Xác Định Thể Thơ Của Bài Thơ Chiều Tối / Top 3 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Giáo Án Bài Chiều Tối Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực

Soạn giáo án bài Chiều tối Ngữ văn lớp 11 theo phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Thư viện bài giảng Ngữ văn lớp 10-11-12

– Giáo án, SGK Ngữ văn 11, tập 2 – Phiếu học tập

Chuẩn bị của học sinh: Chuẩn bị bài ở nhà theo các yêu cầu sau:

– Đọc lại các tác phẩm đã học trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh – Soạn bài theo hướng dẫn học bài/SGK Ngữ văn 11 tập 2. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

I. Hoạt động 1 – Khởi động Giáo viên yêu cầu học sinh ghi ra phiếu làm việc cá nhân:Nội dung: Kể tên các bài thơ đã học trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, nhớ lại một bài thơ mà học sinh yêu thích nhất.Cách tiến hành: Trong vòng 5 phút, học sinh kể tên các bài thơ và đọc thuộc một bài thơ mình yêu thích nhất. GV giới thiệu bài thơ “Chiều tối”.

– Học sinh kể đúng tên tên các bài thơ đã học trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, đọc được một bài thơ mà học sinh yêu thích nhất.

1. I. Tìm hiểu chungHướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về văn bản

GV yêu cầu tất cả học sinh đọc lướt phần Tiểu dẫn và thực hiện các yêu cầu sau: – Nêu xuất xứ của bài thơ? – Tập thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nào? – Tập thơ gồm bao nhiêu bài, hình thức văn tự của tập thơ? – Nêu hoàn cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ “Chiều tối”?

Sau khi học sinh làm việc cá nhân, đặt câu hỏi, tổ chuyên gia tư vấn, GV nhận xét và chốt lại những kiến thức cơ bản. GV yêu cầu học sinh đọc văn bản, xác định thể loại và phân chia bố cục.

1. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác – Xuất xứ: Bài thơ số 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” + Hoàn cảnh sáng tác: Tập thơ được sáng tác trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam (8/1942 – 9/1943). + Tập thơ gồm 134 bài thơ chữ Hán, hầu hết được viết theo lối thơ Đường luật. – Hoàn cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ: Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ một buổi chiều muộn, trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942.

2. Thể loại, bố cục – Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. – Bố cục: hai phần + Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên + Hai câu sau: Bức tranh cuộc sống

a. 1. Hai câu thơ đầuHướng dẫn học sinh tìm hiểu hai câu thơ đầu

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

GV yêu cầu học sinh làm việc cá nhân trong thời gian một phút (theo kĩ thuật trình bày một phút) và thực hiện yêu cầu: – Khát quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Học sinh trình bày. Giáo viên nhận xét, chốt lại những kiến thức cơ bản.

– Nội dung: Bức tranh chiều tối cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, tinh tế, đồng thời thể hiện được ý chí nghị lực phi thường của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.– Nghệ thuật: Bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh: vừa giàu tính cổ điển vừa mang sắc thái tinh thần hiện đại luôn hướng về sự vận động phát triển tới ánh sáng, tương lai.

III. Hoạt động 3 – Thực hành GV phát phiếu học tập cho học sinh. GV đặt câu hỏi: Qua bài thơ, em học tập được điều gì từ Hồ Chí Minh?

3. Thực hành – Phiếu học tập 2

IV. Hoạt động vận dụng và mở rộng (thực hiện ở nhà) GV yêu cầu học sinh sưu tầm thêm một số bài thơ có hình ảnh cánh chim, chòm mây trong thơ ca trung đại. Vẽ lại bức tranh chiều tối theo cảm nhận cá nhân.

4. Vận dụng và mở rộng

Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối (Mộ)

1.1. Mở bài

– Giới thiệu một cách khái quát về tác giả Hồ Chí Minh

– Giới thiệu về tác phẩm: xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác bài thơ

1.2. Thân bài

– Đi sâu vào phân tích hoàn cảnh sáng tác

Trong lần chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, cả ngày đó là một ngày dài Bác phải đi bộ ở đường rừng núi với xiềng xích còng vào tay chân, đã đến tận tối muộn nhưng vẫn chưa được dừng chân.

Chiều tối – khoảng thời gian chuyển giao từ ngày sang đêm, lúc mà cảm xúc thường có nhiều rung động, đối với Bác một người con xa quê thì tâm trạng lúc này là một nỗi buồn man mác rất khó diễn tả.

– Nơi núi rừng khi trời chuyển tối

Đây là bức tranh đầy ấn tượng với bút pháp thơ ca chấm phá, thêm vào đó là phong vị của phong cách thơ thời Tống mang đầy nét cổ điển, có sự sáng tạo nghệ thuật mang nét riêng của Bác.

– Vẻ đẹp tâm hồn của người làm thơ

Bác xuất hiện rất giản dị, bình thường hòa mình vào với thiên nhiên cảnh vật xung quanh. Với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy, bao nhiêu cảm xúc, khát vọng lại ùa về. Bài thơ còn thể hiện ý chí của Bác – một con người phi thường.

Bác vẽ lên một bức tranh sinh hoạt đời thường, hình ảnh con người xuất hiện trở thành trung tâm của khung cảnh rừng núi vào chiều, thể hiện một cách rõ nét cuộc sống khổ cực của những con người lao động. Từ đó có thể thấy được tình nhân ái, yêu thương nhân loại của Bác.

– Sự vận động các hình tượng trong thơ

Nghệ thuật lặp lại điệp ngữ, làm cho nhịp điệu thơ uyển chuyển, tăng lên ý nghĩa bài thơ, đặc biệt phân tích rõ từ ‘’hồng” trong câu thơ cuối để thấy trong thơ có cảnh sắc, trong cảnh có tâm tư tình cảm của Người.

– Sau phân tích bài thơ Chiều tối và đánh giá và khái quát lại toàn bộ nội dung, ý nghĩa của bài thơ

1.3. Kết bài

Nêu lên cảm nhận khi phân tích bài thơ: về các giá trị nghệ thuật, nội dung và về tâm hồn của Bác – người chiến sĩ, người con xa quê qua bài thơ.

2. Phân tích bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh

2.1. Phân tích về tác giả Hồ Chí Minh

Vốn xuất thân trong  một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước nồng nàn, Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là người có kiến thức uyên thâm, sâu rộng, người ta thường gọi Hồ Chí Minh với cái tên vô cùng gần gũi đó là “Bác Hồ”.Ngay từ thuở  bé, tác giả Hồ Chí Minh đã rất am hiểu về văn học cũng như văn hóa của các nước phương Đông và phương Tây. Ban đầu khi còn nhỏ tác giả học chữ Hán, sau đó học chữ quốc ngữ và còn thông thạo rất nhiều thứ tiếng khác.

Là người có tinh thần yêu nước và tham gia hoạt động cách mạng hăng say: Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng Bác lên đường ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng thời gian sau đấy vào năm 1918 – 1922, Bác hoạt động cách mạng ở Pháp, tích cực viết sách, viết báo với mục đích tuyên truyền tinh thần đoàn kết các dân tộc thuộc địa và chống lại chủ nghĩa thực dân. Năm 1923 – 1941, Bác hoạt động cách mạng chủ yếu tại Trung Quốc, Liên Xô, Thái lan. Trong quá trình hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị giam giữ tại nhà ngục ở Trung Quốc vào năm 1942 – 1943. Chưa một lần bỏ cuộc, Bác kiên trì trên con đường đi tìm lý tưởng cách mạng chân chính của mình, và đến ngày 2- 9 -1945, bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta đã được Bác đọc dưới sự chứng kiến hân hoan, mừng rỡ của nhân dân cả nước.

Hồ Chí Minh vừa là nhà thơ, nhà văn và cũng là nhà cách mạng lớn của dân tộc, với vô vàn tác phẩm thơ văn đã trở thành di sản quý giá của dân tộc. Phần lớn các tác phẩm văn học của Bác được chia thành các mảng như truyện, kí, văn chính luận và thơ ca. Các tác phẩm đều có phong cách nghệ thuật riêng, mang đậm phong cách của Hồ Chí Minh, Bác luôn chú ý đến cảm xúc của người đọc, luôn có quan điểm rằng tác phẩm văn học phải thật sự chân thật, vì vậy Bác rất quan trọng đến lối biểu đạt, cách thể hiện, không viết quá xa lạ, nặng nề, cầu kì.

2.2. Phân tích bài thơ Chiều tối

– Hoàn cảnh ra đời

Đây là một bài thơ được trích ra từ tập “Nhật kí trong tù”, được Bác sáng tác trong khoảng thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Nguồn cảm hứng chính để Bác sáng tác ra bài thơ này chính là lúc chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.

– Bài thơ “Chiều tối”

 Hai câu đầu thể hiện bức tranh thiên nhiên rừng núi bao la, hai câu thơ cuối thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu đất nước của Bác.

– Giá trị nội dung của bài thơ

Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên ý chí lạc quan trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt của người chiến sĩ – nhà thơ Hồ Chí Minh.

– Giá trị nghệ thuật của bài thơ

Bài thơ mang đậm nét đặc trưng của thơ cổ điển, nhưng có pha thêm phần hiện đại.

3. Văn mẫu phân tích bài thơ Chiều tối tham khảo

3.1 Bài văn mẫu phân tích “Chiều tối” số 1

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu, đối với mỗi người dân Việt Nam đây là cái tên được ghi tạc trong tim với lòng kính yêu và tôn trọng vô bờ bến. Trên con đường đi theo lý tưởng cách mạng, tìm lại tự do cho dân tộc, Người đã phải chịu không ít những khó khăn, gian khổ, rất nhiều lần đã bị bắt và bị tra tấn, đánh đập dã man. Tuy nhiên, ở con người ấy dù trong bất kì hoàn cảnh nào vẫn luôn hiện hữu một tinh thần lạc quan, yêu đời mà không gì có thể dập tắt nổi. Phân tích bài thơ Chiều tối một trong những tác phẩm nằm trong tập “Nhật kí trong tù”, được Người sáng tác khi bị bắt giam đã phần nào thể hiện lên tinh thần đáng quý đó. Bài thơ tập trung thể hiện hình ảnh con người lao động trong khung cảnh một buổi chiều tà, nhưng ở bài thơ đó người đọc lại bắt gặp được một tư tưởng lớn lao, khát vọng tự do, ước mơ có thể trở về quê hương yêu dấu để hoàn thành sứ mệnh cao cả của Người.

Bài thơ được Bác sáng tác khi bị giam tại Trung Quốc và trong ngày chuyển lao từ nhà tù Tĩnh Tây đến nhà tù Thiên Bảo. Trong mắt người tù binh chân tay đang mang nặng xiềng xích, khung cảnh buổi chiều được hiện lên như sau:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

Buổi chiều là khoảng thời chuyển giao giữa ngày sang đêm, khi mà người ta muốn được đoàn tụ với gia đình, và đây cũng là khoảng thời gian khiến người ta cảm thấy vô cùng lạc lõng, cô đơn nếu như phải xa nhà. Những chú chim sau một ngày bay mỏi cánh kiếm ăn cũng đã bắt đầu trở về ngôi nhà của chúng. Trên bầu trời chỉ còn những chòm mây lẻ loi lững lờ trôi. Trong thời khắc đấy, giữa thiên nhiên hùng vĩ bao la, tất cả mọi thứ đều như đang dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn đang nhẹ nhàng trôi đi, điều này càng làm nổi bật lên một khung cảnh vô cùng yên lặng, êm cả nhưng lại buồn tẻ của rừng núi khi trời vào tối.

Bác cũng giống như chính chòm mây đó, vẫn đang lặng lẽ bước đi một cách đơn độc. Chòm mây một mình cô đơn giữa bầu trời bao la, Bác cũng cô đơn giữa một đất nước xa lạ. Tuy nhiên, Bác hẳn là người có một tình yêu đặc biệt với thiên nhiên, có một tâm thái bình tĩnh, ung dung, lạc quan, yêu đời mới có thể vượt qua khỏi sự xiềng xích của gông cùm để có thể hòa mình vào thiên nhiên và có một cái nhìn về thiên nhiên đặc biệt như thế. Dù thân xác mệt mỏi, đau đớn rã rời vì vất vả đi cả một ngày, nhưng Bác vẫn hướng mắt để nhìn những chú chim bay về tổ, những đám mây nhẹ nhàng trôi lúc chiều tà.

Tuy chỉ qua hai câu thơ ngắn gọn nhưng người đọc đã hoàn toàn có thể hình dung và tưởng tượng ra khung cảnh chiều tà nơi núi rừng bao la, mênh mông, vắng vẻ, âm u, quạnh hiu. Đồng thời  cũng làm cho người đọc thấy rõ được một niềm khát khao, mong ước vô cùng lớn lao muốn được tự do trở về quê nhà của Bác.

Trong cái khung cảnh thiên nhiên bao la, mênh mông, đượm nỗi buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi vắng vẻ ấy bỗng nhiên xuất hiện hình bóng của con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

Giữa bốn bề thiên nhiên buồn như trong thơ cổ ấy, hình ảnh cô sơn nữ xuất hiện như một điểm sáng, làm cho bức tranh ảm đạm bỗng trở nên vui tươi, sinh động hơn. Đó chính là nét cố điển hiện đại mà chỉ trong thơ của Hồ Chính Minh mới có. Bức tranh vừa vẽ lên con người, vừa thể hiện hoạt động khỏe khoắn của một con người lao động, trong đó cô thôn nữ đang miệt mài với công việc xay ngô, cô ngồi xay ngô bên lò than đang cháy hồng để chuẩn bị cho bữa tối.

Ở bản dịch thơ không thể đảm bảo được nghệ thuật mà Bác đã sử dụng trong bản tiếng Hán, Bác đã dùng nghệ thuật lặp từ, lặp lại hai lần từ “Bao túc” ở cuối câu thơ thứ ba và đầu câu thơ cuối, như chính những vòng xoay, như sự tuần hoàn của không gian, thời gian ám chỉ trời đang tối dần và tối dần.

Bức tranh đó hiện lên vừa ấm áp, vừa gần gũi từ hình ảnh của cô thôn nữ lao động khỏe khoắn và từ hình ảnh của ánh lửa hồng ánh ra từ bếp lò. Đó chính là một cảm xúc hạnh phúc đến bình dị, Bác đã gạt bỏ hết những mệt mỏi, đau đớn về thân xác để cảm nhận được cảm xúc đó.

Nhà văn Nam Cao đã từng nói rằng: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác.” Để thể hiện rằng, mỗi con người đều luôn lo lắng cho bản thân mình nhiều hơn là lo cho người khác. Thế nhưng ở đây, Bác – một con người với bao nỗi lo cho dân tộc, cho đất nước vậy mà Bác vẫn còn tâm trí để quan tâm đến những thứ bình dị, nhỏ nhặt xung quanh. Đó chính là nhân cách cao đẹp, đức tính vô cùng đáng quý của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta.

Khi phân tích bài thơ Chiều tối chúng ta sẽ thấy rằng đây là một bài thơ tiêu biểu của Hồ Chí Minh thể hiện một nét đẹp vừa cổ điển vừa mang nét hiện đại. Bài thơ không chỉ đơn giản là vẽ lên bức tranh thiên nhiên cũng như con người nơi xóm núi vào lúc chiều tà, mà còn ẩn sâu trong đó tâm tư tình cảm của Bác, niềm khát khao tự do và mong ước được trở về quê hương đất nước, sum họp với gia đình. Đồng thời người đọc cũng có thể nhận thấy được, ở Người luôn mang một vẻ đẹp lớn lao của tinh thần nồng nàn yêu nước, một trái tim ấm áp, giàu lòng yêu thương, dù ở bất kì hoàn cảnh gian khổ khó khăn nào vẫn luôn quan tâm đến mọi thứ xung quanh.

Tóm tắt: Đọc bài phân tích bài thơ Chiều tối chúng ta sẽ thấy rõ tâm hồn của Bác, cho người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người vượt qua một hoàn cảnh khó khăn gian khổ.

3.2 Bài văn mẫu số 2 phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ “Chiều tối” 

“Đi khắp đèo cao khắp núi cao

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao

Núi cao gặp hổ mà vô sự

Đường phẳng gặp người bị tống lao”

(Đường khó khăn)

Hồ Chí Minh đã viết những câu thơ này khi bị bắt giam tại nhà lao Tưởng Giới Thạch, trong thời gian đó, Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” ghi lại những gian khổ, khó khăn mà mình đã trải qua. Nhưng dù có khó khăn, đày đọa, ở người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn ngời sáng một niềm tin và ý chí cách kiên cường. Tinh thần thép này được thể hiện ở rất nhiều tác phẩm trong đó tiêu biểu nhất phải kể đến là “Chiều tối”. Đọc bài thơ, ta thấy được nét hiện đại và cổ điển cùng với vẻ đẹp tâm hồn của vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Bài thơ “Mộ” (Chiều tối) là bài thơ thứ 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” gồm 134 bài thơ. Bài thơ được sáng tác trên đường bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây tới nhà lao Thiên Bảo, trong một buổi chiều tối tại một vùng rừng núi bao quanh. Trong thơ vừa có nét cổ điển mà ta vẫn thường bắt gặp trong thơ Đường, cũng vừa có nét hiện đại của người chiến sĩ cách mạng.

Trước tiên nét cổ điển của bài thơ được thể hiện qua hai câu thơ đầu:

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Cảnh chiều tối vốn là một cảnh quen thuộc trong thơ cổ, nhiều nhà thơ đã chọn khung cảnh buổi chiều tối, khi ánh mặt trời vừa tắt để thể hiện tâm trạng buồn man mác của mình. Trong bài thơ “Cảnh ngày hè”, buổi chiều tối với Nguyễn Trãi là ánh dương còn sót lại trên “lầu tịch dương”: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, Lý Bạch xưa cũng từng lấy hình ảnh cánh chim và chòm mây để vẽ lên bức tranh chiều tối:

“Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn”

(Chim bầy vút bay hết

Mây lẻ đi một mình)

(Độc tọa kính Đình Sơn_Lý Bạch)

Hay trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta cũng nhiều lần bắt gặp bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà nơi đèo núi “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà lảng bảng bóng hoàng hôn”. Hay trong “Tràng Giang”, Huy Cận cũng dùng hình ảnh cánh chim nghiêng để diễn tả khoảnh khắc ngày tàn: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”.

Nếu như trong thơ cổ, cảnh chiều thường gợi một cảm giác buồn mênh mông, vô định thì trong thơ Bác, cánh chim và chòm mây dường như thể hiện rất rõ tâm trạng của con người gửi gắm trong đó. Cánh chim “mỏi” hay chính người tù đang cảm thấy mỏi mệt sau một ngày dài bị đày lao, đi những chặng đường dài. Hành trình tìm một nơi chốn nghỉ ngơi sau một ngày dài kiếm ăn vất vả phải chăng chính là niềm mong mỏi của Bác có một chốn nghỉ chân khi buổi chiều đã dần buông xuống.

Hồ Chí Minh dường như thấy được chuyển động bên trong của cảnh vật, từ “cánh chim mỏi” đến chòm mây “lẻ loi”. Bút pháp cổ điển chấm phá, hình ảnh ước lệ tượng trưng là hình ảnh ta vẫn thường bắt gặp trong thơ cổ, nay đã được thể hiện rất xuất sắc trong thơ Bác. Qua đó, ta thấy được bức tranh thiên nhiên núi rừng rộng lớn, thoáng đãng, đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên của Bác, dù cho có mỏi mệt nhưng tầm mắt vẫn hướng lên trời cao với một tư thế hiên ngang để cảm nhận sức sống của từng cảnh vật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, Hồ Chí Minh bằng bút pháp cổ điển đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tối, đồng thời phần nào thể hiện tâm trạng của người tù cách mạng thì ở hai câu thơ cuối bằng nét vẽ hiện đại, nhà thơ đã tập trung làm nổi bật bức tranh cuộc sống con người mà trung tâm của bức tranh ấy chính là vẻ đẹp của người lao động bình dị:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

(Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng)

Bức tranh thiên nhiên đã không còn vẻ buồn, u tối, lạnh lẽo mà trở nên sinh động hơn, có sức sống hơn, ấm áp hơn. Bức tranh cảnh vật đã nhường chỗ cho bức tranh cuộc sống con người, thời gian đã có sự chuyển biến từ chiều sang tối mặc dù trong câu thơ không hề có một chữ “tối” nào được nhắc đến.

Hai câu thơ là vẻ đẹp hiện đại của bức tranh sinh hoạt bình dị, trung tâm bức tranh là cô em gái xóm núi đang thực hiện công việc hàng ngày là “xay ngô tối”, công việc vất vả, nặng nhọc nhưng ta lại cảm nhận được niềm vui, sự hăng say của người lao động khi thực hiện công việc đó.

Hình ảnh “lò than đã rực hồng” đã thể hiện sự vận động của thời gian, từ tối chuyển sang đêm. Chữ “hồng” ở cuối bài chính là nhãn tự của bài thơ, vừa gợi lên sự ấm áp, vừa gợi một nét tươi sáng, ở thời điểm sáng tác bài thơ, ta có thể xem như đây là cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng hay chính là thắng lợi của cách mạng.

Trong nhiều bài thơ khác, Bác cũng từng nhắc về chữ ‘hồng”, điều này thể hiện một tinh thần lạc quan, luôn hướng về ánh sáng:

“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”

(Tảo giải)

hay:

“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc

Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài

Trong ngục giờ đây còn tối mịt

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”

Thành công của Bác chính là việc kết hợp hài hòa chất cổ điển và nét hiện đại trữ tình, giữa tâm hồn thơ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và tâm hồn của một người lính cách mạng kiên cường, lạc quan, luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Tác phẩm “Chiều tối” đã thể hiện rất rõ tài hoa của Người cũng như tâm hồn đẹp, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, chính vì nét đẹp sáng ngời trong tâm hồn Bác mà Tố Hữu đã từng viết:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông trọn kiếp người”

Những vần thơ của Bác sẽ vẫn sống mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam thế hệ bây giờ và cho mãi về sau.

Bình Giảng Bài Thơ Chiều Tối Của Hồ Chí Minh

Những năm 40 của thế kỉ này, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

(Chiều tối – bản dịch)

Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con Người: Bác Hồ kính yêu!

Buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim. Khung cảnh chiều về tối thường gợi nên chất thơ đặc sắc, nỗi buồn lắng đọng, suy tư về nhân sinh. Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày. Cảm xúc trên đường đi của Bác đã lộ rõ cốt cách của thi nhân – chíên sĩ Hồ Chí Minh. Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí – Đỗ, của Thôi Hiệu, e cũng khó phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi! Nhưng đọc thật kỹ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng – phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại.

Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng:

Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)

Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Ngày xưa Lí Bạch từng mô tả không gian “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn”, và chúng ta có thể nhận ra nét quen thuộc ấy trong những câu thơ này của Hồ Chí Minh. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người!Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Buổi chiều ấy dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Rất tiếc bản dịch thơ đã không thể lột tả được khoảnh khắc rất thi sĩ của Bác trong điệp từ “mạn mạn” này! Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhoà ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Tinh thần “tự do lãm thưởng vô nhân cấm” (Tẩu lộ) chính là ở điểm này.

Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” (ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:

Chùa xa chuông giục người nhanh bước

Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay

(Hoàng hôn)

Hay:

Làng xóm ven sông đông đúc thế

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh

(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)

Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiện của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng lộ rõ hơn.

Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sống. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác – màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai.

Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sống, vừa cổ điển vừa lãng mạn.

Ta nhận ra trong nỗi buồn, niềm vui của Bác phẩm chất của một vĩ nhân: rất bình thường, giản dị nhưng mỗi câu thơ toả sức ấm của một ý chí mãnh liệt và sáng bừng lên hồng bao thế hệ, sự hài hoà giữa tình cảm và tinh thần thép đã làm nên những vần thơ sâu sắc thâm trầm.

Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh – Bài làm 2

Năm 1990, nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh (1890-1990) Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là “vị anh hùng giải phóng dân tộc và là một nhà vân hóa lớn”. Chỉ xét riêng về sự nghiệp văn chương, Người xứng đáng là nhà văn, nhà thơ lớn của nước ta. Trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam (từ mùa thu 1942 đốn mùa thu 1943), Người đã sáng tác tập thơ Nhật kí trong tù gồm 133 bài. Trong tập thơ ấy có bài Chiều tối (Mộ) rất đặc sắc:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, , Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không, Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết y lò than đã rực hồng.

Chỉ vài nét chấm phá, Hồ Chí Minh đã vẽ được một bức tranh tả cảnh chiều tối mênh mông mà đầm ấm.

Câu khai và câu thừa là bức tranh thiên nhiên chiều tối:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ.

Ở đây, thời gian là chiều tối (Bác chỉ nói ở tựa đề, không nói lại trong bài thơ). Còn không gian thì rất vắng vẻ, bao la. Hình ảnh cánh chim mỏi xuất hiện trong thơ Bác tuy quen thuộc, tuy có chút buồn nhưng không bơ vơ, lạc lõng mà ấm áp vì chim “về rừng tìm cây ngủ” – chim bay về tổ. Đặc biệt, chỉ nhìn một cách chim đang bay, Bác lại thấu hiểu được “chim mỏi” (quyện điểu). Hơn nữa, Bác còn khẳng định chim sẽ “về rừng tìm cây ngủ” (quy lâm tầm túc phụ). Phải là con người vô cùng thương yêu loài vật, hiểu nhiều về loài vật mới có sự cảm nhận tinh tế như vậy. Rõ ràng Hồ Chí Minh có một tấm lòng nhân đạo bao la. Ở câu sau, cảnh lại buồn hơn:

Chòm mây trôi nhẹ giữ tầng không

“Cô vân” là chòm mây lẻ, chòm mây đơn độc. Cụm từ này gợi cảm giác buồn bả, cô liêu. Nhưng liền sau đó, Bác viết “mạn mạn” lững lờ) và “độ thiên không” (trên tầng không) thì câu thơ lại mở rộng một không gian thoáng đãng, bát ngát.

Như vậy, ở hai câu đầu, chỉ vài nét chấm phá đơn sơ: một cánh chim, một chòm mây, núi rừng và bầu trời Hồ Chí Minh đã vẽ được một bức tranh tuyệt đẹp mang màu sắc cổ điển phương Đông. Bác dùng hình ảnh ước lệ “chim mỏi về rừng” để nói đến hoàng hôn. Bác lấy điểm để tả diện – tả “chòm mây lẻ” để gợi cái vô cùng của bầu trời. Bác lấy chuyển động để nói sự ngừng nghỉ. Bác lấy không gian để tả thời gian. Thật điêu luyện làm sao! Thật tài hoa làm sao! Bên cạnh đó, cảnh chiều tối trên bức tranh thơ như đượm một nỗi buồn hắt hiu, gợi đến cho chúng ta cảnh tù nhân bị giải đi giải lại, bóng chiều đã buông xuống nhưng chưa được dừng chân. Dường như, trong chiều sâu của ý thơ còn “hé mở cho ta nhìn thấy một thoáng ước mơ thầm kín về một mái nhà ấm, một chỗ dừng chân trên con dường dài muôn dặm của Hồ Chí Minh.

Nếu như câu khai, câu thừa là bức tranh thiên nhiên chiều tối, thì câu chuyển và câu hợp là bức tranh sinh hoạt của con người. Cảnh chiều tối bất ngờ rực sáng, ấm áp bởi những hình ảnh của cuộc sông đời thường:

Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết, lò than đã rực hồng.

Trên bức tranh thơ hiện lên hình ảnh cô thiếu nữ thôn quê đang lao động hăng say, cần mẫn. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn và lối đảo ngược khéo léo “ma bao túc y bao túc ma hoàn” ở cuối câu ba và bốn đã thể hiện được vòng quay đều đặn của một chiếc cối xay, gợi nên nhịp điệu cuộc sông êm đềm, mộc mạc nơi rừng núi âm u, tĩnh mịch. Chính vì thế mà chất thơ trở nên độc đáo – chất thơ của nhựa sống vần vật, khỏe khoắn, trẻ trung. Đặc biệt, “lò than rực hồng” là hình ảnh thi vị, yên vui, ấm cúng, tươi sáng, lan tỏa. Do đó câu thơ xay hết lò than đã rực hồng” vừa xinh xắn, vừa gợi cảm. Đồng thời câu thơ này đã miêu tả được cảnh trời đã tối hẳn. Như vậy, Hồ Chí Minh đã lấy ánh sáng để nói tôi (Nguyên tác không nói tối mà diễn tả được cảnh trời tối). Nghệ thuật tả cảnh của Bác thật tinh tế.

Mặt khác, sự chuyển đổi bất ngờ của mạch thơ: từ tĩnh sang động, từ tối sang sáng, từ thiên nhiên sang con người, từ buồn vắng sang ấm áp, nhất là màu sắc và ánh sáng của lò than rực hồng kết thúc bài thơ đã xua đi cái lạnh lẽo, cái lẻ loi, cái tĩnh mịch, cái buồn bã của chiều tối vùng sơn cước. Đây là cái mô típ thường gặp trong thơ của Hồ Chí Minh, bởi lẽ tư tưởng và hình tượng luôn vận động để hướng đến sự sống và đón lấy ánh sáng, chớp lấy tương lai. Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ cũng là ở đó.

Tóm lại, Chiều tối của Hồ Chí Minh là một bài thơ vượt thời gian. Cùng với Đêm lạnh, Hoàng hôn, nếu đặt Chiều tối lẫn vào trong những tập thơ của những thi nhân đời Đường, đời Tông thì cũng khó mà phân biệt được. Bài thơ Chiều tối đã thể hiện một bước tổng hợp mới của thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ có sự kết hợp một cách nhuần nhị vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, chất thép và chất trữ tình, lãng mạn và hiện thực, trữ tình và tự sự cũng như sự hòa hợp giữa con người chiến sĩ và thi sĩ.

Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh – Dàn ý

A. MỞ BÀI

– “Chiều tối” là một trong những bài thơ tức cảnh hay nhất của Hồ Chí Minh trong tập “Nhật kí trong tù”.

– Bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của con người trong cảnh chiều ở một xóm núi hoang vu. Qua đó ta thấy được một tâm hồn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai; một tấm lòng nhân hậu, nhạy cảm, tinh tế, giàu cảm xúc của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí minh (Trích dẫn bài thơ).

B. THÂN BÀI

1. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên trong cảnh chiều muộn

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”.

* Cảnh vật:

– Cánh chim mệt mỏi đi tìm chốn ngủ: Hình ảnh thơ mang tính ước lệ cổ điển thường gặp trong thơ ca cổ.

+ “Chim bay về núi tối rồi” (ca dao)

+ “Chim hôm thoi thóp về rừng” (Nguyễn Du)

– Chòm mây trôi lẻ loi giữa bầu trời -” Thời gian như ngưng đọng, cảnh vật thật yên tĩnh, vắng lặng.

* Tâm trạng thi nhân:

– Cảnh buồn phù hợp với tâm trạng của nhà thơ: một mình bị tù đày nơi đất khách, trải qua một ngày chuyển lao cực khổ, trong lòng canh cánh nỗi nhớ quê hương, đất nước.

– Trong hoàn cảnh chuyển lao mệt mỏi, lại bị gông cùm, xiềng xích nhưng Người vẫn cảm nhận dược vẻ bình yên, thanh thản của cảnh vật với phong thái ung dung, nhàn tản, tâm hồn lạc quan yêu cuộc sống, gắn bó với thiên nhiên. Khát vọng tự do ẩn trong ánh mắt dõi theo cánh chim trời, làn mây trôi…

2. Hai câu kết: Bức tranh sinh hoạt của con người .

(Một đặc điểm độc đáo, in đậm trong nhiều bài thơ của Bác là mạch thơ hình ảnh luôn vận động một cách khoẻ khoắn và bất ngờ, luôn hướng tới sự sống, ánh sáng và tương lai. Hai câu kết của bài thơ đột ngột chuyển mạch, chuyển cảnh, chuyển ý, chuyển hình…)

* Cảnh vật: Bức tranh mới sáng, đẹp, ấm áp và tràn đầy sức sống:

– Hình ảnh “cô em xóm núi” đẹp trong sự siêng năng, chăm chỉ, khỏe mạnh nhưng công việc có phần nặng nhọc, vất vả “xay ngô tối”.

– “Lò than đã rực hồng”

+ Dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối: Lò than rực hồng báo hiệu trời đã tối hẳn -” cảm nhận hết sức tinh tế.

* Tâm trạng thinhân:

– Cảnh thơ sáng lên một niềm tin ấm áp. Đó là tấm lòng nhân hậu bao la, một tinh thần lạc quan, một bản lĩnh phi thường của người tù người chiến sĩ cách mạng vĩ đại: Hồ Chí Minh.

C. Kết bài

Bài thơ “Chiều tối” không chỉ miêu tả cảnh chiều muộn nơi sơn cước với cánh chim, làn mây và cuộc sống lao động của con người. Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình có tấm lòng yêu thương rộng lớn, luôn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tấm lòng lạc quan, luôn hướng về tương lai vàánh sáng. Bài thơ còn cho ta thấy tài nghệ sắc sảo độc đáo cả Bác trong một bút pháp riêng: hòa hợp màu sắc cổ điển và hiện đại.

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ “Chiều Tối” Của Hồ Chí Minh

Đề bài: Cảm nghĩ về bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh

Tập thơ “Nhật ký trong tù” được tác giả Hồ Chí Minh viết trong những ngày tháng bị bắt giam ở nhà tù Tưởng Giới Thạch những năm 1942-1943

Tập thơ thể hiện tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên hoa lá của tác giả Hồ Chí Minh. Tuy trong hoàn cảnh mất tự do chịu nhiều khổ cực nhục hình bởi cảnh tù đày nhưng trái tim Bác vẫn dạt dào cảm xúc với quê hương, thiên nhiên xung quanh mình.

Tâm hồn của người luôn hướng về tự do, về một ngày mai tươi sáng cho quê hương cho dân tộc của mình, mặc dù trên con đường đi đó có nhiều gian nan khó khăn đang đợi nhưng trái tim người cách mạng không bao giờ sờn lòng.

Bài thơ “Chiều tối” được viết khi tác giả Hồ Chí Minh bị áp giải từ nhà lao này tới nhà lao khác. Nó thể hiện một hành trình nhiều vất vả, nhưng dù mệt mỏi gông cùm về thể xác thì tâm hồn tác giả vẫn vượt ra ngoài sự xiềng xích kia.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Hai câu thơ gợi lên một bức tranh hoàng hôn khi bóng chiều bao phủ vô cùng tươi đẹp. Một không gian vô cùng bao la, những tia nắng dần tắt, những đám mây đang lững lời trôi theo làn gió vô định giữa tầng không. Những cánh chim rừng “mải miết kiếm tìm thức ăn sau một ngày vất vả, cuộc sống mưu sinh với nhiều khó khăn, giờ đây chúng đang tìm về tổ ấm của mình.

Thiên nhiên được phác họa qua hai câu thơ này vô cùng trong trẻo, tươi đẹp và thơ mộng, thể hiện một không gian mênh mang, bát ngát, nhưng gợi lên trong lòng người đọc một chút buồn man mác.

Hai câu thơ được sử dụng phong cách miêu tả vô cùng đậm đà chất cổ điển trong thơ cổ, nhưng lại có sự mới mẻ trong cách sử dụng từ ngữ chỉ thường gặp ở Hồ Chí Minh.

Lấy cánh chim chiều để nói lên cảnh nắng chiều buông xuống, hoàng hôn đang bao phủ cảnh vật xung quanh, tất cả tạo nên một nỗi buồn cho những con người đang sống cảnh viễn xứ xa hương. Nó gợi lên cho tác giả và người đọc những cảm xúc le lói buồn.

Tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng những hình tượng vô cùng quen thuộc như đám mây, cánh chim, cảnh hoàng hôn để nói lên sự cô đơn, lạc lõng của con người trước thiên nhiên bao la, hoang sơ, vĩ đại.

Hình ảnh chú chim chiều mải miết kiếm ăn vất vả cả một ngày giờ đây mỏi mệt muốn tìm nơi bình yên, nơi tổ ấm của mình để trú ẩn. Phải chăng người tù, sau một ngày bị áp giải mệt mỏi, chân tay bị gông cùm xiềng xích tác giả cũng muốn có nơi chốn nghỉ ngơi, một nơi thật bình yên của mình.

Trong câu thơ tác giả đã kết hợp giữa hiện đại và cổ điển để nói lên khát khao tự do, cần nơi bình yên, một mái ấm thật sự của mình.àm súc dư ba của thơ cổ điển.

Đồng thời nó cũng nói lên nỗi lòng nặng trĩu của tác giả khi nhớ về quê hương đất nước không biết khi nào mình mới được tự do để trở về nơi quê nhà. Tác giả cũng buồn khi người dân quê mình vẫn còn lầm than với kiếp nô lệ, thuộc địa của mình. Con đường cách mạng giải phóng dân tộc vẫn còn dang dở.

Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng

Trong hai câu thơ này tác giả sử dụng hình ảnh con người để làm cho bài thơ trở nên sống động hơn. Hình ảnh người con gái hăng say lao động mải miết với công việc của mình mà quên đi thời gian, là một hình ảnh vô cùng tươi đẹp, làm sáng bừng cả bài thơ.

Bên cạnh cô gái đó là chiếc bếp lò rực lửa, màu hồng của lò than gợi lên sự ấm áp, gợi sức sống cho toàn bài thơ. Đồng thời nó cũng gợi lên sự bình yên trong cuộc sống lao động tự do sản xuất.

Lò than rực lửa hồng chính là hình ảnh vô cùng đặc sắc của bài thơ. Chữ “hồng” được xem là nhãn tự, là đôi mắt của toàn bộ bức tranh này. Nó sưởi ấm thiên nhiên hoang vu, lạnh lẽo, gợi lên trong lòng con người cuộc sống miền thôn quê giản dị nhưng tự do hạnh phúc.

Hơi ấm của lò than làm ấm áp không gian xung quanh tạo nên một vẻ đẹp trẻ trung, căng tràn sức sống, làm cho cả bài thơ chợt bừng tỉnh sau những cơn ngủ đông dài u ám.

Thông qua sự quan sát tài tình, tỉ mỉ của tác giả Hồ Chí Minh ta có thể thấy người đang vô cùng khát khao tìm kiếm sự tự do, một cuộc sống bình yên giản dị cho chính bản thân mình và cho quê hương đất nước. Nó chính là ước mơ sục sôi bỏng cháy của tác giả.

Chính vì vậy, dù trong hoàn cảnh bị áp giải từ nhà lao này tới nhà lao khác, chịu cảnh tù đày mất tự do thì tác giả Hồ Chí Minh vẫn không thể nào cầm lòng trước vẻ đẹp thiên nhiên và hình ảnh con người lao động ở miền núi rừng sơn cước, nên người đã viết bài thơ “Chiều tối” với muôn vàn cảm xúc sâu lắng.

Bài thơ “Chiều tối” của tác giả thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và hiện đại, thể hiện sự đồng điệu giữa tâm hồn tác giả với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, tạo nên một bài thơ vô cùng sinh động, tươi đẹp gây được nhiều ấn tượng sâu sắc với người đọc.

Thảo Nguyên