Xem Truyện Cổ Tích Alibaba / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Phân Tích Truyện “Thầy Bói Xem Voi”

Thầy bói xem voi là một truyện ngụ ngôn có nội dung giáo dục rất thâm thúy ẩn chứa dưới hình thức nghệ thuật hài hước thú vị. Truyện ngụ ngộn là truyện không chỉ có nghĩa đen mà còn hàm chứa nghĩa bóng. Nghĩa bóng là ý nghĩa sâu kín gửi gắm trong truyện, thường là những bài học nhân sinh bổ ích cho con người trong cuộc sống.

Thầy bói xem voi kể về cuộc xem voi của năm thầy bói mù và nhận xét của từng người về con voi. Sự khác biệt trong nhận thức về hình dáng con voi giữa các thầy bói dẫn đến cuộc tranh luận bất phân thắng bại, thậm chí dẫn tới ẩu đả. Từ việc chễ giễu cách xem voi và nhận xét về voi rất phiến diện của năm ông thầy bói mù, người xưa khuyên chúng ta rằng khi tìm hiểu, xem xét, đánh giá các sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh thì phải thận trọng, kĩ càng và toàn diện để tránh những đánh giá lệch lạc, sai lầm.

Truyện ngắn gọn nhưng rất hấp dẫn bởi hàng loạt các yếu tố đặc biệt của nó: tình huống đặc biệt, nhân vật đặc biệt, sự vật đặc biệt và cách cảm nhận sự vật của mỗi người lại càng đặc biệt. Có thể coi truyện ngụ ngôn này là một vở hài kịch nhỏ có đủ hoàn cảnh, nhân vật và mâu thuẫn kịch.

Mở đầu là cảnh năm thầy bói mù nhân buổi ế khách bèn túm tụm lại ngồi chuyện gẫu với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn là chưa biết hình thù con voi ra sao. Tình cờ đúng lúc ấy, các thầy nghe người ta nói có voi đi qua, bèn chung nhau tiền biếu quản tượng, xin cho voi dừng lại để xem. Vì mù nên năm thầy cùng chung một cách xem voi là sờ bằng tay và mỗi thầy chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà thôi.

Phần mở đầu ngắn gọn nhưng chứa đựng đầy đủ những thông tin cần thiết để thu hút và dẫn dắt người đọc. Nếu coi truyện là một màn kịch thì ở đoạn này, mâu thuẫn kịch đã bắt đầu hình thành và phát triển. Cách xem voi của năm thầy là dùng tay để sờ. Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.

Thầy nào sờ được bộ phận nào thì nhận xét về hình thù “con voi” như thế. Thầy sờ vào vòi cho rằng voi sun sun như con đỉa. Thầy sờ vào ngà bảo voi chần chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ vào tai khăng khăng voi bè bè như cái quạt thóc. Thầy sờ vào chân voi thì cãi: Nó sừng sững như cái cột đình. Bốn nhận định của bốn thầy khác xa nhau nên thầy này phủ nhận ý kiến của thầy kia. Thầy thứ năm sờ vào cái đuôi thì phủ nhận tất cả bốn thầy trước: – Các thầy nói không đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn.

Dựa trên thực tế mà mình “xem” được, mỗi thầy đều đưa ra nhận xét về hình thù con voi bằng hình thức ví von, so sánh. Điều đó làm cho truyện thêm sinh động và có tác dụng tô đậm sai lầm trong cách xem voi và lời “phán” về voi của các thầy. Mâu thuẫn càng lúc càng tăng, không ai chịu nghe ai vì người nào cũng cho rằng mình đúng. Tục ngữ có câu: Trăm nghe không bằng một thấy, Trăm thấy không bằng một sờ. Ở đây, các thầy đã sờ tận tay, thử hỏi còn sai vào đâu được? Do vậy, việc thầy nào cũng khẳng định rằng mình đúng là có cơ sở. Thầy nào cũng đúng nhưng khổ nỗi chỉ đúng với một bộ phận của con voi chứ không đúng với toàn bộ con voi.

Người xưa thật hóm hỉnh khi để các thầy bói mù xem một con vật khổng lồ là con voi. Các bộ phận của nó ở cách xa nhau (vòi, ngà, tai, chân, đuôi) mà các thầy đều bị mù, không thể đi lại dễ dàng. Mỗi thầy lại chỉ sờ được có một thứ nên mới dẫn đến chuyện đấu khẩu bất phân thắng bại.

Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi thầy nào cũng khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình. Cãi nhau mãi không xong tất dẫn đến cuộc ẩu đả quyết liệt, bởi vì cả năm thầy không ai chịu ai. Như vậy là cãi nhau không đi đến đâu, mà đánh nhau càng không thể dẫn đến chân lí khách quan. Cái sai nọ tất yếu dẫn đến cái sai kia. Người đọc tưởng tượng ra cảnh năm thầy bói mù gân cổ cãi nhau rồi quờ quạng đánh nhau mà cười ra nước mắt.Biện pháp phóng đại được sử dụng triệt để trong truyện để tô đậm cái sai về nhận thức của các thầy bói xem voi.

Năm thầy bói đều sờ vào voi thật và mỗi thầy đều tả đúng một bộ phận của voi, nhưng không ai nhận xét đúng về cả con voi. Sai lầm của họ là mỗi người chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà đã nhất quyết cho rằng đó là con voi. Điều đáng buồn cười là các thầy đều sai nhưng ai cũng nhận mình là đúng. Thực ra họ đều sai lầm trầm trọng bởi vì ai đã lấy nhận xét chủ quan về một chi tiết của sự vật để khẳng định, đánh giá toàn thể sự vật và phủ nhận ý kiến của người khác.

Cả năm thầy đều chung một cách xem voi phiến diện, dùng bộ phận để khái quát toàn thể. Truyện không nhằm chế giễu cái “mù” về thể chất (đây chỉ là chi tiết cần có của tình huống truyện), mà muốn nói đến cái “mù” về nhận thức và phương pháp nhận thức của các thầy bói. Cao hơn thế, truyện có ý giễu cợt những người làm nghề xem bói (Thầy bói nói càn). Tiếng cười trong truyện nhẹ nhàng nhưng cũng rất thâm thúy.

Truyện là màn hài kịch ngắn nhưng chứa đựng một bài học bổ ích. Người xưa muốn thông qua truyện để nhắc nhở mọi người khi giao tiếp, vấn đề nào tìm hiểu chưa thấu đáo thì không nên thể hiện quan điểm của mình vì không thể nào có được một nhận xét đúng đắn về thực tế xung quanh (hiện tượng, sự việc, sự vật, con người) nếu chưa tìm hiểu đầy đủ, kĩ càng. Muốn kết luận đúng về sự vật thì phải xem xét nó một cách toàn diện. Những hiểu biết hời hợt, nông cạn, những suy đoán mò mẫm thiếu thực tế… chỉ dẫn đến nhận thức lệch lạc, sai lầm mà thôi.

Qua truyện, người xưa còn ngầm phê phán những kẻ thiếu hiểu biết nhưng lại hay tỏ ra thông thái. Ý nghĩa này được gói gọn trong câu thành ngữ: Thầy bói xem voi.

Đọc Truyện Alibaba Và Bốn Mươi Tên Cướp

Vào thời xa xưa, có một người đàn ông tên là Ali Baba sống ở Persia. Anh ta là một người tiều phu. Anh ta sẽ luôn là một người tiều phu nếu không có một ngày đặc biệt kia.

Một ngày nọ, khi đang đốn củi trong rừng, Ali Baba trèo lên một thân cây để chặt một cành cao. Đột nhiên anh ngừng đốn vì nghe có tiếng vó ngựa. Một nhóm người đang cưỡi ngựa đến. Trông họ có vẻ dữ dằn và giống những tên cướp.

Họ cưỡi ngựa qua bên dưới cành cây mà Ali Baba đang ngồi. Anh có thể đếm có cả thảy 40 người cưỡi ngựa qua. Con số này làm anh suy nghĩ. Một toán 40 tên cướp đi quanh Persia. Chúng cướp đi bất cứ thứ gì và cướp đi mọi thứ mà không quan tâm đến chuyện làm bị thương mọi người.

Bọn đàn ông dừng ngựa gần một vách đá. Mỗi tên cướp kéo một túi nặng trên yên ngựa xuống.

“Vừng ơi, mở cửa ra!” Tên cầm đầu nói.

Một cánh cửa trên vách đá mở ra.

Ali Baba nhìn bọn người này đi vào trong. Khi trở ra, chúng không còn mang túi nữa. Những cái túi đã được để hết ở bên trong.

Tên cầm đầu đi ra ngoài sau cùng và nói “Vừng ơi, đóng lại!”

Cánh cửa đá đóng chặt lại.

Ali Baba nhìn những tên này cưỡi ngựa đi xa. Anh biết đây là một toán cướp nổi tiếng hung hãn. Không ai biết chúng ẩn nấp ở đâu. Anh vừa tìm ra được chỗ nấp của chúng. Anh trèo xuống và đứng trước bức tường đá.

“Vừng ơi, mở ra!”

Cánh cửa mở ra.

Ali Baba bỏ rìu xuống và đi vào bên trong.

Trong động không có nhiều ánh sáng. Anh bước thẳng vào bên trong. Anh nheo mắt để nhìn cho rõ hơn. Khắp sàn nhà đầy những là tiền! Anh bắt đầu tìm tòi khắp hang động. Khắp nơi đầy những vậy quý báu. Những tấm thảm đủ màu, những cái chén bạc, những thỏi vàng, và ngọc ngà châu báu sáng chói. Anh cũng thấy những túi đựng tiền mà bọn cướp đã mang vào. Anh vơ lấy thật nhiều túi.

“Vừng ơi đóng lại!”

Cánh cửa đóng chặt lại.

Ali Baba lên xe ngựa trở về nhà. Khi vợ anh thấy nhiều tiền quá cô ấy đã hốt hoảng.

“Anh đã vi phạm pháp luật và làm bị thương nhiều người rồi ư?” Cô hỏi.

“Không, đây là tiền của bọn cướp,” anh nói. “Chúng làm bị thương nhiều người. Chúng ta phải dùng nó để làm điều thiện.”

Anh kể cho vợ nghe về những tên cướp và nơi ẩn nấp của chúng. Anh kể cho cô nghe về tất cả những thứ mà chúng đã để lại bên trong. Anh không nhận ra là anh cũng đã để quên một thứ gì đó trong hang động. Anh đã để quên rìu của mình… Ali Baba dùng tiền để làm việc thiện. Anh dọn nhà đến nơi ở mới tốt hơn. Anh mở một cửa hiệu bán những thứ đồ tốt với giá rẻ. Chẳng bao lâu sau, nơi đây trở nên sầm uất.

Bốn mươi tên cướp cũng bận rộn không kém. Mãi thật lâu sau bọn chúng mới trở lại nơi ẩn nấp của mình.

“Vừng ơi mở cửa ra!” Tên cầm đầu lại mở cửa.

Cánh cửa mở ra, tên cầm đầu nhận thấy có cái gì đó trên nền hang. Đó là một chiếc rìu. Chiếu rìu này không phải của bọn chúng. Tất cả bọn chúng đều mang dao. Chúng không thèm cướp cái rìu chẳng đáng giá này làm gì. Bọn cướp chạy vào hang và phát hiện ra chúng đã bị lấy trộm.

Tên cầm đầu đi đến bên một tên lanh lợi nhất trong toán.

“Ngươi hãy đi vào trong thị trấn, tìm cho ra một người đàn ông mới giàu lên. Hãy nhớ tên của hắn. Chúng ta sẽ cho hắn một bất ngờ.”

Tên cướp đi vào trong thị trấn. Hắn ăn mặc như một nhà buôn. Nơi đầu tiên hắn ghé qua là cửa tiệm của Ali Baba. Hôm đó, Morgiana đang làm việc cho Ali Baba.

“Tôi là thương nhân,” tên cướp nói. “Nhưng trước kia tôi chưa bao giờ thấy cửa tiệm này cả.”

“Nó mới mở mà,” cô trả lời. “Cửa tiệm này là của ông Ali Baba.”

“Thú vị thật,” tên cướp đáp.

“Tuy vậy hiện giờ ông ấy không ra buôn bán”.

Mogriana không thích cách thương gia này nhìn chút nào cả.

“Tệ thật!” tên cướp nói. “Thế ông ấy có làm chủ những cửa tiệm khác không?”

“Đây là cửa tiệm duy nhất,” cô nói. “Ông ấy chỉ đủ tiền để mở một cửa hiệu thôi.”

Tên thương gia cám ơn Morgiana và mỉm cười. Cô không thích nụ cười đó. Tên này trở về gặp tên thủ lĩnh.

“Tôi đã biết tên hắn. Hắn tên là Ali Baba,” tên cướp nói. “Hắn chỉ lấy một ít tiền thôi. Hiện hắn có mở một cửa hiệu và sống khá sung túc.”

Tên cầm đầu đưa cho tên cướp một mẩu phấn trắng.

“Quay trở lại cửa hiệu của tên Ali Baba và đánh dấu X trên cửa nhà hắn để bọn ta có thể nhận ra. Chúng ta sẽ đột nhập vào trong cửa hiệu và dạy cho tên đó một bài học.”

Khi trời tối, tên cướp quay trở lại thị trấn. Hắn đi đến bên cửa hiệu. Lúc này đường phố hầu như vắng người. Trên đường chỉ còn một phụ nữ đang đi. Tên cướp mỉm cười một mình. Hắn không biết người phụ nữ đang nhìn hắn chính là Morgiana. Cô đã thấy hắn cười. Cô nhớ nụ cười đó. Đó là nụ cười xảo quyệt của tên thương gia. Tên cướp đánh dấu X lên cửa hiệu của Ali Baba rồi quăng viên phấn quay đi tiếp.

Morgiana biết dấu hiệu này sẽ gây tai hoạ cho Ali Baba. Cô nhặt mẩu phấn lên và đánh dấu X lên tất cả các cánh cửa trên con đường.

Mãi thật khuya, tên cầm đầu và toán cướp mới lần vào trong thị trấn. Nhưng lạ quá, tất cả các cánh cửa trên con đường đều có phấn trắng. Bọn cướp không biết phải tấn công vào dâu cả. Chúng rất giận dữ. Tên cầm đầu là giận nhất.

Ngày hôm sau, bọn cướp tổ chức một cuộc họp.

“Có ai đó chơi xỏ chúng ta,” tên cầm dầu giận dữ nói. “Tao có một kế hoạch bảo đảm sẽ thành công.”

Rồi hắn trình bày cho đồng bọn kế hoạch của mình.

Bọn cướp xếp hàng 20 con la, mỗi con la mang hai thùng dầu to. Nhưng những thùng dầu này đều trống rỗng, thay vì thế bên trong mỗi thùng sẽ có một tên cướp. Tên cầm đầu đậy nắp thùng lại rồi choàng một chiếc khăn quàn cổ, đeo râu giả vào. Sau đó hắn dắt bầy la vào trong thị trấn.

Ali Baba nghe tiếng gõ cửa. Khi ra mở, anh thấy một người đàn ông dắt theo 20 con la.

“Tôi có thể giúp gì cho ông?” Ali Baba hỏi.

“Tôi đến thị trấn này để bán dầu,” người đàn ông trả lời. “Nhưng không còn phòng trọ nữa. Không biết ông có vui lòng cho tôi ngủ nhờ trong chuồng ngựa của ông được không?”

“Cứ để mấy con la của ông ngủ trong chuồng ngựa,” Ali Baba nói. “Còn ông thì tôi mời nghỉ trong nhà tôi.”

Gã cầm đầu bằng cướp đồng ý ngay. Ali Baba dắt người đàn ông vào nhà.

“Bữa tối sắp xong rồi,” Ali Baba nói.

Người đàn ông dắt la vào trong chuồng ngựa. Hắn cho mỗi con một ít cỏ khô và nước rồi thì thầm vào trong mỗi thùng đựng dầu.

“Ở yên trong đó cho đến khi nghe tiếng huýt sáo của tao thì nhảy ra tấn công hắn nghe chưa,” hắn nói.

Hắn rời chuồng ngựa và đi vào nhà. Hôm đó, người buôn dầu giả mạo không phải là vị khách duy nhất của Ali Baba. Morgiana cũng ở chung với gia đình của Ali Baba. Khi mọi người đi ngủ, Morgiana không sao ngủ được. Cô đi vào bếp để uống trà. Cô cần một ít dầu để đun nước những chẳng còn chút dầu nào cả. Nhớ đến vị khách buôn dầu, cô nghĩ ông ta sẽ không để ý nếu cô lấy một ít dầu. Cô đi vào chuồng ngựa vặn nắp một thùng dầu. Bên trong thùng phát ra một giọng thì thầm.

“Đến giờ rồi à?” Có ai đó trong thùng hỏi vọng ra.

“Không, chưa đến đâu,” cô thì thầm trả lời.

Morgiana kiểm tra tất cả 40 thùng dầu và nhận thấy có tới 39 thùng đều có người ở bên trong. Tại sao những người đàn ông này lại nấp trong thùng dầu chứ? Cô không hiểu tại sao nhưng cô biết là Ali Baba sắp gặp rắc rối.

Cô suy nghĩ thật nhanh rồi quấn một ít cỏ khô nhóm bếp lên. Cô mở một thùng đựng dầu.

“Yên lặng bước ra nếu không người sẽ bị thiêu cháy ngay,” cô nói.

Gã đàn ông nấp trong thùng vội vàng nhảy ra và bỏ chạy. Cứ thế cô đến từng thùng và lập lại cùng một lời đe doạ khiến cả 39 tên trong thùng bỏ chạy hết.

Một lúc sau tên cầm đầu đi ra huýt sáo. Tất cả yên lặng. Hắn kiểm tra các thùng dầu và nhận ra tất cả các thùng dầu đều trống không. Hắn biết mình đã bị lộ nên cũng bỏ chạy luôn.

Ali Baba cảm ơn sự nhanh trí và dũng cảm của Morgiana. Và phần thưởng của anh dành cho cô chính là một phần hùn ở cửa hàng. Ngoài ra anh còn thuê người bảo vệ gia đình mình.

Tên cầm đầu vẫn theo dõi Ali Baba và những người bảo vệ của anh. Hắn không sao tin được là một kế hoạch như thế lại bị thất bại. Hắn rất giận dữ vì đã đuổi hết bọn lâu la của mình đi. Giờ thì hắn sẽ phải tự liên lạc với Ali Baba.

Tên cầm đầu cạo tóc và lấy một tên mới là Hassan. Hắn mở một cửa hiệu bên cạnh cửa hiệu của Ali Baba và chẳng bao lâu đã trở nên thân thiết với anh. Ali Baba cũng không để ý xem Hassan thật sự là ai.

“Tối nay mời ngài tới dùng bữa tối tại nhà tôi,” Ali Baba nói.

“Không gì làm tôi sung sướng hơn điều đó cả,” Hassan trả lơời

Morgiana cũng đến ăn tối. Cô thấy Hassan khoác một chiếc áo choàng thật đẹp nhưng lại thường xuyên mày mò bên dưới lớp áo. Cô thấy một ánh sáng loé lên. Hắn đang dấu một con dao!

Morgiana biết người đàn ông này. Hắn ta là thương gia buôn dầu giả mạo. Cô phải làm gì đó để bảo vệ Ali Baba.

“Ali Baba,” cô nói. “Tôi sẽ nhảy múa giúp vui cho bạn ông.”

Cô cầm những chiếc khăn quàng cổ và bắt đầu nhảy múa. Cô xoay quanh chiếc ghế Hassan ngồi và dùng những chiếc khăn quàng trói hắn thật chặt.

Morgiana lôi con dao từ trong áo choàng của Hassan ra.

“Người đàn ông này muốn ám hại ông, Ali Baba,” cô nói. “Hắn chẳng phải ai xa lạ mà chính là thương gia buôn dầu giả mạo.”

Những người bỏ vệ Ali Baba bắt Hassan bỏ vào tù. Khi trở về họ báo cho Ali Baba một tin bất ngờ. Hassan chính là tên cướp khét tiếng cầm đầu của 40 tên cướp.

Thế là Ali Baba hiểu ra tất cả. Tên cầm đầu biết anh đã vào được hang của chúng nên muốn làm hại anh cùng gia đình để trả thù nhưng hắn đã thất bại vì Morgiana quá lanh trí.

“Morgiana, cô đã cứu sống cả gia đình tôi,” Ali Baba nói.

“Nếu là ông thì ông cũng làm thế thôi,” cô trả lời.

Cảnh sát trưởng đến thăm nhà Ali Baba và nói: “Nhiều thị trấn đã bị băng cướp này hoành hành nên đã hứa sẽ trọng thưởng cho ai bắt được chúng. Nay ngài đã làm được điều đó nên tiền thưởng này sẽ là của ngài.”

Nói rồi viên cảnh sát trưởng đưa cho Ali Baba một túi tiền thật nặng. Ali Baba cầm và đưa hết cho Morgiana.

“Tôi muốn cô giữ số tiền này,” anh nói.

“Tôi không thể giữ nó được. Số tiền này sẽ cải thiện cuộc sống của ông rất nhiều. Ông có thể dùng nó để mở thêm một cửa hiệu nữa.”

“Cuộc sống của tôi thế này là tốt lắm rồi. Tiền bạc làm sao mua được bạn tốt như cô. Hãy cầm đi và mở cửa hiệu riêng của mình.”

Morgiana nhận túi tiền và sau đó mở một cửa hiệu bên cạnh cửa hiệu của Ali Baba. Cô làm việc rất chăm chỉ và sống hạnh phúc.

Nghe Đọc Chuyện Cổ Tích: Truyện Cổ Tích Sọ Dừa

TRUYỆN CỔ TÍCH SỌ DỪA

Đọc truyện cổ tích Sọ Dừa

Nghe kể chuyện cổ tích Sọ Dừa

Tóm tắt truyện cổ tích Sọ Dừa

Có đôi vợ chồng già, phải đi ở cho nhà phú ông và hiếm muộn con cái. Một hôm bà vợ vào rừng hái củi, uống nước trong cái sọ dừa, về nhà có mang, ít lâu sau sinh ra một đứa bé kì dị, không chân không tay, tròn như một quả dừa. Thấy đứa bé biết nói, bà giữ lại nuôi và đặt luôn tên là Sọ Dừa.

Thương mẹ vất vả, Sọ Dừa nhận thay mẹ chăn đàn bò nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào cũng béo khoẻ. Ba cô con gái nhà phú ông thay nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kênh kiệu thường hắt hủi cậu, chỉ có cô út đối đãi với cậu tử tế. Phát hiện ra vẻ đẹp bên trong cái vẻ kì dị của Sọ Dừa, cô út đem lòng thương yêu. Sọ Dừa nhờ mẹ đến hỏi. Phú ông thách cưới thật to nhưng thấy Sọ Dừa mang đủ đồ thách cưới đến, đành phải gả cô út cho Sọ Dừa. Sọ Dừa hiện nguyên hình làm một chàng trai trẻ đẹp khiến hai cô chị vô cùng ghen tức.

Sọ Dừa thi đỗ trạng nguyên và được nhà vua cử đi sứ nước ngoài. Trước khi đi chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để đề phòng tai hoạ. Sọ Dừa đi vắng, hai người chị tìm cách hãm hại cô út, đẩy cô xuống biển hòng cướp chồng em. Nhờ có các đồ vật chồng đưa cho, cô út thoát chết, được chồng cứu trên đường đi sứ về. Hai vợ chồng đoàn tụ. Hai cô chị xấu hổ, bỏ nhà đi biệt tích.

Đọc cho bé nghe những câu chuyện cổ tích Việt nam và cổ tích thể giới hay nhất

Truyện Cổ Tích Tấm Cám

Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám

Truyện cổ tích Tấm Cám đã rất quen thuộc với nhiều người từ thủa còn nằm trong nôi, phản ánh mong ước thiết tha của nhân dân thời xưa: “Ở hiền gặp lành”. Câu chuyện ngợi ca sức sống bất diệt và sự trỗi dậy mạnh mẽ của con người trước sự vùi dập của cái ác, đồng thời thể hiện niềm tin của nhân dân vào công lí và chính nghĩa.

Hiện nay trên internet có khá nhiều phiên bản khác nhau, Thế giới cổ tích xin giới thiệu bản kể có từ khá lâu, được trích nguồn trong “Văn học trích giảng lớp 7 – phổ thông” – năm 1973 của Đỗ Thận. Bản kể này được xem là gắn liền với tuổi thơ của rất nhiều thế hệ.

Lưu ý khi kể chuyện Tấm Cám

Do đối tượng độc giả của Thế giới cổ tích hướng đến là các bạn nhỏ, nên chúng tôi có sự sàng lọc kỹ lưỡng. Ở phần cuối của truyện cổ tích Tấm Cám không phải là một cái kết đầy “kinh dị” như trong phiên bản gốc.

Có thế vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm và tranh luận khác nhau về vấn đề này, nhưng những người biên tập của Thế giới cổ tích đã rất cân nhắc khi lựa chọn đoạn kết như vậy.

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Bố mất rồi, Tấm phải ở với dì ghẻ[1] là mẹ đẻ ra Cám.

Một hôm, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo đi bắt tôm bắt tép. Mụ hứa rằng: “Đứa nào bắt được nhiều thì tao cho một cái yếm đỏ”.

Tấm và Cám cùng mang giỏ ra đồng. Tấm bắt được nhiều. Cám bắt được ít, Cám bảo chị:

Tấm tưởng thật, hụp xuống. Cám ở trên bờ trút lấy tôm tép của Tấm vào giỏ mình, rồi mang về trước. Tấm lên dòm vào giỏ, thấy mất cả, mới khóc hu hu, Bụt[2] hiện lên rồi hỏi: “Làm sao con khóc?” Tấm kể hết sự tình cho Bụt nghe rồi lại khóc, Bụt bảo Tấm nhìn xem trong giỏ còn gì không? Thì ra còn lại một con cá bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá bống về thả xuống giếng nuôi, và dặn mỗi ngày cho ăn hai lần, mỗi lần một bát cơm. Khi cho bống ăn, phải gọi:

“Bống bống bang bang, Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa[3] nhà người”.

Tấm nghe lời Bụt dặn, đem bống về nuôi. Cứ đến bữa cơm thì hớt một bát, giấu vào thùng gánh nước, mang ra cho bống. Nghe lời gọi dịu dàng của Tấm, bống lại ngoi lên mặt nước ăn cơm. Ít lâu sau, mụ dì ghẻ biết liền sai Cám đi rình. Cám đi rình xem hết đầu đuôi, học lỏm được câu gọi bống, rồi về mách mẹ. Một hôm, mụ dì ghẻ lừa bảo Tấm:

Tấm tưởng thật, nghe lời dì ghẻ, hôm sau dắt trâu đi chăn ở cánh đồng xa làng. Thừa dịp đó, mẹ con Cám đem cơm ra giếng, đổ xuống và cũng lặp lại câu mà Tấm thuoèng nói khi gọi bống. Bống cũng bơi lên mặt nước, thì bị mẹ con Cám bắt lấy mang về làm thịt ăn.

Đến bữa cơm, sau khi ăn xong, theo lệ thường, Tấm mang thùng đi gánh nước và đem cơm cho bống. Nhưng bận này, gọi mãi không thấy bống đâu mà chỉ có một cục máu nổi lên. Thấy vậy Tấm ngồi khóc hu hu. Bụt hiện lên hỏi: “Làm sao con khóc?” Tấm thưa lại sự việc xảy ra. Bụt liền bảo: “Người ta đã bắt bống của con ăn thịt mất rồi. Con về nhà nhặt xương nó, mua lấy bốn cía lọ bỏ vào đấy rồi đem chôn xuống bốn chân giường con nằm”.

Tấm nghe lời Bụt, về nhà tìm xương bống; tìm mãi không thấy. Bỗng có một con gà trông gáy lên rằng:

Tấm lấy nắm thóc ném cho gà. Gà bới một chỗ thì thấy ngay xương cá, Tấm vội nhặt lấy, cho vào bốn cái lọ và chôn xuống chân giường.

Được ít lâu, nhà vua mở hội[4]. Hai mẹ con Cám sắm sửa quàn lành áo tốt đi xem hội. Mụ dì ghẻ không muốn cho Tấm đi, liền trộn một đấu thóc với một đấu gạo, bắt Tấm ngồi nhặt kỳ xong mới được đi. Tấm ở nhà tủi thân lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên hỏi. Tấm kể đầu đuôi câu chuyện, Bụt liền bảo: “Để ta cho một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp cho con”. Tấm sợ chim ăn mất thóc gạo, sẽ phải đòn. Bụt biết ý, nói: “Rồi ta cấm chim không cho nó ăn thóc gạo của con. Con đừng sợ”.

Đàn chim sẻ sà xuống nhặt, chỉ nháy mắt là xong. Nhưng Tấm ngồi vào xó nhà, lại khóc. Bụt lại hỏi: “Làm sao con khóc?” Tấm thưa: “Con không có quần áo đẹp để mặc đi xem hội”. Bụt bảo: “Con đi đào những lọ chôn ở chân giường lên, muốn có quần áo đẹp như thế nào cũng có”. Tấm vui mừng đào các lọ lên, quả nhiên thấy chẳng những là có quần áo đẹp mà còn có cả một đôi giày thêu kim cương[5], một con ngựa hồng rất đẹp. Tấm mừng quá, thắng bộ[6] vào, đi giày, cưỡi ngựa ra xem hội.

Từ đằng xa, Cám trông thấy Tấm ăn mặc đẹp đẽ, vội mách mẹ. Mụ dì ghẻ không tin, nói: “Con Tấm nhà mà mà thắng bộ như thế à? Nó đương ngồi nhặt thóc, còn lâu!”.

Lúc Tấm đi qua bờ hồ, vô ý sẩy chân, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Vừa lúc ấy, voi nhà vua đi qua, bỗng dừng lại kêu rầm rĩ. Vua sai lính lội xuống hồ xem có gì cản trở. Quân lính xuống hồ mò, tìm một lúc, vớt được một chiếc giày đàn bà thêu rất xinh, liền đưa lên trình vua. Vua ra lệnh truyền tin cho tất cả đàn bà, con gái, ai đi xem hội mà ướm[7] giày vừa chân thì vua lấy làm vợ. Các cô thi nhau ướm thủ. Chẳng ai đi vừa cả. Mãi sau đến lượt Tấm, thì giày với chân vừa như in. Vua mừng lắm, sai thị vệ lấy kiệu rước nàng về cung.

Đến ngày giỗ bố, Tấm về nhà làm giỗ. Mụ dì ghẻ lập tâm giết Tấm, bèn sai Tấm trèo lên hái cau để mang cúng bố. Tấm trèo lên gần tới ngọn, mụ ở dưới đẵn gốc cây. Thấy động, Tấm vội hỏi: “Dì làm gì ở dưới ấy thế?” Mụ liền nói dối: “Dì đuổi kiến cho con đấy” và cứ tiếp tục chặt. Tấm đang hái cau thì cây đổ, Tấm ngã xuống ao cạnh đấy, chết đuối. Mụ dì ghẻ vội lấy quần áo đẹp của Tấm mặc vào cho Cám và đưa Cám bào cung[8] thế chị.

Tấm chết hóa ra con vàng anh, bay đến đậu ở vườn nhà vua. Thấy Cám đang giặt quần áo cho vua, chim vàng anh liền hót:

Đến lúc Cám đem phơi, chim vàng anh lại hót:

Vua nghe thấy tiếng chim hót, lạ lắm, bèn nói với chim:

Vàng anh nghe thấy thế, tức khắc bay bào tay áo vua. Từ đó, vua thả chim vào một cái lồng sơn son thiếp vàng, hằng ngày vui chơi với chim, không đoái hoài gì đến Cám nữa.

Cám tức lắm, vội về nhà kể cho mẹ nghe. Mẹ nó xui bắt chim làm thịt ăn. Cám liền về cung sai lính giết chim ăn, rồi vứt lông ra vườn. Lông chim lại hóa ra hai cây xoan đào tươi tốt. Vua thấy cây đẹp, lấy làm thích, sai mắc võng đào[9] để nằm chơi hóng mát.

Cám lại về mách mẹ. Theo lời mẹ xui, Cám lại bắt lính đẵn hai cây xoan xuống, lấy gỗ đóng khung cửi. Nhưng cứ mỗi lần Cám ngồi vào dệt vải thì cái khung cửi lại kêu lên:

Cám sợ quá về nhà mách mẹ, mẹ lại xui sai lính đốt khung cửi đi, rồi đổ tro ra đường cái. Không ngờ đám tro lại hóa ra một cây thị xanh tươi, cây thị chỉ có một quả thật to, thơm nức.

Một hôm, có bà lão hàng nước qua đấy thấy quả thị liền nói:

Bà lão vừa dứt lời, quả thị rụng ngay vào bị. Bà vội vàng mang về nhà, để ở đầu giường, lấy làm quí lắm. Ngày nào bào lão cũng phải đi chợ mua hàng về bán. Cứ mỗi lần ở chợ về, bà lão đều ngạc nhiên, vì thấy có sẵn cơm canh để phần tươm tất, lại có cả chậu nước nữa… Cửa nhà rất sạch sẽ, gọn gàng.

Bà rắp tâm[10] rình xem. Một hôm, đi chợ được nửa đường, bà liền quay trở lại. Gần đến nhà, bà rón rén tới sát của, nhìn qua khe liếp[11], thấy một cô gái đẹp như tiên đang làm bếp. Bà lão mừng quá, chạy vào ôm chầm lấy. Vì lộ cơ[12], cô tiên không biến đi được nữa.

Bà lão tìm quả thị, thì chỉ thấy còn cái vỏ, liền xé vụn ra rồi giấu đi.

Từ bấy giờ, hai người sống với nhau và thương yêu nhau như hai mẹ con.

Một hôm, vua ra hồ dạo chơi, qua hàng nước, thấy có một bà lão phúc hậu, liền ghé vào. Vua bỗng nhìn thấy những miếng trầu têm rất khéo và đẹp, giống như những miếng trầu trước Tấm vẫn têm. Vua mới hỏi bà lão: “Trầu này ai têm?”. Bà lão bảo chính tay bà têm. Nhưng vua gặng hỏi[13] mãi, bà đành thú thật là con gái bà têm. Vua ước ao được xem mặt. Bà lão gọi con gái ra, thì chính là Tấm. Được gặp vợ, vua mừng rỡ, sai quân lính rước về cung.

Về đến cung, Tấm kể rõ sự tình cho nhà vua nghe, nhà vua tức giận sai người đem mẹ con Cám lên xử tội, nhưng Tấm thương cảm, xin nhà vua tha cho họ. Nhà vua truyền chỉ đuổi mẹ con Cám ra ngoài cung. Vừa ra khỏi thành, giông tố ập đến, mẹ con Cám bị sét đánh chết giữa đồng.[14]

Theo bản của Đỗ Thận Nguồn: Văn học trích giảng lớp 7 – phổ thông (1973)

Chú thích trong truyện cổ tích Tấm Cám

Dì ghẻ: cũng là mẹ ghẻ, mẹ kế, tức là người vợ sau của cha kế tiếp người vợ cả đã chết.

Bụt: tức Phật. Theo trí tưởng tượng của người đời xưa, Bụt thường hiện lên để giúp đỡ người tốt gặp phải hoạn nạn.

Cháo hoa: cháo trắng, nấu toàn bằng gạo, hạt gạo nở to ra.

Mở hội: ý nói tổ chức ngày hội vui.

Kim cương: một thứ đá quí, rất cứng và trong suốt, thường dùng làm đồ trang sức… Giày thêu kim cương: giày có đính các hạt kim cương lóng lánh trông rất đẹp.

Thắng bộ vào: ý nói diện quần áo đẹp.

Ướm: thử xem có vừa không.

Cung: chỉ nơi ở của vua, còn gọi là cung cấm, cung điện.

Võng đào: cũng nói võng điều, võng màu đỏ. Đời trước vua quan mới được dùng võng đào.

Rắp tâm: có ý định, lập tâm.

Liếp: phên đan bằng nứa hay tre.

Lộ cơ: ý nói lộ bị mật

Gặng hỏi: cũng nói hỏi gặng, hỏi đi hỏi lại cho kỳ được.

Để phù hợp với lứa tuổi độc giả, Ban Biên tập Thế giới cổ tích đã thay đổi lại nội dung đoạn kết.

Soạn bài Tấm Cám lớp 10

Truyện cổ tích Tấm Cám từ lâu đã được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 10, tập 1. Đây là vừa là truyện cổ tích thần kỳ, vừa là truyện cổ tích thế sự tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Cũng như phần lớn các truyện cổ tích thế sự khác, Tấm Cám đề cao công lí đồng thời là điều mong ước thiết tha của nhân dân lao động thời xưa trong mối quan hệ xã hội là: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

“Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng.”

Về hình thức nghệ thuật, truyện Tấm Cám mang nhiều hình ảnh, chi tiết ý vị, đậm đà màu sắc dân tộc và dân gian: từ hình ảnh các loài vật gần gữi như con cá bống nuôi trong giếng, con gà mái bới xương, đàn chim sẻ nhặt thóc, con voi của nhà vua, con chim vàng anh biết nói… cho tới hình ảnh các loài cây cối quen thuộc như cây cau trong vườn nhà Tấm, cây xoan đào trong cung vua, cây thị bên bờ đường, quả thị của bà lão hàng nước… và cả những hình ảnh các đồ vật hàng ngày như chiếc giỏ xúc tép của Tấm, chiếc khung cửi bằng gỗ xoan đào, cái võng của nhà vua, miếng trầu têm cánh phượng của bà lão hàng nước, và đặc biệt là chiếc giày nạm kim cương xinh đẹp của Tấm, v.v… Tất cả với những hình ảnh đầy ý vị đó đều gắn bó rất mật thiết với từng bước phát triển số phận của Tấm – nhân vật trung tâm trong truyện, và đều để lại cho mọi người những ấn tượng sâu sắc, kì thú, khó có thể quên được.

Ngoài ra, những lời ăn tiếng nói có vần điệu của người và nhận vật trong truyện (gà, chim, khung cửi, quạ…) theo phong cách dân gian lại tạo cho câu chuyện một không khí giao cảm hài hòa giữa thế giới tự nhiên và con người trong thời cổ xưa, do đó có sức lôi cuốn lạ thường đối với người nghe truyện.

Phân tích nhân vật tấm trong truyện Tấm Cám

Mụ dì ghẻ: Cách bóc lột của mụ (dùng cái yếm đỏ để dử Tấm). Lòng độc địa nham hiểm của mụ (bắt bống của Tấm: bống tượng trưng cho cái gì? Lấy rựa đẵn gốc cau, để cho con mình thay Tấm làm Hoàng hậu, giết chim vàng anh, chặt cây xoan đào, đốt khung cửi, kỳ tiêu diệt được Tấm mới thôi).

Tấm: Tính cách hiền lành, chất phác, cần cù, nhẫn nại, yêu lao động, luôn luôn chịu đựng và hy vọng. Tấm đối với bà lão hàng nước, Tấm đối với chồng như thế nào?

Cám: Đại diện cho nhân vật phản diện, ghen ăn tức ở. Là chi em cùng cha khác mẹ, nhưng Cám đã dùng những thủ đoạn nào với Tấm?

Bụt: Bụt tượng trưng cho cái gì? Trong chuyện đời xưa, tại sao thường có sự can thiệp của Trời, Phật, Bụt?

Ông vua: Quan niệm của nông dân trong thời phong kiến đối với vua như thế nào? Tại sao? Tác phong của nhà vua trong truyện (vào quan uống nước, ăn trầu, lập hoàng hậu bất cứ với người giai cấp nào).

Những nhân vật phụ: Gà, Quạ cũng đứng về phe chính nghĩa.

Bố cục khi soạn bài Tấm Cám

Câu chuyện có thể chia làm 4 đoạn chính với nội dung cụ thể như sau:

Đoạn 1: Mẹ con Cám dối trá, cướp công của Tấm

Đoạn này bước đầu giới thiệu với chúng ta các nhân vật chính trong truyện (Tấm, Cám, mụ dì ghẻ và ông Bụt) trong cuộc tranh chấp đầu tiên mở đầu cho mối mâu thuẫn sẽ ngày càng phát triển gay gắt, quyết liệt trong các đoạn sau.

Đoạn 2: Tấm đi dự hội đánh rơi chiếc giày đẹp, được nhà vua kén làm vợ.

Ở đoạn này, kịch tính bắt đầu phát triển cao hơn, dồn dập hơn, chủ yếu qua hai tình tiết chính: một là việc Bụt tận tình giúp đỡ cho Tấm đi dự hội của nhà vua mở, hai là việc Tấm đánh rơi chiếc giày đẹp, là đầu mối cho toàn bộ diễn biến câu chuyện đầy kịch tính và đầy yếu tố kì lạ về sau.

Đoạn 3: Mẹ con Cám gian ác, nham hiểm, quyết tâm hãm Tấm để cướp đoạt hạnh phúc của Tấm.

Trọng tâm của truyện cổ tích Tấm Cám là ở đoạn này. Tình tiết của câu chuyện diễn biến mỗi lúc một phức tạp, sôi nổi, kịch tính của truyện cũng phát triển ngày càng cao hơn, thể hiện cuộc xung đột diễn ra hết sức gay gắt giữa một bên là mrj con mụ dì ghẻ quyết “hủy diệt” cuộc sống của Tấm để cướp đoạt bằng được hạnh phúc của nàng, và một bên là Tấm chống cự lại quyết liệt dã tâm nham hiểm của hai người họ (“Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”…); dù phải “hóa kiếp” tới bốn lần thành chim muông, cây cỏ, cuối cùng Tấm vẫn hiện trở lại thành người để giành lại quyền sống và quyền hưởng hạnh phúc.

Đoạn 4: Mẹ con Cám bị trừng phạt đích đáng.

Tấm hiện hình trở lại thành người và lại được vua đón về cung. Nhưng vẫn còn Cám – đứa em cùng cha khác mẹ hết sức bất nhân bất nghĩa, vẫn còn mụ dì ghẻ cực kì độc ác, nham hiểm; nghĩa là vẫn còn mâu thuẫn và mâu thuẫn càng phát triển lên tới đỉnh cao. Sau bốn lần thất bại liên tiếp, liệu Tấm sẽ đối xử với mẹ con Cám như thế nào? Trừng trị hay khoan dung?