Xác Định Chủ Đề Của Bài Thơ Chiều Tối / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Giáo Án Bài Chiều Tối Theo Định Hướng Phát Triển Năng Lực

Soạn giáo án bài Chiều tối Ngữ văn lớp 11 theo phương pháp dạy học tích cực, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh. Thư viện bài giảng Ngữ văn lớp 10-11-12

– Giáo án, SGK Ngữ văn 11, tập 2 – Phiếu học tập

Chuẩn bị của học sinh: Chuẩn bị bài ở nhà theo các yêu cầu sau:

– Đọc lại các tác phẩm đã học trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh – Soạn bài theo hướng dẫn học bài/SGK Ngữ văn 11 tập 2. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

I. Hoạt động 1 – Khởi động Giáo viên yêu cầu học sinh ghi ra phiếu làm việc cá nhân:Nội dung: Kể tên các bài thơ đã học trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, nhớ lại một bài thơ mà học sinh yêu thích nhất.Cách tiến hành: Trong vòng 5 phút, học sinh kể tên các bài thơ và đọc thuộc một bài thơ mình yêu thích nhất. GV giới thiệu bài thơ “Chiều tối”.

– Học sinh kể đúng tên tên các bài thơ đã học trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, đọc được một bài thơ mà học sinh yêu thích nhất.

1. I. Tìm hiểu chungHướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về văn bản

GV yêu cầu tất cả học sinh đọc lướt phần Tiểu dẫn và thực hiện các yêu cầu sau: – Nêu xuất xứ của bài thơ? – Tập thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nào? – Tập thơ gồm bao nhiêu bài, hình thức văn tự của tập thơ? – Nêu hoàn cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ “Chiều tối”?

Sau khi học sinh làm việc cá nhân, đặt câu hỏi, tổ chuyên gia tư vấn, GV nhận xét và chốt lại những kiến thức cơ bản. GV yêu cầu học sinh đọc văn bản, xác định thể loại và phân chia bố cục.

1. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác – Xuất xứ: Bài thơ số 31 trong tập thơ “Nhật kí trong tù” + Hoàn cảnh sáng tác: Tập thơ được sáng tác trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam (8/1942 – 9/1943). + Tập thơ gồm 134 bài thơ chữ Hán, hầu hết được viết theo lối thơ Đường luật. – Hoàn cảnh sáng tác cụ thể của bài thơ: Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ một buổi chiều muộn, trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942.

2. Thể loại, bố cục – Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. – Bố cục: hai phần + Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên + Hai câu sau: Bức tranh cuộc sống

a. 1. Hai câu thơ đầuHướng dẫn học sinh tìm hiểu hai câu thơ đầu

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

GV yêu cầu học sinh làm việc cá nhân trong thời gian một phút (theo kĩ thuật trình bày một phút) và thực hiện yêu cầu: – Khát quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Học sinh trình bày. Giáo viên nhận xét, chốt lại những kiến thức cơ bản.

– Nội dung: Bức tranh chiều tối cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, tinh tế, đồng thời thể hiện được ý chí nghị lực phi thường của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.– Nghệ thuật: Bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh: vừa giàu tính cổ điển vừa mang sắc thái tinh thần hiện đại luôn hướng về sự vận động phát triển tới ánh sáng, tương lai.

III. Hoạt động 3 – Thực hành GV phát phiếu học tập cho học sinh. GV đặt câu hỏi: Qua bài thơ, em học tập được điều gì từ Hồ Chí Minh?

3. Thực hành – Phiếu học tập 2

IV. Hoạt động vận dụng và mở rộng (thực hiện ở nhà) GV yêu cầu học sinh sưu tầm thêm một số bài thơ có hình ảnh cánh chim, chòm mây trong thơ ca trung đại. Vẽ lại bức tranh chiều tối theo cảm nhận cá nhân.

4. Vận dụng và mở rộng

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Chiều Tối

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Chiều tối’ của Hồ Chí Minh

Bài làm

Cảm nhận của em về bài thơ “Chiều tối” – Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc. Khi nhắc đến Người, chúng ta ắt sẽ kính cẩn nghiêng đầu bằng một tấm lòng kính yêu và sự biết ơn vô hạn đối với những hy sinh lớn lao của Bác để đổi lấy sự tự do cho Tổ Quốc. Trong những năm tháng chiến tranh, Bác đã phải trải qua biết bao nhiêu gian khó, hiểm nguy, phải ngồi hết nhà tù này đến nhà tù khác. Suốt quãng thời gian ngồi tù, Bác đã sáng tác nên tập thơ “Nhật kí trong tù” nổi tiếng. “Chiều tối” là một bài nằm trong tập thơ ấy, thể hiện tinh thần lạc quan và khát khao chiến thắng kẻ thù của Bác giữa cuộc sống ngục tù đầy hiểm nguy.

“ Chiều tối” được sáng tác trong hoàn cảnh rất đặc biệt. Nó không được viết trên những tờ giấy trắng tinh, phẳng phiu đặt trên mặt bàn mà được sáng tác giữa đường Bác bị giải từ nhà từ nhà lao Tĩnh Tây đén nhà lao Thiên Bảo.

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Dịch thơ

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Chiều tối là quãng thời gian cho sự trở về sau một ngày làm việc và lao động vất vả. Khoảng thời gian đố con người sẽ tìm về gia đình, để xum vầy, đoàn tụ và cùng nhau thưởng thức bữa cơm tối ấm áp, quay quần. Thế nhưng, buổi chiều, ánh nắng đã yếu ớt và chuẩn bị tắt hẳn, không gian trở nên dịu nhự hơn. Nó lại gợi lên cho ta một cảm giác xốn xang và cô đơn hơn bao giờ hết. Khi mà mọi thứ đang vội vã trở về, Bác cảm thấy hiu quạnh khi mình không có nơi để về, không có ai chờ đợi, ngóng trông. Cái không khí của buổi chiều tà thật buồn man mác. Ánh nắng chói chang bắt đầu lắng dần. Mặt trời dần dần chìm sâu vào dãy núi. Mặt trăng chuẩn bị lấp ló sau rặng tre đầu làng. Một khung cảnh nên thơ nhưng lại thấm đượm cảm giác cô đơn khó từ nào có thể diễn tả. Trên không trung, từng đàn chim nối đuôi nhau tìm về “chốn ngủ”. Sau một ngày miệt mài sải đôi cánh, tất cả đều đã mỏi, đã rụng rời và chúng cần được nghỉ ngơi. Từng cánh chim chao liệng trên bầu trời, dường như muốn gấp gáp nhưng lại không thể. Từng đôi cánh toát lên sự mệt mỏi cũng giống như đôi chân Bác đã rã rời sau những ngày chuyển lao. Chỉ cố đám mấy, vẫn nhẹ nhàng nhàng trôi lơ đãng. Chúng khong vội vàng, không gấp gáp mà bình thản một cách lạ thường. Chúng cứ thững thờ lê từng bước chậm rãi. Áng mấy trắng nổi bật trên nền trời vàng vọt, rang mỡ gà tạo nên một bức tranh thủy mặc vô cùng đẹp đẽ. Đám mây cô đơn trôi nhẹ chẳng khác gì sự cô đơn của Bác. Bước đi chậm chạp của mây làm cho bầu khoogn khí càng trở nên nhẹ nhàng, tính lặng. Phải yêu thiên nhiên lắm Bác Hồ mới có thể quên đi cái gong cùm nặng ịch trên cổ, quên đi cái đớn đau của đôi chân để có thể đắm chìm vào với cảnh sắc thiên nhiên, tận hưởng nó một cacsg trọn vẹn trong tư thế ung dung, tự tại và đầy lạc quan.

Giữa không gian yên bình của buổi chiều tối, bóng dáng con người xuất hiện, phá vỡ tất cả cái vẻ ảm đạm vốn có của nó. Bức tranh bỗng trở nên sinh động và ấm áp hơn.

Sơn tôn thiếu nữ ma bao túc

Bô túc ma hoàn lô dĩ hồng

Dịch thơ:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

Hình ảnh cô thiếu nữ và lò than như trở thành trung tâm của bức tranh. Trong bóng chiều tà, cô gái nhẹ nhàng, uyển chuyển theo vòng quay tròn của cối xay. Hoạt động của cô như phá vỡ cái sự tĩnh lặng, man mác trước. Đó là sự sống, là lao động vinh quang. Hình ảnh cô thiếu nữ cũng tượng trung cho đức tính của người phụ nữ: dịu dàng, đảm đang, cần mẫn. Mọi thứ cứ trôi theo tuyến tính thời gian, ngô xay xong cũng là lúc lò than đã rực hồng, bừng lên, ấm áp.Hình ảnh bếp lửa tượng trưng cho mái ấm gia đình, cho tình thân. Nó dường như là ước mơ, là khát khao được trở về của người lính đang bị tù đày. Nó như xua tan đi tất cả nỗi cô đơn, nhớ nhà và những lo toan mệt mỏi của Bác. Hai chữ “rực hồng” kết thúc bài thơ, kết thúc sự lạnh lẽo, cô đơn. Nhìn thấy ánh lửa, người tù nhân như được sưởi ấm trái tim giá buốt. Ngọn lửa rực hồng hồng ấy như thắp lên trong Bác một niềm hy vọng về tương lai cho dân tộc. Chữ “hồng’ kết thúc bài thơ, nó chuyển dịch bức tranh từ sự u khuất, tĩnh mịch sang trạng thái ấm áp, đầy sức sống. Ánh lửa thể hiện sự lạc quan của Bác về một tương lai đang chờ phía trước. Nó là niềm vui, là sức mạnh để Người tiếp tục chinh chiến với những khó khăn phía trước.

Tác phẩm “Chiều tối” với ngôn ngữ mộc mạc cùng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã đi sâu vào lòng bạn đọc một cảm giác man mác nhưng ấm áp lạ thường. Nó còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên và sự lạc quan của Bác dù ở bất kì hoàn cảnh nào đi nữa. Hồn thơ của Bác là tiếng lòng của một người con đang khát khao cho sự bình yên của dân tộc.

Seen

Ôn Tập Bài Chiều Tối Của Hồ Chí Minh

(Văn mẫu lớp 11) – Hướng dẫn cách Ôn tập bài Chiều Tối của Hồ Chí Minh bao gồm toàn bộ kiến thức chuyên sâu.

Hướng dẫn ôn tập bài thơ ” Chiều tối ” của Hồ Chí Minh. Các câu hỏi về bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh

Câu 1: Hoàn cảnh ra đời bài thơ

Câu 2: Phân tích bài thơ ” chiều tối” Hồ Chí Minh”

Câu 3: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ ” chiều tối” Hồ Chí Minh”

Câu 4: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của tác giả trong bài thơ Chiều tối, qua đó bàn về ý chí và nghị lực của con người trong cuộc sống

Câu 1:”Nhật ký trong tù ” của Hồ Chí Minh được viết từ 2/8/1942 đến 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đầy đoạ khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.

Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng : “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không.”

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”

Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.

Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rùng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.

Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ”người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.

Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.

Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”

“Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.”

Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cố điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó. Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ “bao túc” ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần. Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.

Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do. Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.

Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.

Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Không miêu tả đêm tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lò than. Lấy ánh sáng để làm nổi bóng tối, nghệ thuật là ở đó.

Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui… đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.

Nhà văn Nam Cao đã viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được.”, để nói rằng, con người ta thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ – một người lúc nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước – vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

Bài thơ “Chiều tối” là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.

Bình Giảng Bài Thơ Chiều Tối Của Hồ Chí Minh

Những năm 40 của thế kỉ này, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc – Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa…”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao la, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình thư thái:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

(Chiều tối – bản dịch)

Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con Người: Bác Hồ kính yêu!

Buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim. Khung cảnh chiều về tối thường gợi nên chất thơ đặc sắc, nỗi buồn lắng đọng, suy tư về nhân sinh. Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày. Cảm xúc trên đường đi của Bác đã lộ rõ cốt cách của thi nhân – chíên sĩ Hồ Chí Minh. Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí – Đỗ, của Thôi Hiệu, e cũng khó phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi! Nhưng đọc thật kỹ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng – phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại.

Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh – Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng:

Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)

Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Ngày xưa Lí Bạch từng mô tả không gian “Chúng điểu cao phi tận – Cô vân độc khứ nhàn”, và chúng ta có thể nhận ra nét quen thuộc ấy trong những câu thơ này của Hồ Chí Minh. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giống như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người!Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Buổi chiều ấy dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Rất tiếc bản dịch thơ đã không thể lột tả được khoảnh khắc rất thi sĩ của Bác trong điệp từ “mạn mạn” này! Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhoà ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Tinh thần “tự do lãm thưởng vô nhân cấm” (Tẩu lộ) chính là ở điểm này.

Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sống xung quanh! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” (ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tối. Đặc biệt, đó là sự gắn kết “thiếu nữ” – “sơn thôn” đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của thiếu nữ. Và thiếu nữ xuất hiện không hề đơn độc lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn” của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:

Chùa xa chuông giục người nhanh bước

Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay

(Hoàng hôn)

Hay:

Làng xóm ven sông đông đúc thế

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh

(Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)

Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, một dấu hiện của cuộc sống là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc” (xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” (ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng lộ rõ hơn.

Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối! Bài thơ không khép lại bằng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sống đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sống. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác – màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai.

Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm toả ấm nóng và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sống, vừa cổ điển vừa lãng mạn.

Ta nhận ra trong nỗi buồn, niềm vui của Bác phẩm chất của một vĩ nhân: rất bình thường, giản dị nhưng mỗi câu thơ toả sức ấm của một ý chí mãnh liệt và sáng bừng lên hồng bao thế hệ, sự hài hoà giữa tình cảm và tinh thần thép đã làm nên những vần thơ sâu sắc thâm trầm.

Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh – Bài làm 2

Năm 1990, nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh (1890-1990) Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn Người là “vị anh hùng giải phóng dân tộc và là một nhà vân hóa lớn”. Chỉ xét riêng về sự nghiệp văn chương, Người xứng đáng là nhà văn, nhà thơ lớn của nước ta. Trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam (từ mùa thu 1942 đốn mùa thu 1943), Người đã sáng tác tập thơ Nhật kí trong tù gồm 133 bài. Trong tập thơ ấy có bài Chiều tối (Mộ) rất đặc sắc:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, , Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không, Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết y lò than đã rực hồng.

Chỉ vài nét chấm phá, Hồ Chí Minh đã vẽ được một bức tranh tả cảnh chiều tối mênh mông mà đầm ấm.

Câu khai và câu thừa là bức tranh thiên nhiên chiều tối:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ.

Ở đây, thời gian là chiều tối (Bác chỉ nói ở tựa đề, không nói lại trong bài thơ). Còn không gian thì rất vắng vẻ, bao la. Hình ảnh cánh chim mỏi xuất hiện trong thơ Bác tuy quen thuộc, tuy có chút buồn nhưng không bơ vơ, lạc lõng mà ấm áp vì chim “về rừng tìm cây ngủ” – chim bay về tổ. Đặc biệt, chỉ nhìn một cách chim đang bay, Bác lại thấu hiểu được “chim mỏi” (quyện điểu). Hơn nữa, Bác còn khẳng định chim sẽ “về rừng tìm cây ngủ” (quy lâm tầm túc phụ). Phải là con người vô cùng thương yêu loài vật, hiểu nhiều về loài vật mới có sự cảm nhận tinh tế như vậy. Rõ ràng Hồ Chí Minh có một tấm lòng nhân đạo bao la. Ở câu sau, cảnh lại buồn hơn:

Chòm mây trôi nhẹ giữ tầng không

“Cô vân” là chòm mây lẻ, chòm mây đơn độc. Cụm từ này gợi cảm giác buồn bả, cô liêu. Nhưng liền sau đó, Bác viết “mạn mạn” lững lờ) và “độ thiên không” (trên tầng không) thì câu thơ lại mở rộng một không gian thoáng đãng, bát ngát.

Như vậy, ở hai câu đầu, chỉ vài nét chấm phá đơn sơ: một cánh chim, một chòm mây, núi rừng và bầu trời Hồ Chí Minh đã vẽ được một bức tranh tuyệt đẹp mang màu sắc cổ điển phương Đông. Bác dùng hình ảnh ước lệ “chim mỏi về rừng” để nói đến hoàng hôn. Bác lấy điểm để tả diện – tả “chòm mây lẻ” để gợi cái vô cùng của bầu trời. Bác lấy chuyển động để nói sự ngừng nghỉ. Bác lấy không gian để tả thời gian. Thật điêu luyện làm sao! Thật tài hoa làm sao! Bên cạnh đó, cảnh chiều tối trên bức tranh thơ như đượm một nỗi buồn hắt hiu, gợi đến cho chúng ta cảnh tù nhân bị giải đi giải lại, bóng chiều đã buông xuống nhưng chưa được dừng chân. Dường như, trong chiều sâu của ý thơ còn “hé mở cho ta nhìn thấy một thoáng ước mơ thầm kín về một mái nhà ấm, một chỗ dừng chân trên con dường dài muôn dặm của Hồ Chí Minh.

Nếu như câu khai, câu thừa là bức tranh thiên nhiên chiều tối, thì câu chuyển và câu hợp là bức tranh sinh hoạt của con người. Cảnh chiều tối bất ngờ rực sáng, ấm áp bởi những hình ảnh của cuộc sông đời thường:

Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết, lò than đã rực hồng.

Trên bức tranh thơ hiện lên hình ảnh cô thiếu nữ thôn quê đang lao động hăng say, cần mẫn. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn và lối đảo ngược khéo léo “ma bao túc y bao túc ma hoàn” ở cuối câu ba và bốn đã thể hiện được vòng quay đều đặn của một chiếc cối xay, gợi nên nhịp điệu cuộc sông êm đềm, mộc mạc nơi rừng núi âm u, tĩnh mịch. Chính vì thế mà chất thơ trở nên độc đáo – chất thơ của nhựa sống vần vật, khỏe khoắn, trẻ trung. Đặc biệt, “lò than rực hồng” là hình ảnh thi vị, yên vui, ấm cúng, tươi sáng, lan tỏa. Do đó câu thơ xay hết lò than đã rực hồng” vừa xinh xắn, vừa gợi cảm. Đồng thời câu thơ này đã miêu tả được cảnh trời đã tối hẳn. Như vậy, Hồ Chí Minh đã lấy ánh sáng để nói tôi (Nguyên tác không nói tối mà diễn tả được cảnh trời tối). Nghệ thuật tả cảnh của Bác thật tinh tế.

Mặt khác, sự chuyển đổi bất ngờ của mạch thơ: từ tĩnh sang động, từ tối sang sáng, từ thiên nhiên sang con người, từ buồn vắng sang ấm áp, nhất là màu sắc và ánh sáng của lò than rực hồng kết thúc bài thơ đã xua đi cái lạnh lẽo, cái lẻ loi, cái tĩnh mịch, cái buồn bã của chiều tối vùng sơn cước. Đây là cái mô típ thường gặp trong thơ của Hồ Chí Minh, bởi lẽ tư tưởng và hình tượng luôn vận động để hướng đến sự sống và đón lấy ánh sáng, chớp lấy tương lai. Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ cũng là ở đó.

Tóm lại, Chiều tối của Hồ Chí Minh là một bài thơ vượt thời gian. Cùng với Đêm lạnh, Hoàng hôn, nếu đặt Chiều tối lẫn vào trong những tập thơ của những thi nhân đời Đường, đời Tông thì cũng khó mà phân biệt được. Bài thơ Chiều tối đã thể hiện một bước tổng hợp mới của thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ có sự kết hợp một cách nhuần nhị vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, chất thép và chất trữ tình, lãng mạn và hiện thực, trữ tình và tự sự cũng như sự hòa hợp giữa con người chiến sĩ và thi sĩ.

Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh – Dàn ý

A. MỞ BÀI

– “Chiều tối” là một trong những bài thơ tức cảnh hay nhất của Hồ Chí Minh trong tập “Nhật kí trong tù”.

– Bài thơ là bức tranh thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của con người trong cảnh chiều ở một xóm núi hoang vu. Qua đó ta thấy được một tâm hồn luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai; một tấm lòng nhân hậu, nhạy cảm, tinh tế, giàu cảm xúc của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí minh (Trích dẫn bài thơ).

B. THÂN BÀI

1. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên trong cảnh chiều muộn

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không”.

* Cảnh vật:

– Cánh chim mệt mỏi đi tìm chốn ngủ: Hình ảnh thơ mang tính ước lệ cổ điển thường gặp trong thơ ca cổ.

+ “Chim bay về núi tối rồi” (ca dao)

+ “Chim hôm thoi thóp về rừng” (Nguyễn Du)

– Chòm mây trôi lẻ loi giữa bầu trời -” Thời gian như ngưng đọng, cảnh vật thật yên tĩnh, vắng lặng.

* Tâm trạng thi nhân:

– Cảnh buồn phù hợp với tâm trạng của nhà thơ: một mình bị tù đày nơi đất khách, trải qua một ngày chuyển lao cực khổ, trong lòng canh cánh nỗi nhớ quê hương, đất nước.

– Trong hoàn cảnh chuyển lao mệt mỏi, lại bị gông cùm, xiềng xích nhưng Người vẫn cảm nhận dược vẻ bình yên, thanh thản của cảnh vật với phong thái ung dung, nhàn tản, tâm hồn lạc quan yêu cuộc sống, gắn bó với thiên nhiên. Khát vọng tự do ẩn trong ánh mắt dõi theo cánh chim trời, làn mây trôi…

2. Hai câu kết: Bức tranh sinh hoạt của con người .

(Một đặc điểm độc đáo, in đậm trong nhiều bài thơ của Bác là mạch thơ hình ảnh luôn vận động một cách khoẻ khoắn và bất ngờ, luôn hướng tới sự sống, ánh sáng và tương lai. Hai câu kết của bài thơ đột ngột chuyển mạch, chuyển cảnh, chuyển ý, chuyển hình…)

* Cảnh vật: Bức tranh mới sáng, đẹp, ấm áp và tràn đầy sức sống:

– Hình ảnh “cô em xóm núi” đẹp trong sự siêng năng, chăm chỉ, khỏe mạnh nhưng công việc có phần nặng nhọc, vất vả “xay ngô tối”.

– “Lò than đã rực hồng”

+ Dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối: Lò than rực hồng báo hiệu trời đã tối hẳn -” cảm nhận hết sức tinh tế.

* Tâm trạng thinhân:

– Cảnh thơ sáng lên một niềm tin ấm áp. Đó là tấm lòng nhân hậu bao la, một tinh thần lạc quan, một bản lĩnh phi thường của người tù người chiến sĩ cách mạng vĩ đại: Hồ Chí Minh.

C. Kết bài

Bài thơ “Chiều tối” không chỉ miêu tả cảnh chiều muộn nơi sơn cước với cánh chim, làn mây và cuộc sống lao động của con người. Toát lên toàn bộ bài thơ là hình tượng nhân vật trữ tình có tấm lòng yêu thương rộng lớn, luôn luôn nâng niu trân trọng mọi sự sống trên đời, có tấm lòng lạc quan, luôn hướng về tương lai vàánh sáng. Bài thơ còn cho ta thấy tài nghệ sắc sảo độc đáo cả Bác trong một bút pháp riêng: hòa hợp màu sắc cổ điển và hiện đại.