Cảnh ngày hè được chia thành 2 phần:

Phần 1 gồm 6 câu thơ đầu: Bức tranh cảnh ngày hè

Phần 2 gồm 2 câu thơ còn lại: Tấm lòng và mong ước của nhà thơ.

Mở đầu, bài thơ Cảnh Ngày Hè là sự xuất hiện những hình ảnh về thiên nhiên vô cùng rực rỡ.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Câu thơ đầu mở đầu với từ “rồi”, phải chăng đây chính là sự diễn tả tâm trạng bất đắc dĩ của nha thơ Nguyễn Trãi. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn sáu từ nhưng miêu tả khó rõ nét về thời gian, hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ. Điều này thể hiện tài năng, lối phá cách trong thơ Nguyễn Trãi đầy sáng tạo. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở.

Bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, nổi bật với hình ảnh một con người ngồi đó vô cũng thảnh thơi và tao nhã. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hoà mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.

Tiếp 3 câu thơ sau là sự miêu tả một bức tranh thiên nhiên vô cùng sống động và đầy màu sắc. Đó là màu xanh của cây hoè, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả những hương vị ấy tạo thành một bức tranh cảnh vật đặc trưng của mùa hè.

“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Nhà thơ sử dụng tính từ “đùn đùn” “kết hợp với động từ mạnh “giương” vô cùng thành công trong việc diễn tả sự sum xuê, nảy nở của cây hoa hòe, làm cho bức tranh thiên nhiên thêm hút mắt hơn. Bức tranh thiên nhiên ngày hè không những được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác mà còn có sự cảm nhận của thính giác và khứu giác. Với cách sử dụng nhịp thơ 3/4 kết hợp với động từ mạnh” phun “làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, khó chịu vô cùng mát dịu và tinh tế. Khung cảnh thiên nhiên được nhà thơ miêu tả vào thời gian cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống.

“Lao xao chợ cá làng ngư Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Hai câu thơ tiếp sử dụng từ láy “lao xao” và “dắng dỏi” kết hợp với nhau tạo nên những âm thanh của làng chài quen thuộc. Hai câu thơ cho ta thấy rằng nhà thơ cảm nhận cuộc sống, cảnh vật thiên nhiên với một tâm hồn vô cùng rộng mở của một con người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại. Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết.

“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

Hai câu cuối của bài thơ được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ của mình, qua đó giúp người đọc hiểu hơn về vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ Ngyễn Trãi.

Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ.

Phân Tích Bức Tranh Mùa Hè Trong Bài Thơ “Cảnh Ngày Hè”

Đề bài: Phân tích bức tranh mùa hè từ đó diễn tả nỗi lòng của nhà thơ Nguyễn Trãi trong bài thơ “Cảnh ngày hè” của ông.

Nguyễn Trãi không chỉ là một anh hùng dân tộc mà còn là một nhà thơ, một nhà văn kiệt xuất. Thơ của ông chan chứa tình yêu thiên nhiên, tình yêu giữa con người với con người. Và hơn cả, thơ của ông thấm nhuần lý tưởng yêu nước thương dân.

Nghị luận “Bình Ngô Đại Cáo” một tác phẩm của Nguyễn Trãi

Những ngày tháng ông cáo quan về ở ẩn, ông đã sáng tác được rất nhiều bài thơ. Và mỗi bài thơ lại mang những tâm trạng, nỗi niềm sâu thẳm khác nhau của ông. Bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh mùa hè nơi niềm quê, đồng thời là nỗi lòng của ông được giãi bày.

Cuộc sống của vị quan ở ẩn thật thanh bình, yên ả, không hề có sự xô bồ mà rất nhẹ nhõm. Ông đã mở đầu một cách ung dung, thong thả:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Câu thơ có nhịp chậm rãi, diễn tả bước chân ung dung, thong thả của ông khi dạo mát trước hiên nhà. Đồng thời câu thơ cũng gợi lên phong thái và cuộc sống bình dị của Nguyễn Trãi nơi vùng quê thanh bình. Rời xa chốn quan trường với nhiều lo âu, bất công, ông lựa chọn cho mình con đường riêng để gần gũi và chan hòa với thiên nhiên.

Tuy câu thơ không vướng bận lo âu nhưng chắc hẳn người đọc vẫn thấy được tâm sự của tác giả. Không bận việc nước, việc quân nhưng vẫn còn nhiều những tâm sự cần được giãi bày. Thân nhàn nhưng tâm không nhàn.

Ba câu thơ tiếp theo gợi đến cho ta thấy một bức tranh mùa hè đầy màu sắc:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cảnh vật thiên nhiên như đan cài vào nhau tạo nên đường nét và sức sống của mùa hè. Màu xanh um của những tán lá hè, màu đỏ rực của hoa lựu và màu hồng của hoa sen đều là những gam màu nóng hình thành một bức họa đồng quê rực rỡ. Nguyễn Trãi đã cho người đọc nhận ra một khu vườn tràn trề sức sống. Chắc hẳn ai cũng thích một cuộc sống thanh thản, trầm tĩnh như thế này.

Làm sáng tỏ nhận định Nguyễn Du là “một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”

Đằng sau bức tranh mùa hè ngập tràn màu sắc đó, người đọc có thể thấy được một tâm hồn rất đỗi thi nhân của Nguyễn Trãi:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Với biện pháp đảo ngữ, Nguyễn Trãi đã đảo từ láy “lao xao” lên đầu câu thơ. Cách sử dụng biện pháp đó đã khiến ta cảm nhận được rõ sự ồn ào, đông đúc của chợ cá, làng chài – nơi khung cảnh chợ làng quê ông đang sống, khác hẳn với phiên chợ chiều của Huy Cận. Nếu âm thanh của chợ cá là đến từ cuộc sống đời thường bình dị thì tiếng ve là thanh âm của thiên nhiên, đặc trưng cho mùa hè.

Từ “cầm ve” ẩn dụ gợi âm thanh “lao xao chợ cá”, “dắng dỏi cầm ve” làm nổi bật không khí sôi động, nhộn nhịp của chiều hàng nơi làng quê. Tất cả những âm thanh đầy bình dị ấy được nhà thơ lắng nghe với tấm lòng trìu mến. Ông đã cảm nhận bức tranh ngày hè với nhiều giác quan, đó là: khứu giác, xúc giác, thính giác và cả vị giác bằng sự liên tưởng, tâm hồn tinh tế của mình.

Hai câu cuối của bài thơ chính là nguyện vọng, là ý tưởng mà Nguyễn Trãi ấp ủ và mong ngóng:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Nhà thơ đã sử dụng điển cố “Ngu cầm” – cây đàn của vua Ngu Thuấn – vị vua minh quân thời cổ Trung Quốc. Từ “Dẽ có” nghĩa là lẽ ra nên có thể hiện ước nguyện của nhà thơ. “Dân giàu đủ khắp đòi phương” – câu lục ngôn ngắn gọn dồn nén cảm xúc của cả bài. Tác giả không những mong cho dân giàu đủ, ấm no, hạnh phúc mà còn phải là ở khắp mọi nơi.

Mong muốn đó được thể hiện rất rõ qua cụm từ “khắp đòi phương”. Hai câu thơ đã phần nào giúp tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi – một con người yêu nước thương dân.

Có thể thấy Nguyễn Trãi đã vượt lên chính mình tìm thấy ở thiên nhiên một nguồn thi hứng, nguồn động viên, khích lệ để quên đi những ngày trường đằng đẵng. Song, dẫu hòa hợp với thiên nhiên nhưng ông vẫn không nguôi nỗi niềm thương dân.

Vẫn đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng chẳng thế mà vua Lê Thánh Tông từng ca ngợi “Ức trai tâm thương, quang khuê Tảo” – nghĩa là: Tấm lòng ức trai sáng như sao khuê trên trời.

Như vậy, bài thơ cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Đồng thời bài thơ cũng để lại cho người đọc những ấn tượng sâu lắng về cuộc sống, tâm tư đáng trân trọng của ông.