Viết Văn Về Bài Thơ Nhàn / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Viết Đoạn Văn Nghị Luận Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác phẩm tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập. Nó ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn.Qua đó ta thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê.

Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm . Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc , lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê . Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử . Ông là người có học vấn uyên thâm,là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn , đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội . Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập ; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và ” Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập , được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật . Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn .Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê .

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi

Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ ” một “thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có . Từ ” thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai .Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn . Và từ ” vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái . Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ , tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như ” ta “_ ” người” ; ” dại” _ ” khôn” ; ” nơi vắng vẻ”_ ” chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả . Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội” . hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là ” dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn .Vậy lối sống của NBK có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm ?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình . Do NBK có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực , nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới .Vậy nên NBK rời bỏ ” chốn lao xao ” là điều đáng trân trọng .

Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên . Mùa nào thức ăn nấy , mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà , mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay . Câu thơ ” xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã .Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản , hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen , tranh giành .Đăt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của NBK thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ .

Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn , có tính triết lí sâu sắc , vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu . Đối với NBK phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên , giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình .

Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của NBK coi thường danh lợi , luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên , dề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật . Bên cạnh đó NBK còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí . Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật , điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt .

Soạn Bài Nhàn Ngữ Văn Lớp 10

Soạn bài Nhàn Ngữ văn lớp 10

Bài làm

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1: Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?

Có thể nhận thấy được âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng sử dụng được nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm nhưu các số (một…, một…, một…) đặt trước các danh từ mai, cuốc, cần câu để cho thấy cái chủ động, luôn luôn sẵn sàng của cụ Trạng khi đối với cuộc sống điền dã. Không những thế lại còn có chút ngông ngạo trước thói đời.

Câu 2: Anh / chị hiểu thế nào là nơi “vắng vẻ”, chốn “lao xao”? Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn” như thế nào? Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4?

Nguyễn Bỉnh Khiêm có được một cách nói hóm hỉnh song qua đó toát lên quan niệm nhân sinh của tác giả. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng cứ cố tự nhận mình là “dại”, để có thể chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” luôn luôn chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, để mặc cho người khôn thì học cũng sẽ đến chốn lao xao. Câu thơ cũng đã lại sử dụng cách nói ngược nghĩa. Nguyễn Bỉnh Khiêm với sự thâm trầm của mình cùng với những sự từng trải đã tận hiểu sự đua chen, ông cũng như thoát khỏi được sự trói buộc của vòng danh lợi. Có lẽ chính bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm không ngại ngần gì khi tự nhận là “dại”, song thực chất lại là “khôn”. Ở đây cũng giống như những người trải nghiệm dường như cũng lại cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi hơn nữa lại luôn cứ nghĩ mình “khôn”. Sử dụng nghệ thuật đối lập, cách nói ngược khiến cho bài thơ thật đặc sắc, thông qua đó cũng đã khẳng định triết lí sống của tác giả.

Câu 3: Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có gì đáng chú ý? Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm như thế nào? (Quê mùa, khổ cực? Đạm bạc mà thanh cao? Hòa hợp với tự nhiên?)

Dễ dàng nhận thấy được ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện “ăn” và “tắm” một cách đầy thích thú và vô cùng độc đáo. Theo chính những vòng quay bốn mùa quanh năm thì những việc “ăn”, “tắm” của “ta” thuận theo tự nhiên. Tất cả những việc này dường như luôn hoà hợp với tự nhiên. Tuy nó có vẻ đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản và chẳng phải nghĩ suy.

Ở ngay hai câu cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ tài tình của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến chính là một bậc thức giả uyên thâm, ông dường như cũng đã từng vào ra chốn quan trường chính vì thế mà ông cũng đã lại tận hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời. Đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm lại hiểu danh lợi chỉ là phù du, chính vì thế mà ông cũng đã lại phủi tay với những vòng danh lợi để có thể đi tìm lại những sự tĩnh lặng cho tâm hồn, sự hòa nhập cùng với thiên nhiên.

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao và chính vì thế mà nó cũng không có thực. Thông qua đó, tác giả cũng đã lại khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống thêm nữa đó là một cách ứng xử của riêng mình.

Câu 5: Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì? – Không vất vả, cực nhọc. – Không quan tâm tới xã hội, chỉ lo cho cuộc sống nhàn tản của bản thân. – Xa lánh nơi quyền quý giữ cốt cách thanh cao. – Hòa hợp với tự nhiên. – Quan niệm sống đó tích cực hai tiêu cực. Vì sao?

Có thể nhận thấy được chính quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh những sự vất vả để tận hưởng sự nhàn rỗi, đồng thời cũng không phải là thái độ lánh đời cũng lại không quan tâm tới xã hội. Thế rồi cũng luôn cần hiểu chữ “nhàn” chính là một thái độ lánh đời, tác giả như không quan tâm tới xã hội. Chúng ta cũng cần hiểu chữ “nhàn” mà tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm nói là thái độ như cũng không đua chen chính trong vòng danh lợi để có thể giữ cốt cách thanh cao.

Quan niệm nhàn là về với ruộng vườn để có thể hòa hợp với thiên nhiên luôn luôn vui thú cùng cây cỏ. Nhàn được biết đến chính là làm một lão nông gắn với những công cự quen thuộc “Một mai, một cuốc, một cần câu” và tuân theo lẽ tự nhiên đó là mùa nào thức đấy “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Khi đã lánh chốn quan trường nhưng trong lòng cũng vẫn cứ lo cho dân cho nước, luôn luôn lo lắng cho xã. Thế rồi khi được đặt trong hoàn cảnh chế độ phong kiến khi đang trên đà khủng hoảng đó chính là những giá trị đạo đức đang có biểu hiện suy vi, đó chính là người hiền không có đất dụng thi quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến là một quan niệm sống tích cực.

Chúc các em học tốt!

Soạn Văn Lớp 10 Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Soạn văn lớp 10 bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tham khảo phần soạn thảo văn bài thơ bản Nhàn của Nguyễn Bình Khiêm có trong sách soạn thảo văn mẫu dành cho các bạn học sinh và giáo viên tham khảo.

Bài làm 1: I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

– Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585)

– Hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, quê ở làng trung am

– Năm 1535 ông đỗ trạng nguyên rồi ra làm quan dưới triều đại nhà Mạc

– Cũng đi theo quy luật xuất xử của những nhà thơ cùng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sau một thời gian làm quan cũng chán ghét cảnh quan trường lao xao ồn ã đầy những thủ đoạn bon chen, cho nên Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cáo quan về quê ở ẩn lánh đục tìm trong

– Về quê ông sống bằng nghề dạy học và ăn những gì sẵn có trong thiên nhiên

– Bản thân ông là người rất cương trực chính chắn, uyên thâm được suy tôn là Tuyết Giang phu tử

– Ông cũng để lại rất nhiều tác phẩm nổi bật là hai tập thơ lớn

* Chữ hán: Bạch Vân am thi tập (700 bài)

* Chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi (170 bài)

– Thơ ông mang đậm màu sắc triết lý, ngợi ca kẻ sĩ

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác: ông chán ghét cảnh quan trường và trở về ở ẩn tại làng quê. Về quê có một cuộc sống an nhiên tự tại tránh xa những bon chen thị phi của chốn quan trường. Nhà thơ sáng tác bài thơ này để thể hiện quan điểm và dại khôn ở đời

b. Thể loại: thất ngôn bát cú đường luật

II. Phân tích:

1. Hai câu thơ đầu:

– “thơ thẩn” thể hiện sự chậm rãi mà chẳng lo đói hay bị ai quở trách

– Chẳng cần quan tâm đến những tên quan tham ô lại chỉ một mình mà vẫn vui vầy

2. Hai câu thơ thực

– Nhà thơ nói “ta” thể hiện sự tự xưng của mình

3. Hai câu luận

4. Hai câu kết

– Phú quý chỉ là phù phiếm chiêm bao mà thôi không hề có thật

III. Tổng kết

– Nội dung: thể hiện cuộc sống giản dị thanh cao mà đạm bạc của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn. Chiêm nghiệm lẽ khôn dại ở đời

– Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn bát cú, sử dụng từ láy linh hoạt, hình ảnh gắn bó với đời sống nhân dân.

– HẾT –

Phần soạn thảo văn bản bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài làm 2: I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

– Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585).

– Hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ.

– Bản thân ông là một người rất tài giỏi và liêm khiết thanh cao, ông có quan niệm cao quý đúng đắn về việc chốn quan trường và nơi làng quê.

– Ông học rộng tài cao đỗ đạt ra làm quan sau đó vì chán ghét chốn quan trường nhiều mưu thâm kế hiểm cho nên ông đã trở về quê sông cuộc sống thanh đạm mà hiền lành.

– Tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Bạch Vân Am thi tập, bạch âm quốc ngữ thi tập.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác:

Sau một thời gian làm quan trong triều chứng kiến nhiều cảnh đấu đá gang đua hãm hại lẫn nhau, Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn là một người ngay thẳng làm việc thiện cho đời cho nên ông nhanh chóng nhận ra chốn quan trường không phải là chỗ để dành cho mình vì thế ông đã cáo quan về quê ở ẩn. Tại đây ông đã sáng tác bài thơ Nhàn.

b. Nhan đề:

– nhàn vừa là một tính từ chỉ trạng thái rảnh rỗi, không có việc gì làm của con người.

– Đặt trong hoàn cảnh của tác giả thì nhàn có nghĩa là không phải suy nghĩ về việc triều chính, không phải sợ hãi trước những âm mưu của bọn tham quan, không phải chứng kiến những cảnh trướng tai gai mắt. Về với ruộng vườn nhà thơ nhàn về cả mặt thể chất lẫn tinh thần.

c. Thể thơ: thất ngôn bát cú.

d. Bố cục: 4 phần:

– Phần 1: hai câu đầu: cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê.

– Phần 2: hai câu tiếp: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.

– Phần 3:hai câu tiếp: đồ ăn thức uống nơi thôn dã.

– Phần 4: còn lại: rút ra chân lý về cuộc sống.

II. Phân tích.

1. Cuộc sống lao động giản dị nơi làng quê.

– Đó là những công cụ lao động cần thiết cho người sống ở làng quê.

– “thơ thẩn dầu ai” nghĩa là nhà thơ cứ sống nơi thôn quê bình dị ấy mặc cho ai vui thú ở nơi nào.

– Thơ thẩn gợi tả sự nhẹ đầu khi mà nhà thơ không cần phải căng thẳng để chống lại những tên tham quan ô lại nữa.

2. Quan niệm về lẽ dại khôn ở đời.

– Nhà thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập “dại – khôn” “vắng vẻ – lao xao”.

– Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.

3. Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.

– Giá ở đây có thể là giá đỗ cũng có thể là giá lạnh của mùa đông.

4. Nhà thơ uống rượu và nhận ra chân lý ở đời

– Về quê nhà thơ không quên người bạn rượu tri kỉ vì đối với người xưa rượu là một thứ để bầu bạn kể cả lúc vui lẫn lúc buồn.

– Rượu đến gốc cây là sẽ nhấp.

– Trong hơi men nồng nàn cùng sự bình yên của làng quê nhà thơ nhận ra phú quý quả thật chỉ là một giấc chiêm bao. Nó cũng sẽ mau chóng tan thành mây khói.

III. Tổng kết

– Bài thơ thể hiện được quan niệm của nhà thơ về cuộc đời, đồng thời ta thấy được cuộc sống an nhàn của nhà thơ nơi thôn dã. Đó là một cuộc sống vô cùng giản dị và bình an, đạm bạc nhưng lại rất thanh cao. Nghệ thuật thơ đối lập, nói ngược đã góp phần làm nên thành công trong việc chuyển tải nội dung của bài thơ.

Theo chúng tôi

Viết Bài Văn Về Ước Mơ Của Em

Trong cuộc sống chắc hẳn ai ai cũng đều có ước mơ và hoài bão cho riêng mình và bản thân em cũng vậy em cũng có một ước mơ. Ước mơ đó là niềm vui, là động lực để bản thân em có thể cố gắng mỗi ngày. Sống trong cuộc sống cần phải có một ước mơ.

Ước mơ đó là những hoài bão, mơ ước có được một điều gì đó trong cuộc sống, ước mơ luôn gắn liền với những dự định và hoài bão đã đặt trước, mỗi người đều phải cố gắng để đạt được ước mơ đó. Mỗi chúng ta ai ai cũng đều có ước mơ. Nhưng ước mơ của mỗi người là hoàn toàn khác nhau, bởi lẽ ước mơ là do mình tạo ra chứ không phải do ai nghĩ ra hoặc đặt hộ, ước mơ đó là mục đích sống, cố gắng mà chúng ta nỗ lực mới có được, cũng giống như trong cuộc sống, ước mơ được đặt trong một bối cảnh đó là tương lai.

Mỗi người đều phải lên kế hoạch hay mong muốn mình sẽ làm được một điều gì đó, chính cái mong ước, hay muốn đó chính là ước mơ mà mình muốn có được. Như chính hồi nhỏ bản thân em cũng từng ước mơ mình sẽ trở thành một giáo viên, điều đó đồng nghĩa với việc ước mơ đã tồn tại trong con người của mỗi người từ rất là lâu, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của con người Việt Nam. Những ước mơ đó là động lực để mỗi người chúng ta tiếp tục cố gắng mỗi ngày để hoàn thành được ước mơ và dự định đó.

Ước mơ để thực hiện được mỗi ngày chúng ta cần phải nghiêm túc với chính bản thân mình, không ngừng học hỏi để nâng cao được trình độ cũng như kĩ năng để có thể phát triển được bản thân mình nhiều hơn nữa. Học tập và tu dưỡng đạo đức để bản thân phát triển lên mỗi ngày. Ước mơ là động lực để chúng ta cố gắng mỗi ngày, nó là niềm vui và đích đến mà chúng ta đã đặt ra. Ước mơ giúp cho con người thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống, đó là hoài niệm và sự mơ ước lớn lao, chính ước mơ giúp cho chúng ta vững bước thêm trong cuộc sống.

Niềm vui, sự hạnh phúc và cố gắng mỗi ngày để cho chúng ta biết tiếp tục tạo dựng nên cho bản thân mình những mong ước và đích đến trong cuộc sống, cuộc sống của mỗi người đều chứa chan rất nhiều những tia hy vọng mới, nó là động lực và là mục đích sống của mỗi con người, chính vì thế để tiếp tục làm được những điều đó, chúng ta cần phải cố gắng và phát huy nó mỗi ngày.

Ước mơ nó luôn là hậu thuẫn đằng sau để nhắc nhở chúng ta cần phải có ý thức và trách nhiệm hơn cho cuộc sống của mình, có như vậy, chúng ta mới thấy được cuộc sống này còn nhiều điều rất giá trị và vô cùng quý báu.

Ước mơ đó là đích đến cho một kế hoạch nào đó, khi hồi nhỏ chắc hẳn ai cũng sẽ có ước mơ là tết đến được mẹ chuẩn bị mua cho bộ quần áo mới, hay ước mơ tết được thưởng nhiều lì xì và được mọi người yêu thương. Nhưng rỗi mỗi lứa tuổi lại có một niềm mơ ước riêng, nó biểu hiện mức độ trưởng thành của mỗi con người, giá trị đó để lại cho mỗi chúng ta rất nhiều niềm tin yêu cho cuộc sống, để từ đó chúng ta học được nhiều điều có giá trị hơn.

Khi còn là học sinh cấp 3 đang còn là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường em mong ước mình sẽ trở thành một cô giáo, nhưng để trở thành cô giáo bản thân em phải luôn cố gắng, nổ lực để học tập tốt, học tập để đặt chân tới cổng trường đại học, nơi mà em mong ước bấy lâu nay.

Ước mơ nó mở ra cho con người một viễn cảnh tươi sáng, đó là động lực là nieemf tin để cho con người cố gắng mỗi ngày. Có một ước mơ không khó nhưng để thực hiện được ước mơ đó mới chính là những điều quan trọng. Mỗi người chúng ta cần phải cố gắng làm việc, học tập. Như Bác Hồ đã từng nói: ” Không có việc gì khó chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển quyết chí ắt làm nên”. Đây là câu nói cũng là động viên cho con người cần phải luôn luôn cố gắng mỗi ngày để hoàn thành được ước mơ cũng như dự định của mình trong tương lai.

Cần phải luôn luôn kiên trì, bền bỉ để cố gắng mỗi ngày, không ngừng học hỏi, phát triển bản thân mình nhiều hơn nữa để tiếp tục cố gắng hoàn thành được ước mơ cũng như hoài bão của bản thân. Ước mơ là những điều không dễ có thể làm được, nhưng chỉ cần có sự quyết tâm con người vẫn có thể hoàn thành và làm được nó một cách dễ dàng nhất.

Chúng ta cần phải nuôi dưỡng bản thân mình mỗi ngày, có như vậy chúng ta mới có thể hoàn thành được ước mơ cũng như dự định của bản thân.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM Viết bài văn về ước mơ của em. Em hãy viết bài văn về ước mơ của em Anh chị hãy viết một bài văn về ước mơ của mình Em hay viet bai van ve uoc mo cua minh Anh chi viet bai van ve uoc mo cua minh Theo chúng tôi