Xem Truyện Cổ Tích Dân Gian / Top 8 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Truyện Cổ Tích Trong Văn Học Dân Gian

Trước cách mạng Tháng Tám, ở nước ta, tên gọi cổ tích, hay truyện cổ, hay truyện đời xưa được sử dụng để gọi chung cho các thể loại truyện kể dân gian, bao gồm thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn và truyện cười. Về sau, khi công tác nghiên cứu văn học dân gian phát triển, truyện cổ được phân chia thành các thể loại truyện kể dân gian. Tuy nhiên, do bản chất nguyên hợp của văn học dân gian mà việc phân loại đã gặp nhiều khó khăn, ngày nay vẫn chưa thể đi đến thống nhất.

Trong khối truyện kể dân gian người Việt, cổ tích chiếm dung lượng trội hơn nhiều so với các thể loại khác. Một phần vì đặc trưng lịch sử, một phần vì đặc trưng xã hội và tính cách dân tộc mà cổ tích được lưu giữ hiệu quả hơn trong kho tàng truyện cổ người Việt.

Có thể hiểu cổ tích là “một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt”1.

Mặc dù xuất phát từ thần thoại và thời kì thần thoại, song cổ tích không vì thế mà không thể thoát khỏi cái bóng lớn của thần thoại. Nếu “nhân vật thần thoại thường có ý nghĩa tượng trưng và thể hiện những nỗi gian khổ chung, những niềm hoan lạc chung, những lo âu chung và những ước mơ chung của thị tộc, bộ lạc” thì “truyện cổ tích xuất hiện phần lớn khi công xã thị tan rã và được thay thế bằng gia đình riêng lẻ”; nếu thần thoại có sự gắn kết gần gũi với tôn giáo nguyên thủy và thể hiện tinh thần tự do, ý thức dân chủ của con người khi xã hội chưa phân chia giai cấp thì cổ tích lại phản ánh tình trạng đấu tranh xã hội và thể hiện ý thức hệ của thời đại; nếu thần thoại xây dựng vẻ đẹp kì vĩ, hùng tráng, mĩ lệ, mang tầm vóc của toàn thể bộ lạc thì cổ tích lại hướng về những số phận, những ước mơ cải mệnh của con người trong cái hạn hữu chật hẹp của xã hội.

Trong tính nguyên hợp của văn học dân gian, sự gặp gỡ, hàm chứa nhau giữa các thể loại là hiện tượng không xa lạ. Trong đó, hiện tượng chuyển hóa chất liệu từ tác phẩm này sang tác phẩm khác, thể loại này sang thể loại khác tạo nên một dòng chảy thú vị. Chẳng hạn trường hợp hình tượng con rùa, nó xuất phát từ thần thoại trong vai thần biển, đã tái sinh trong thời đại truyền thuyết qua “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” và tiếp tục đời sống của mình trong cổ tích “Rùa và Thỏ”.

Vấn đề phân loại truyện cổ tích đến nay vẫn tồn tại như một thách thức. Có lẽ, đặc trưng nguyên hợp là trở lực vĩnh cửu trước mọi nỗ lực phân định văn học dân gian ở bất cứ cấp độ nào. Tuy nhiên, để quán xuyến được việc nghiên cứu, các học giả, theo cách nào đó, phải đưa ra kiến giải về việc phân loại cổ tích.

Nguyễn Văn Ngọc trong Truyện cổ nước Nam chia cổ tích thành 5 loại: những truyện thuộc về lối cổ tích hoặc dã sử; những truyện mà kết cục trở thành phương ngôn; những truyện thuần về văn chương; những truyện ẩn một triết lí cao xa và những truyện vui chơi cười đùa lí thú nhưng chưa phải tiếu lâm. Cách phân chia này đưa ra những tên gọi dài dòng, đồng thời có sự chồng lấn giữa các loại một cách phức tạp.

Theo Nghiêm Toản, cổ tích được chia làm 4 loại: truyện mê tín hoang đường; truyện luân lí ngụ ngôn; truyện phúng thế hài đàm và sự tích các thánh. Cách phân chia này đã sử dụng nội hàm của thuật ngữ truyện cổ. Các loại được phân chia thành tương ứng với các thể loại truyện kể dân gian, song chưa đầy đủ. Ngay cả thể loại cổ tích cũng không tìm thấy vị trí cụ thể trong cách phân chia trên.

Theo Hoàng Trọng Miên, cổ tích được chia làm 6 loại: cổ tích lịch sử; cổ tích phong tục; cổ tích tình cảm; cổ tích thế sự; cổ tích tôn giáo và cổ tích hoang đường. Thanh Lãng thì chia cổ tích thành 7 loại: cổ tích ma quỷ; cổ tích anh hùng dân tộc; cổ tích ái tình; cổ tích luân lí; truyện thần tiên; truyện phong tục và truyện khôi hài. Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam chia cổ tích thành 3 loại: truyện cổ tích thần kì; truyện cổ tích thế sự và truyện cổ tích lịch sử.

Giáo trình Văn học dân gian của các trường Đại học Sư phạm chia cổ tích thành 3 loại: cổ tích hoang đường; cổ tích sinh hoạt và cổ tích lịch sử. Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên trong giáo trình Văn học dân gian của trường Đại học Tổng hợp chia cổ tích thành 2 loại: cổ tích thế sự và cổ tích lịch sử. Nhóm tác giả Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ chia cổ tích thành 3 loại: cổ tích loài vật; cổ tích thần kì và cổ tích sinh hoạt.

Theo giáo trình Văn học dân gian của Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, căn cứ vào việc có hay không có yếu tố thần kì, có thể chia thành cổ tích thần kì và cổ tích hiện thực; căn cứ vào nội dung phản ánh, có thể chia thành cổ tích thế sự và cổ tích lịch sử.

Như vậy, vấn đề phân loại cổ tích hẳn là vô cùng phức tạp. Dù phân chia theo quan điểm nào thì bên cạnh những kiến giải hợp lí cũng tồn tại kèm theo những bất cập. Điều này xuất phát từ nhiều lí do. Trong đó, tính nguyên hợp của văn học dân gian là trở ngại tất yếu, không thể khắc phục. Với các cách phân loại đã trình bày, chúng tôi tán thành hơn cả quan niệm của Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên. Đây là cách phân loại đơn giản, mặc dù không chi tiết, song đảm bảo được tính hệ thống trong phân loại. Hai bộ phận cổ tích thế sự và lịch sử có thể được minh định sáng rõ nhất. Hẳn nhiên, sự minh định ấy không bao giờ là sự tách biệt hoàn toàn.

Về vấn đề xác lập thể loại truyền thuyết và tiểu loại cổ tích lịch sử, đến nay vẫn chưa nhận được ý kiến thống nhất từ các nhà nghiên cứu. Có ý kiến không thừa nhận truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian. Theo đó, những truyện kể dân gian có nội dung gắn với lịch sử được xếp vào tiểu loại cổ tích lịch sử. Tuy nhiên, trong tính hệ thống của các thể loại và truyện kể dân gian, cổ tích mang không khí sinh hoạt đời thường trong không gian hẹp hơn so với truyền thuyết. Truyền thuyết là một thu hẹp của thần thoại về không gian và thời gian. Song, với đặc thù biểu đạt, truyền thuyết gắn với không gian đất nước và thời gian lịch sử. Nó mang tầm vóc của cộng đồng, thay vì cổ tích mang giới hạn của những mối quan hệ cụ thể giữa một số ít người. Nhân vật truyền thuyết là nhân vật của cộng đồng, trong khi nhân vật cổ tích là đại diện cho tâm tình của một bộ phận người trong xã hội. Phân tích như vậy để thấy rằng những truyện kể có nội dung gắn kết với sự kiện hay nhân vật lịch sử, nó mang không khí truyền thuyết hơn là cổ tích. Vì vậy, chúng tôi tán thành ý kiến xem truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian.

Cổ tích các dân tộc anh em thể hiện khá phong phú, sinh động phong tục, tập quán sinh hoạt văn hóa dân gian. Truyện “Quả Pa Pao” của người HMông, “Tung còn lấy vợ tiên” của người Tày kể về tục ném còn. Kề về các nhạc cụ dân gian có truyện “Sự tích chiếc kèn môi” của người HMông, “Sự tích chiếc kèn đá” của người Raglai. Truyện kể về sự tích các điệu múa thì có “Sự tích điệu múa công” của dân tộc Thái, “Sự tích điệu múa bắt ba ba” của người Dao.

Bộ phận cổ tích gắn liền với việc lí giải các sự vật trong thiên nhiên như “Sự tích dưa hấu”, “Sự tích trái sầu riêng”, “Sự tích cây huyết dụ”, “Sự tích hồ Ba Bể”, “Sự tích núi Vọng Phu”, “Sự tích núi Bà đội om”, “Sự tích núi Ngũ Hành”, “Sự tích sông Tô Lịch và sông Thiên Phù”…

Phần lớn cổ tích xoay quanh đề tài sinh hoạt gia đình, phản ánh và lí giải những xung đột, mâu thuẫn có tính riêng tư nhưng phổ biến giữa anh em trai: “Cây khế”, chị em gái: “Sọ Dừa”, giữa dì ghẻ con chồng và chị em cùng cha khác mẹ: “Tấm Cám”…

Những xung đột bên ngoài gia đình cũng chịu sự ảnh hưởng, chi phối từ những mâu thuẫn trong gia đình. Giải quyết các xung đột, mâu thuẫn trong gia đình là động lực giải quyết xung đột, mâu thuẫn xã hội.

Suốt quá trình phát triển qua lịch sử lâu dài, những hình tượng nhân vật trong cổ tích không ngừng được nhào nắn lại, bổ sung thêm, đây là yếu tố giúp làm tăng tính khái quát và điển hình hóa cho hình tượng, phản ánh được nhiều vấn đề lịch sử của đời sống xã hội.

Triết lí sống là phần quan trọng trong kết cấu nội dung của thể loại. Vì ở đó phản ảnh chân thực sự đấu tranh không khoan nhượng của nhân dân lao động bị áp bức bóc lột, chống lại những thế lực xâm phạm quyền sống, quyền làm người của họ, đồng thời, khẳng định ý nghĩa, giá trị cao quý trong cuộc sống của họ thành triết lí.

Trước sự nghiệt ngã trong xã hội có giai cấp, người dân lao động đấu tranh chống lại những thế lực xâm phạm nhân quyền của họ; đồng thời tự khẳng định bằng cách nâng lối sống của mình lên thành một triết lí.

Trong cổ tích, phần cốt lõi nhất trong triết lí sống của nhân dân là tinh thần lạc quan, yêu đời, lòng ham sống, tình yêu thương và quý trọng đồng loại. Có thể truyện hướng đến sự ca ngợi, biểu dương những hành vi cao đẹp như tình nghĩa thầy trò trong “Sự tích đầm mực”; hay phê phán, lên án những hành vi trái quy chuẩn đạo đức xã hội, như lừa thầy, phản bạn, ăn ở hai lòng, hay những đứa con bất hiếu như “Cái cân thủy ngân”, “Đứa con trời đánh”…

Nói đến tinh thần lạc quan trong cổ tích người ta thường đề cập đến kết thúc của thể loại này, phần nhiều kết thúc có hậu. Kết thúc có hậu chỉ là một biểu hiện phổ biến nhất, không phải biểu hiện cao nhất cũng như duy nhất của tinh thần lạc quan, yếu tố chủ đạo được đề cập trong thể loại này.

Thực tế cho thấy, kho tàng cổ tích Việt Nam nói riêng, của nhân loại nói chung không phải tất cả đều có kết thúc có hậu. Và cũng không vì thế mà cho rằng những truyện kết thúc không có hậu là bi quan. Không ít cổ tích có kết thúc bi thảm, nhân vật chính diện hoặc phải chết hoặc ra đi về miền khổ ải đọa đày, nhưng đó là cái chết nhằm giúp tỏa sáng, khơi dậy tinh thần lạc quan, niềm tin đối với những phẩm chất tốt đẹp của những con người hiền lành, lương thiện, khẳng định những giá trị đạo đức cao quý giữa dòng tuần lưu vô tận của dòng chảy lịch sử nhân loại.

Triết lí sống của nhân dân trong cổ tích còn thể hiện ở sự thưởng công phạt tội được nhìn nhận và giải quyết theo yêu cầu đạo đức. Chàng Thạch Sanh có những hành vi đạo đức cao đẹp mà chắc chắn còn rất lâu mới có thể trở thành hiện thực một cách phổ biến trong xã hội loài người nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng – đó là sự hào hiệp, vô tư, sẵn sàng xả thân vì việc nghĩa trong mọi tình huống. Từ quan niệm đó, nhân dân ta khẳng định triết lí “ở hiền – gặp lành”. Niềm tin ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ vừa là triết lí sống lạc quan, tích cực, vừa là ước mơ công lí và đạo đức. Tuy hình thức bề ngoài nó khá giống với giáo lí của nhà Phật nhưng nội dung phục vụ cho ý nguyện của nhân dân. Đó là chỗ dựa tinh thần vững chắc trong hoàn cảnh nghiệt ngã của nhân dân lao động.

Trong gia đình, mặc dù chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhưng họ luôn sống có đạo đức. Đạo đức bộc lộ ở sự hiền hậu, thật thà, ngay thẳng, hiếu thảo, thủy chung, chịu thương chịu khó… Họ không hay và không thích trả thù những kẻ đàn anh, những người bề trên trong gia đình, dù những kẻ đó đã gây cho họ nhiều tổn thương, đắng cay, điêu đứng.

Nhân vật người em trong “Cây khế” mặc dù bị người bị người anh chiếm hết gia tài nhưng khi được chim thần đưa ra đảo lấy vàng và trở nên giàu có thì vẫn giữ nguyên tình anh em như trước. Hơn nữa, đã chỉ chỗ đảo vàng cho anh để anh cũng có đời sống sung túc. Còn Thạch Sanh dù bị Lí Thông lừa đảo năm lần bảy lượt một cách trắng trợn, bội nghĩa bạn bè nhưng khi có quyền binh trong tay vẫn sẵn sàng tha cho Lí Thông một con đường sống. Những điều nói trên nhằm bảo vệ quan hệ tình cảm, đạo đức huyết thống của gia đình thị tộc trong cổ tích.

Nạn nhân của những xung đột trong gia đình phụ quyền đang hình thành đáng lẽ phải đứng lên phá vỡ tôn ti trật tự bất công để xây dựng một kiểu gia đình khác, giải phóng mình khỏi những nỗi oan trái. Nhưng quy chuẩn xã hội đương thời không cho họ quyền được làm điều đó, nên họ chỉ có thể phủ nhận, chống lại những quan hệ áp bức, bóc lột của gia đình phụ quyền bằng cách quay về với những quan hệ tốt đẹp của gia đình thị tộc đã và đang trên bờ vực tan rã. Sự lí tưởng hóa những nhân vật đàn em là để củng cố những quan hệ gia đình lung lay, rạn nứt, nhằm cứu vãn nó, làm cho nó trở lại với thời kì “tổ ấm” xa xưa.

Nhưng mọi thứ không diễn ra một cách tốt đẹp như thế. Xã hội đương thời đầy rẫy bất công đã nhẫn tâm đưa họ vào những cạm bẫy, tai ương. Những người đàn em và những người bề dưới luôn chịu thiệt thòi, cay đắng mặc cho phẩm hạnh sáng ngời của họ là vì sự độc ác, vô đạo của những kẻ đàn anh, bề trên. Cổ tích phản ánh nỗi cùng quẫn của những kiểu nhân vật “đức hạnh nhưng bất hạnh” này trong việc tìm đường giải thoát cho mình. Nhưng ở một số truyện, sự sáng tạo của tác giả dân gian đã mang đến cho tác phẩm những làn gió mới, thể hiện ở phần kết thúc các nhân vật đàn em đã dám vượt qua khuôn khổ gia đình, tìm đến sự công bằng, hạnh phúc cho bản thân mình. Trí tưởng tượng của tác giả đã đưa con người khổ hạnh, bị áp bức bất công vượt biên giới gia đình, nhờ việc tạo ra, khai thác những hình tượng hư cấu, các yếu tố kì ảo như: Ông Tiên, Bà Bụt, Chim thần, Rắn thần, Vua, Công chúa, Hoàng tử… Tuy vai trò khác nhau nhưng những nhân vật ấy gắn liền với việc thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân. Đây là chiếc cầu nối giữa cuộc đời thực bất hạnh với cuộc đời hạnh phúc công bằng mộng tưởng của nhân vật chính diện. Nếu như các lực lượng thần – ảo góp phần thể hiện lí tưởng xã hội – thẩm mĩ, các nhân vật như vua chúa, hoàng tử, công chúa là phương tiện nghệ thuật, vừa là hiện thực vừa lí tưởng xã hội được hình tượng hóa. Các nhân vật đế vương trong cổ tích được phân thành hai loại đối lập: chính diện và phản diện, tức tốt và xấu. Vua tốt như ông vua trong truyện “Thạch Sanh”, “Tấm Cám”; còn vua xấu như ông vua trong truyện “Ai mua hành tôi”, vua xấu như ông vua Trang vương trong “Phạm Tải Ngọc Hoa”.

Loại truyện về những chàng trai khỏe, dũng cảm hay truyện dũng sĩ của các dân tộc nhằm ca ngợi những tấm gương tài hoa, hiệp nghĩa, những bậc anh hùng trong lao động và chiến đấu. Truyện “Cẩu Khây” của người Tày kể về bốn anh em kết nghĩa có sức khỏe phi thường, dùng sức khóe của mình tham gia lao động sản xuất, giúp đỡ đồng bào. Truyện “Chàng Voi con” của người Thái cũng có cốt truyện tương tự. Hay truyện “Chê Hấu” của người HMông kể về các chàng trai khỏe mạnh hợp sức khai phá đất đai, chế ngự thiên tai, lao động sản xuất. Mở đầu là chàng Nhổ Cây, đến chàng Cắt Tranh, tiếp theo là chàng Chê Hấu trồng trọt, sau đó là chàng Hút Nước chống lũ, cuối cùng là chàng Đục Đá làm cối xay để chế biến lương thực. Truyện “Cẩu Khây” chủ yếu ca ngợi kì tích làm thủy lợi, chế ngự thiên tai. Truyện “Chàng Voi con” ca ngợi kì tích săn bắn. Truyện “Chê Hấu” xây dựng một tập thể những người lao động có trình độ kĩ thuật cao, có sự phân công lao động hợp lí, hiệu quả. Đây là những con người tài ba trong xã hội nông thôn.

Bên cạnh đó người Việt còn có những truyện mang tính hiện thực hơn như truyện “Lê Như Hổ” có tài ăn khỏe, một buổi phát luôn ba mẫu cỏ, một ngày gặt xong hai mẫu lúa. Truyện “Yết Kiêu” ca ngợi tài lặn nhiều giờ trong nước để đánh bắt cá, lặn xuống biển đục thuyền giặc. Lại có những truyện đề cao sự khéo léo trong lao động như: “Ba chàng thiện nghệ”, “Người thợ mộc Nam Hoa”, “Bùi Cầm Hổ”… Đặc biệt như truyện “Phân xử tài tình” ca ngợi vị quan thông minh tài giỏi. Nhưng cốt truyện loại này khá hiếm trong thể loại cổ tích, vì đa số quan lại là đối tượng châm biếm, đả kích của cổ tích …

Nhân dân tin rằng, nếu những con người tài đức làm mẫu nhi thiên hạ, những người khỏe mạnh cường tráng đóng góp công sức lao động sản xuất thì cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn nhiều, nhân dân sẽ được sống đời bình yên, hạnh phúc.

2/ Đặc trưng nghệ thuật

Nhân vật hay vật thần kì là hiện thân của các thế lực mang sức mạnh thần diệu, phi phàm, đứng ra giúp đỡ nhân vật tuyến thiện hay cùng với nhân vật tuyến ác tạo ra sự hủy diệt cuộc sống. Nhân vật kì diệu thường gặp: Tiên, Bụt (Phật); vật kì diệu: Rùa thần, Chim thần, Cá Bống… hiện ra giúp đỡ người tốt thiệt thòi. Trái lại, Đại Bàng có thể bắt cắp bất kì cô gái đẹp nào, Trăn tinh có thể ăn thịt bất cứ ai… Đôi khi nhân vật hay vật thần kì là phép thử lòng người, phân định bản chất con người thiện ác như Đại Bàng hai lần xuất hiện trong cổ tích “Cây khế” đã tạo ra hai kết cục trái ngược nhau cho hai nhân vật thuộc hai tuyến thiện ác khác nhau, với hai anh em cùng một huyết thống nhưng tính cách thiện ác đối lập.

Nhân vật trong cổ tích trung gian và cổ tích hiện thực không phân tuyến hoặc phân tuyến không rõ. Nhân vật đôi vợ chồng trong truyện “Sự tích đá vọng phu” không phải là nhân vật phân tuyến. Nhân vật người vợ trong “Sự tích con muỗi” là nhân vật phân tuyến không rõ ràng giữa mối quan hệ với chồng và với tình nhân. Những truyện cổ tích lí giải về sự tích không hẳn là cổ tích thần kì, mà là dạng cổ tích trung gian, gần với cổ tích hiện thực. Nhân vật trong “Trương Chi”, “Gái ngoan dạy chồng”… không phải nhân vật lí tưởng hóa, không phân tuyến như nhân vật trong cổ tích thần kì. Nhân vật trong cổ tích thần kì thường không rõ tính cách. Nhân vật thuộc cùng một tuyến có tính cách hao hao giống nhau theo khuôn mẫu đã định.

Kết cấu cổ tích thường gặp là kết cấu đường thẳng. Cốt truyện tuân theo một trật tự nhất định từ trước đến sau, cái gì xảy ra trước kể trước, cái gì xảy ra sau kể sau. Cuộc đời Thạch Sanh trong cổ tích cùng tên đi theo một trình tự thời gian cụ thể, từ lúc đi đốn củi, qua thăng trầm, cưới công chúa, thuần phục chư hầu, được truyền ngôi báu… là một dạng của kết cấu này.

Loại kết cấu này có ưu điểm: dễ nhớ, đơn giản; nhược điểm: thiếu sinh động. Cổ tích với đặc trưng thể loại không thực hiện sự đảo ngược kết cấu, đôi khi làm giảm hiệu quả diễn đạt, gây nhàm chán.

Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ trong cổ tích cũng tương thích với đặc trưng và chức năng thể loại. Ngôn ngữ mang tính trần thuật, tính kể đặc trưng cho ngôn ngữ kể chuyện. Các câu tả và các đoạn đối thoại ít có mặt trong truyện. Hình thức tả chủ yếu mang tính phác họa những nét đặc trưng nhất của ngoại hình nhân vật. Ta chỉ biết chàng Thạch Sanh khỏe mạnh, thật thà, còn cụ thể chàng khỏe đến mức nào và thật thà ra sao cổ tích không đề cập. Đó cũng có thể là “độ không sáng tạo” dành cho độc giả, theo điểm nhìn hiện đại.

Về phương diện cú pháp, cổ tích thường có ba loại chủ yếu: câu tồn tại, câu luận, câu hoạt động. Câu tồn tại nhằm mục đích giới thiệu nhân vật: “Hồi ấy ở gần làng có anh học trò nghèo, bố mẹ chết sớm” (Lấy vợ cóc). Câu luận nhằm định tính, định danh nhân vật: “Chàng rất hay chữ, tuy chưa đỗ đạt gì, người ta cũng gọi chàng là Tú Uyên” (Tú Uyên). Phổ biến nhất vẫn là câu hoạt động.

Trong cổ tích, có môtip mở đầu và kết thúc. Mở đầu thường có câu: “Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, tại một làng nọ…” hoặc “Ngày xưa, có một nàng công chúa xinh đẹp, nàng sống cùng vua cha trong cung điện tráng lệ nhưng nàng luôn cảm thấy không vui”. Câu mở đầu thường có sự xuất hiện của cả không gian và thời gian theo thủ pháp ước lệ.

Ngôn ngữ cổ tích không có chức phận xác định cụ thể không gian – thời gian, mọi thứ đều hiện lên mơ hồ: thời gian quá khứ xa xưa, không gian xa xôi đâu đó. Ngoài ra, cổ tích còn sử dụng ngôn ngữ của tục ngữ, ca dao… nhằm gây ấn tượng. Cổ tích chứa đựng các câu văn đa dạng, phong phú về kiểu câu, phong cách ngôn ngữ. Càng về sau câu văn cổ tích càng gần với phong cách văn học hơn.

Thời gian và không gian nghệ thuật trong truyện cổ tích cũng được xây dựng theo hệ quy chiếu thể loại, góp phần xác định diện mạo chung của thể loại. Không gian cổ tích là không gian đời thường, không gian sinh hoạt bao quanh cuộc đời nhân vật chính. Chính vì vậy, không gian còn mang tính chất khép kín, tức không quan tâm những nhân vật phụ, những diễn biến khác trong cuộc sống. Không gian cổ tích khó xác định giới hạn, nơi chốn, đặc điểm. Ta sẽ bắt gặp những không gian quen thuộc trong cổ tích, bởi vì các truyện thường được xây dựng trong một không gian hao hao nhau. Dường như cổ tích chỉ gọi tên địa danh bằng danh từ phiếm chỉ để không gian bớt mơ hồ, còn thực sự địa danh ấy đặc điểm ra sao thì cổ tích không quan tâm đến.

Thời gian cổ tích là thời gian vĩnh hằng, bất biến. Thời gian cổ tích kéo dài theo số phận của đời người. Khi nhân vật chính được giải phóng số phận, thời gian theo đó dừng lại. Tính chất ước lệ được thể hiện rõ trong thời gian cổ tích; chẳng hạn ta thường bắt gặp các thời điểm như: “một hôm”, “một ngày kia”, “ngày xửa ngày xưa”… Ngoài ra, ta có gặp thời gian ước định bằng tuần trăng, “Ba tuần trăng… Rồi sáu… rồi chín tuần trăng” (Sự tích hòn vọng phu). Thời gian trong cổ tích chỉ được gợi ra một cách mơ hồ, hầu như không xác định năm nào, đời vua nào…

Như vậy, không gian – thời gian trong cổ tích có tính ước lệ, áng chừng. Hai yếu tố này luôn đi cùng nhau, vì thời gian chỉ diễn tiến trong không gian nhân vật hoạt động. Trong cổ tích, mọi thứ thường mơ hồ xa xôi, nhưng đôi lúc rất quen thuộc như trong chính ngôi làng của mình là vì thế.

Đặc trưng nghệ thuật của cổ tích còn có sự đóng góp của các thủ pháp nghệ thuật. Trước hết, nghệ thuật phiếm chỉ, cũng tương tự kết cấu đường thẳng, nhằm phục vụ nhu cầu truyền miệng, cổ tích thường gạt bỏ những yếu tố khó nhớ. Do vậy, nhân vật, không gian, thời gian thường có tính phiếm chỉ. Trong cổ tích ít sử dụng danh từ riêng. Điều này khác với truyền thuyết, thường sử dụng danh từ riêng. Nhân dân không có nhu cầu đặt tên, gọi rõ nhân vật, chỉ muốn tạo dựng hình tượng những nhân vật có tính phổ quát cao, nhằm biểu đạt những ý nguyện của mình, mong ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn, công bằng hơn. Một cụm từ thường được sử dụng trong cổ tích là: “ngày xửa ngày xưa”; một số danh từ phiếm chỉ thường gặp trong cổ tích như: một phú ông, một quý cô, một anh tiều phu nọ… Việc chỉ sử dụng danh từ phiếm chỉ như vậy có tác dụng tạo ra một mảnh đời, một số phận có tính khái quát cao.

Nghệ thuật tưởng tượng, hư cấu là một phần quan trọng nhằm giúp con người có thêm trợ lực để hoàn thành được mơ ước của mình. Dĩ nhiên kết quả cuối cùng như thế nào vẫn do bản chất, sự lương thiện hay lòng tham của con người quyết định. Anh canh điền chiến thắng phú ông, lấy được vợ nhờ sự giúp đỡ của Bụt, nhưng muốn có cây tre trăm đốt làm sính lễ, anh đã phải bỏ công sức trèo đèo lội suối, vất vả gian truân không ít. Hơn thế, dù cho hư cấu thế nào, các yếu tố thần kì vẫn phải tuân theo luân lí thông thường. Trong “Cây khế”, phượng hoàng đưa người ra đảo lấy vàng, giúp người trở nên giàu có sung túc, nhưng không phải muốn lấy bao nhiêu của cải cũng được. Thánh thần chỉ giúp đỡ những ai chăm chỉ lao động, nhưng gặp khó khăn. Yếu tố thần kì chỉ là phương tiện nhiệm mầu trong cổ tích, hiện thân của những mong ước quá sức của con người. Yếu tố thần kì giúp nhân vật cổ tích đạt được mong ước tốt đẹp, hợp luân lí; còn ta trong đời thực phải lao động không ngừng mới mong nhận được điều tốt đẹp.

Cổ tích là mơ ước của nhân dân lao động về xã hội tốt đẹp, công bằng, về đời người ấm no, hạnh phúc. Cổ tích cũng là những bài học về lòng thiện, tình yêu thương và đức tính chăm chỉ, cùng tài năng, dũng khí của con người. Đó là những ước mơ gần gũi, là động lực hiện thực mà con người có thể vươn tới.

Phân Tích Truyện Cười Dân Gian Treo Biển

Treo biển là câu chuyện cười đầy hài hước thông qua việc treo biển của anh hàng cá, sau những tiếng cười đầy sảng khoái, ông cha ta đã ngầm phê phán những kẻ thiếu chính kiến, dễ bị tác động. Phân tích truyện cười dân gian Treo biển.

1. Mở bài

Giới thiệu truyện cười Treo biển: Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chính là một món ăn tinh thần cho nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Và trong số các truyện cười đó, không thể không nhắc tới truyện “Treo biển”.

2. Thân bài

-Tóm tắt nội dung truyện: Nội dung truyện kể về một cửa hàng bán cá, nhằm muốn giới thiệu cho mọi người biết đến sản phẩm của gia đình mình, cửa hàng đã thiết kế một cái biển đề to với dòng chữ: “Ở đây có bán cá tươi”.

-Phân tích sự góp ý của những người xung quanh về chiếc biển: Người thứ nhất đi qua thì cho rằng: “Nhà này ngày xưa quen bán cá ươn hay sao mà giờ phải đề biển là cá tươi” ; thêm một người nữa, lại nói: “Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề ở đây”

-Phân tích cách hành xử của chủ cửa hàng với chiếc biển: Tiếng cười bật ra từ chính cách hành xử của ông chủ cửa hàng với chiếc biển của mình, cho thấy ông ta là một người thiếu chính kiến, ba phải, khi nghe lời mọi người nói, không cần biết đúng sai, phải trái ông đều răm rắp làm theo

-Phân tích tiếng cười của truyện: Người đọc cười vì sự ba phải, ngẩn ngơ và tình nóng vội của người chủ cửa hàng cá, sẵn sàng sửa biển, cất biển chỉ vì lời nhận xét của mọi người. Bên cạnh đó tình huống truyện kịch tích cũng góp phần không nhỏ tạo nên tiếng cười trong tác phẩm

3. Kết bài

Ý Tóm lại, truyện cười “Treo biển” đã mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc, lên tiếng phê phán về những nghĩa truyện cười dân gian Treo biển: con người thiếu chính kiến trong suy nghĩ và hành động. Nhắc nhở mọi người nên có những sự suy xét và cân nhắc trước mọi lời góp ý của những người xung quanh.

II. Bài tham khảo

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chính là một món ăn tinh thần cho nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Và trong số các truyện cười đó, không thể không nhắc tới truyện “Treo biển”. Truyện không chỉ mang lại tiếng cười vui vẻ, hài hước mà còn mang tính phê phán những con người ba phải, dễ dàng nghe và làm theo lời người khác mà không có sự suy xét.

Nội dung truyện kể về một cửa hàng bán cá, nhằm muốn giới thiệu cho mọi người biết đến sản phẩm của gia đình mình, cửa hàng đã thiết kế một cái biển đề to với dòng chữ: “Ở đây có bán cá tươi”. Nghe có vẻ chiếc biển đã đầy đủ nội dung, sẽ chẳng có ai có thể bắt bẻ được điều gì, thế nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Đã có rất nhiều người đi qua và bàn tán, góp ý về chiếc biển đó. Người thứ nhất đi qua thì cho rằng: “Nhà này ngày xưa quen bán cá ươn hay sao mà giờ phải đề biển là cá tươi” ; thêm một người nữa, lại nói: “Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề ở đây”; người thứ ba nghe có vẻ bắt bẻ: “Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là có bán” ; cho tới người cuối cùng, sự bắt bẻ đã tới tận cùng: “Chưa đi đến đầu phố đã ngửi mùi tanh, đến gần nhà thì thấy đầy những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa”.

Việc treo biển chỉ là việc nhỏ, không có ảnh hưởng gì to tát nhưng từ những việc nhỏ sẽ dẫn đến những việc lớn, một khi con người ta đã thiếu chính kiến trong việc nhỏ thì khó mà có chính kiến được trong việc lớn. Từ đó không chỉ hỏng những việc nhỏ mà kéo theo hỏng cả những việc lớn. Tất cả chỉ vì nghe theo lời người khác mà không có sự suy xét đúng sai của bản thân, hậu quả thật khôn lường. Câu chuyện có kết cấu ngắn gọn, mạch lạc và rõ ràng, chỉ bao gồm lời văn giới thiệu, bốn lời thoại của người đi đường, khách mua cá, người láng giềng nhưng lại tạo ra tiếng cười giòn giã. Người đọc cười vì sự ba phải, ngẩn ngơ và tình nóng vội của người chủ cửa hàng cá, sẵn sàng sửa biển, cất biển chỉ vì lời nhận xét của mọi người. Bên cạnh đó tình huống truyện kịch tích cũng góp phần không nhỏ tạo nên tiếng cười trong tác phẩm.

Tóm lại, truyện cười “Treo biển” đã mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc, lên tiếng phê phán về những con người thiếu chính kiến trong suy nghĩ và hành động. Nhắc nhở mọi người nên có những sự suy xét và cân nhắc trước mọi lời góp ý của những người xung quanh.

Theo chúng tôi

Trình Bày Cảm Nhận Về Truyện Cổ Dân Gian Em Bé Thông Minh

Trình bày cảm nhận về truyện cổ dân gian Em bé thông minh – Văn mẫu lớp 6 tuyển chọn

Đề bài: Truyện cổ tích là những sáng tác dân gian đặc sắc, qua mỗi câu chuyện, tác giả dân gian thường gửi gắm những quan niệm, bài học cho thế hệ sau. Vận dụng những hiểu biết của mình về truyện Em bé thông minh, em hãy trình bày cảm nhận về truyện cổ dân gian Em bé thông minh.

1. Mở bài

Giới thiệu về truyện em bé thông minh: Trong số rất nhiều những câu truyện cổ tích dân gian Việt Nam, “Em bé thông minh” là một câu chuyện có sức hấp dẫn rất riêng và thu hút được người đọc

2. Thân bài

-Em bé thông minh biết lấy cái không xác định được để đáp lại một cái không xác định: trước câu hỏi oái oăm của tên quan: “Trâu… cày một ngày được mấy đường?” em đã hỏi vặn lại: “Ngựa… đi một ngày được mấy bước?”

-Em bé biết lấy điều vô lí và phi lí để giăng bẫy và vặn lại vua điều phi lí: Thật oái oăm cho lệnh của vua, trâu đực thì làm sao mà đẻ được mà cũng chẳng trâu nào đẻ được ba con trong ba năm

-Em bé biết lấy cái không thể giải thích cho những việc không thể: Trong điều kiện lạc hậu ngày ấy, chiếc kim đen không thể mài thành ba con dao

-Em có trí thông minh biết dùng mẹo để giải quyết câu đố: thử thách thông minh lần này là làm sao xâu sợi chỉ qua đường ruột của con ốc xoắn

3. Kết bài

Ý nghĩa của truyện: trong cuộc sống lao động lam lũ và vất vả, nhân dân ta đã tưởng tượng ra một câu chuyện dí dỏm, mua vui nhưng thực tế đã thể hiện được trí thông minh của nhân dân ta.

II. Bài tham khảo

Trong số rất nhiều những câu truyện cổ tích dân gian Việt Nam, ” Em bé thông minh” là một câu chuyện có sức hấp dẫn rất riêng và thu hút được người đọc. Thông qua nhân vật cậu bé thông minh, truyện đã ca ngợi trí thông minh của nhân dân ta trong cuộc sống.

Trong truyện, nhân vật chính là em bé thông minh, trí thông minh của em được trổ tài đến bốn lần. Lần thứ nhất, trước câu hỏi oái oăm của tên quan: “Trâu… cày một ngày được mấy đường?” em đã hỏi vặn lại: “Ngựa… đi một ngày được mấy bước?”. Có thể thấy em đã rất thông minh, nhanh trí, lấy cái không xác định để đáp lại một cái không xác định. Thể thức này ta có thể dễ dàng bất gặp trong các câu truyện dân gian như: hỏi “trên đầu có bao nhiêu sợi tóc”, vặn lại “lỗ mũi có bao nhiêu cái lông”. Lần thứ hai, đó là khi vua ban cho cậu bé thông minh 3 thúng gạo nếp và ba con trâu đực, hạn cho trong vòng ba năm, ba con trâu phải đẻ thành 9 con.

Thật oái ăm cho lệnh của vua, trâu đực thì làm sao mà đẻ được mà cũng chẳng trâu nào đẻ được ba con trong ba năm. Thế nhưng lệnh vua thì ai dám chống lại. Ở tình huống này xuất hiện những điều dí dỏm và hài hước, khi cả làng đang lo thì em bé thông minh lại nghĩ ra cách xử trí rất khác người: giết hai con trâu, đem gạo nếp đồ xôi cả làng ăn, còn một con trâu đem bán lấy lộ phí hai cha con lên kinh. Rồi em tìm cách gặp được vua, em khóc than với vua rằng mẹ đã chết mà cha em không đẻ thêm được một bé nào nữa. Trước câu hỏi ngây thơ mà ngộ nghĩnh của em, vua đã phải phì cười cắt nghĩa “Bố mày là giống đực thì làm sao mà đẻ được”.

Đây chính là một cái bẫy mà em bé giăng sẵn chờ vua mắc mưu để em có cớ vặn lại: “Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi 3 con trâu đực cho đẻ thành 9 con để nộp đức vua?…” Có thể thấy em đã biết dùng cái vô lí để giải thích và bác bỏ cho cái phi lí. Lần thứ ba, vua sai sứ mang một con chim sẻ tới bắt cha con em dọn thàn ba cỗ thức ăn, ngược lại em đã sai sứ mang một chiếc kim đen tâu đức vua rèn cho ba con dao. Trong điều kiện lạc hậu ngày ấy, chiếc kim đen không thể mài thành ba con dao. Em đã lấy cái không thể nào làm được để giải thích cho sự việc không thể nào thực hiện được. Lần cuối cùng, em bé thông minh được đem đi so trí với sứ giả của nước láng giềng, thử thách thông minh lần này là làm sao xâu sợi chỉ qua đường ruột của con ốc xoắn. Trong khi cả bá quan văn võ, đại thần và trạng nguyên đều vô kế thì em lại ung dung hát một bài vè:

“…Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng,

Bên thời lấy giấy mà bưng,

Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang…”

Em bé thông minh đã làm cho vị sứ giả nước láng giềng phải thán phục, và sau bốn lần trổ tài, em được phong làm Trạng nguyên.

Truyện cổ tích chứa nhiều chất dí dỏm và hài hước, trong cuộc sống lao động lam lũ và vất vả, nhân dân ta đã tưởng tượng ra một câu chuyện dí dỏm, mua vui nhưng thực tế đã thể hiện được trí thông minh của nhân dân ta.

Theo chúng tôi

Kho Tàng Truyện Dân Gian Việt Nam

Truyện dân gian Việt Nam là những truyện kể miệng của nhân dân lưu truyền từ đời này qua đời khác. Cũng có người gọi là truyện đời xưa, nhưng danh từ truyện đời xưa dễ nhầm với truyện cổ tích – một loại nhỏ trong truyện dân gian nói chung.

Truyện dân gian bao gồm nhiều thể loại khác nhau như: truyện thần thoại, truyện truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.

1. Truyện thần thoại

Đây là loại truyện cổ xuất hiện sớm nhất, trong đó đại bộ phận các nhân vật là thần.

Thần thoại là loại truyện phần lớn ra đời trong thời kỳ công xã nguyên thủy và chủ yếu nhằm phản ánh cuộc đấu tranh của con người chế ngự thiên nhiên.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-than-thoai/” style=”danger” target=_blank]➤ Đọc truyện về các vị thần[/button]

[/alert]

2. Truyện truyền thuyết

Truyện truyền thuyết là truyện dân gian nối tiếp với thần thoại và ít nhiều đã chứa đựng yếu tố lịch sử.

Thần thoại và truyền thuyết khác nhau: trong thần thoại, nhân vật là thần hoặc nửa thần: thần thoại xuất hiện từ thời xa xưa, truyền thuyết xuất hiện sau thần thoại và có dính đến lịch sử; những nhân vật của truyền thuyết thường là những nhân vật có thật trong lịch sử.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-truyen-thuyet/” style=”danger” target=_blank]➤ Những truyện truyền thuyết hay[/button]

[/alert]

3. Truyện cổ tích dân gian Việt Nam

Đây là những truyện ra đời muộn hơn so với thần thoại. Tuy vẫn còn nhiều yếu tố hoang đường, nhưng nhân vật chính là người. Truyện cổ tích chủ yếu nhằm phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống các giai cấp bóc lột, phản ánh mọi mặt sinh hoạt của nhân dân. Nó chiếm số lượng nhiều nhất trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam.

Truyện cổ tích chủ yếu ra đời khi xã hội đã có giai cấp, như chế độ phong kiến. Cho nên nội dung chính của truyện cổ tích phản ánh cuộc đấu tranh xã hội về mọi phương diện.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-co-tich/” style=”danger” target=_blank]➤ Khám phá thế giới cổ tích[/button]

[/alert]

4. Truyện cười dân gian Việt Nam

Truyện cười là những truyện trong đó có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười để mua vui hoặc để châm biếm, đả kích.

Truyện cười dân gian Việt Nam có ý nghĩa phê phán những thói hư, tật xấu trong nhân dân, hay đả kích một cách sâu cay tính chất bóc lột, thói xảo trá và sự thối nát của giai cấp thống trị cùng bọn tay sai đắc lực của chúng như quan lại, cường hào gian ác.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-cuoi/” style=”danger” target=_blank]➤ Truyện cười dân gian Việt Nam[/button]

[/alert]

5. Truyện ngụ ngôn

Truyện ngụ ngôn là loại truyện tưởng tượng, trong đó người xưa mượn câu chuyện loài vật, cây cối, đồ vật hoặc chuyện người để nêu lên một nhận xét về thực tế xã hội hoặc để khuyên răn người đời. Truyện ngụ ngôn thường đem lại những bài học về luân lí, đạo đức,… rất sinh động, sâu sắc.

[alert style=”danger”]

[button url=”https://truyendangian.com/truyen-ngu-ngon/” style=”danger” target=_blank]➤ Những câu chuyện ngụ ngôn ý nghĩa[/button]

[/alert]

Nội dung những câu chuyện dân gian Việt Nam

Nội dung truyện dân gian rất phong phú, phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống dân tộc ở những thời kì lịch sử khác nhau, kể cả thời kì mà ngày nay chúng ta không giữ được bao nhiêu tài liệu đích xác nữa. Tổ tiên của chúng ta đã gửi gắm vào đấy những cảm nghĩ, nguyện vọng và ý chí của họ, những quan niệm của họ về thế giới và về cuộc sống của xã hội loài người.

1. Truyện dân gian phản ánh quan niệm về thế giới của người xưa.

Người xưa quan niệm về thế giới một cách đơn giản và cụ thể. Để tạo ra vũ trụ, thần Trụ Trời, thần Mặt Trăng, Mặt Trời cũng lao động như người. Thần Núi, thần Đất, thần Sông, thần Nước, đều gần gũi với người và giúp người đấu tranh chống thiên tai, ví dụ Sơn Tinh cùng với người chống Thủy Tinh, vị thần tượng trưng cho sức phá hoại của bão lụt. Thần Mưa đi hút nước ở sông biển để tưới ruộng đồng cho người cày cấy.

Thế giới thần trong các truyện thần thoại là thế giới chưa có đẳng cấp. Các thần đều có cuộc sống bình đằng. Mỗi thần đều có chức vụ riêng của mình. Các thần cũng có nhược điểm giống như người và có khi bị người đánh như thần Sét, hay bị kiện như thần Mưa.

2. Truyện dân gian có mối quan hệ ít nhiều với lịch sử

Những truyện như Thánh Gióng, An Dương Vương, Đầm nhất dạ đều là những truyện có dính dáng đến những chặng đường lịch sử nhất định. Nhiều khi có nhân vật truyện cổ lại có quan hệ mật thiết với nhân vật lịch sử, ví dụ An Dương Vương thông gia với Triệu Đà (An Dương Vương là nhân vật có thật trong lịch sử). Điều quan trọng là nhiều truyện như vậy đã nói lên lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

3. Truyện dân gian Việt Nam có tính phê phán sâu sắc

Lịch sử của xã hội loài người là lịch sử đấu tranh liên tục. Bên cạnh cuộc đấu tranh với thiên nhiên, còn có cuộc đấu tranh với giai cấp thống trị, khi xã hội đã phân chia giai cấp. Tinh thần phản phong của nhân dân ta được thể hiện qua nhiều truyện như Cây tre trăm đốt, Sọ Dừa, Tấm Cám, Cây Khế, Trạng Quỳnh, Thằng Cuội,… Từ những vua quan hung tàn, từ những địa chủ, cường hào gian ác, cho đến những tầng lớp khác như lang băm, phù thủy, thầy bói, sư, tiểu phá giới, hủ nhu, v.v… đều bị nhân dân lao động đưa vào trong truyện dân gian, xây dựng thành những nhân vật tiêu biểu, và phê phán hay đả kích một cách sâu cay.

Các lực lượng siêu nhiên như Trời, Phật, Thần trong truyện dân gian thường tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ, đứng về phía chính nghĩa để thắng gian tà.

4. Những câu chuyện dân gian Việt Nam phản ánh tâm tư và ước vọng của nhân dân

Trong cuộc đấu tranh lâu dài cho hạnh phúc của mình, tổ tiên ta đã gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng họ không hề bị quan, mà vẫn ước mơ có những sáng tạo phi thường. Có những hạt lúa thần to như cái đấu, đến mùa tự lăn về nhà mà không phải gặt. Sơn Tinh có quyển sách ước (1), Thạch Sanh có niêu cơm thần thết quân tướng mười tám nước ăn mà không hết. Người ta cũng ước mơ có ngựa sắt phun lửa, có nỏ thần để giết giặc; người ta lại cũng ước mơ già lột xác không chết, để trở lại trần gian sống một cuộc đời hạnh phúc…

Ý nghĩa những truyện đó, nói theo Goocki “không ngoài lòng mong mỏi của người lao động thời xưa muốn làm việc cho được nhẹ nhàng hơn, sản xuất được nhiều hơn, chống với kẻ thù hai chân và bốn chân có hiệu quả hơn”… Và những ước mơ của tổ tiên ta xưa nay như đi mây về gió, như nỏ thần giết giặc thì ngày nay đã thành sự thật.

Nghệ thật trong truyện dân gian Việt Nam

Mỗi loại nhỏ trong truyện cổ dân gian đều có đặc trưng nghệ thuật của nó, ví dụ đối với truyện thần thoại, thì cách xây dựng những hình tượng kì diệu hay cách nhân hóa thường được sử dụng nhiều hơn. Những nhân vật trong thần thoại thường có yếu tố kì ảo: thần Biển, thần Trụ Trời. Có những hình tượng được cấu tạo để biểu hiện tính chất kì ảo đó: cái thở của thần Biển, sức mạnh của thần Trụ Trời.

Trái lại, nhân vật trong truyện cổ tích thì lại gần chúng ta hơn tuy cũng có ít nhiều yếu tố kì ảo (ví dụ Tấm trong truyện Tấm Cám hay chàng trai trong truyện Cây tre trăm đốt được Bụt truyền cho câu thần chú). Riêng đối với truyện cười, thì tính chất cường điệu và phóng đại được chú trọng hơn: anh hà tiện hay nói khoác ở đây không phải là những người thường, mà là hạng người đặc biệt: hà tiện quá chừng, nói khoác quá chừng. Trong truyện ngụ ngôn, ý nghĩa so sánh và nói bóng đòi hỏi một nghệ thuật có khả năng diễn đạt một cách kín đáo, tế nhị và sâu sắc hơn: Đẽo cày giữa đường, Mười voi không được bát nước xáo.

Nghệ thuật trong những câu chuyện dân gian Việt Nam có nhiều điểm đáng lưu ý. Phần lớn các truyện đều được xây dựng theo trình tự thời gian; việc xảy ra trước, kể trước; việc xảy ra sau, kể sau. Các sự kiện, chi tiết trong truyện được chọn lọc, bố cục mạch lạc, chặt chẽ. Cách bố cục truyện như vậy dễ nhớ, dễ lưu truyền. Trong truyện cổ dân gian, trí tưởng tượng của nhân dân rất phong phú. Nhờ trí tưởng tượng đó mà nhiều truyện có sức hấp dẫn lớn.

Những yếu tố tưởng tượng nhiều khi có tính chất hoang đường như bụt, tiên, thần, gậy thần, gươm thần,… phản ánh lòng mong muốn, ước vọng của người xưa, và đó cũng là một phương pháp để xây dựng truyện cổ dân gian.

Do tính chất truyền miệng nên ngôn ngữ trong truyện dân gian thường thay đổi tùy theo người kể chuyện. Nhưng nói chung những người kể thường sử dụng ngôn ngữ của quần chúng, dùng từ dễ hiểu, chính xác, đảm bảo đúng cốt truyện.

Truyện dân gian Việt Nam đã xây dựng được nhiều hình tượng đẹp: ngựa sắt Phù Đổng, hạt ngọc Mị Châu… Trừ một số thần thoại và truyền thuyết, hầu hết truyện dân gian đều mang tính chất phiếm chỉ, tên người tên đất trong truyện không cần phải chính xác. Câu chuyện dù có nhiều chi tiết cũng thường được cấu tạo theo trật tự thời gian, chính vì vậy nó mới thích hợp với truyền miệng.

Kết luận

Truyện dân gian Việt Nam là một kho tàng văn học vô cùng phong phú. Nó phản ánh nhiều mặt về cuộc sống vật chất và tinh thần, về tâm tư và ước vọng của nhân dân ta thời xưa. Đọc truyện cổ dân gian, chẳng những chúng ta học tập được tinh thần lao động cần cù và tinh thần chiến đấu bền bỉ của nhân dân ta thời xưa mà còn học tập được cách diễn đạt sinh động và cách xây dựng hình tượng nhân vật rất hấp dẫn, thích hợp trong từng loại truyện.