Viết Văn Biểu Cảm Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Hãy Viết Bài Văn Biểu Cảm Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Của Hồ Chí Minh

Nhắc đến thiên nhiên trong thơ Bác, không chỉ người đọc là đến các nhà nghiên cứu văn học, các nhà thơ cũng phải trầm trồ thán phục. Chỉ có những người có tài và có tình với thiên nhiên sâu sắc mới có thể cảm nhận hết vẻ đẹp tiềm ẩn của thiên nhiên. Trong thơ Bác mỗi chiếc lá, mỗi ngọn cây, dòng sông, ngọn núi đều hiện lên với vẻ đẹp huyền ảo, trong đó có cảnh trăng trong Rằm tháng giêng cũng làm mê hoặc lòng người.

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi”.​

Hai từ “lồng lộng” được đảo lên trước để nhận mạnh cái rộng lớn, trong lành của ánh sáng đêm rằm. Bầu trời, mặt nước, dòng sông như nối liền, trải rộng bởi sắc xuân bát ngát. Câu thơ thứ hai, trong nguyên văn chữ Hán Bác viết:

“Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”.​

Câu thơ khá đặc biệt trong cách tả: cảnh được tả từ gần đến xa, từ thấp lên cao cùng với sự lặp lại tới ba lần chữ xuân khiến cho câu thơ thất ngôn như tràn ngập ánh xuân tươi. Sắc xuân, khí xuân như đượm lên cảnh vật.

Câu thơ thứ ba vô tình nói đến hoàn cảnh ngắm trăng và vị trí ngắm trăng của Bác:

“Giữa dòng bàn bạc việc quân”.​

Vậy ra, Bác đang chơi vơi giữa dòng sông để bàn việc quân cơ mật. Nhắc đến đây, ta lại trào lên niềm cảm phục về tấm lòng luôn đau đáu vì dân vì nước của Bác. Chẳng những thế, câu thơ còn gợi những ngạc nhiên về tấm lòng của Bác dành cho thiên nhiên: tại sao vào giờ khắc bận rộn bộn bề việc nước như thế, Bác vẫn dành thời gian cho thiên nhiên cảnh vật. Điều đó thể hiện tư thế lạc quan yêu đời của Bác, đó là tư thế ung dung tự tại, không ngại khó khăn gian khổ. Điều này thể hiện nhân cách đạo đức cao đẹp trong con người của Bác, đó là tấm gương để con cháu chúng ta noi theo.

“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.​

Câu thơ như một lời gợi ý sâu sắc về tương lai sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Con thuyền giữ dòng sông kia giống như con thuyền cách mạng và đã trở thành con thuyền chở trăng, con thuyền chở ánh sáng. Và như thế cũng có nghĩa con thuyền ấy đang đi về miền sáng, miền của thành công, con thuyền sẽ mang những điều tốt đẹp đến cho dân cho nước.

Câu thơ thể hiện một cảm quan cách mạng tươi sáng và lạc quan vô cùng. Câu thơ thứ tư cũng gợi nhớ đến câu thơ: Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền trong bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Câu cuối của bài Nguyên tiêu và câu thơ này của Trương Kế đều nói về lúc đêm khuya (dạ bán) và đều nói về hình ảnh con thuyền trên sông nước. Tuy vậy, điểm khác là ở chỗ, một bên “người khách” đến thăm tác giả là tiếng chuông chùa (Hàn Sơn), còn bên kia “người khách” ấy chính là trăng xuân chứa chan bát ngát, đượm tình.

“Rằm tháng Giêng” được Bác viết trong những năm đầu kháng Pháp vô cùng khó khăn gian khổ. Thế nhưng, ở trong thơ, ta vẫn gặp một chủ thể trữ tình rất yêu thiên nhiên, vẫn ung dung làm việc, vẫn chan hòa cùng ánh trăng thơ mộng của núi rừng. Người lo lắng cho đất nước nhưng trong tâm hồn, Bác vẫn dành cho thiên nhiên những niềm ưu ái, không vì việc quân bận rộn mà Người đành hờ hững, từ chối vẻ đẹp thiên nhiên. Điều này nói lên phẩm chất lạc quan và phong thái ung dung của Bác.

Bài thơ vừa thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước con người của nhà thơ, vừa thể hiện tư thế lạc quan yêu đời trong điều kiện khắc nghiệt của cuộc chiến tranh và nó trở thành một món ăn tinh thần tạo nên sức mạnh vô biên cho toàn thể nhân dân đứng lên đấu tranh chiến thắng kẻ thù một cách hào hùng.

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Hay Nhất

Hồ Chí Minh ngoài là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam thì còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lỗi lạc của nhân loại. Các sáng tác của Bác rất đa dạng và ở thể loại nào cũng vô cùng đặc sắc và đầy tính nhân văn. Người có một lòng yêu thiên nhiên và khiếu thưởng thức nghệ thuật rất đặc biệt, ta có thể thấy được điều đó qua rất nhiều tác phẩm của Người, “Rằm tháng giêng” là một trong những bài thơ vừa ví dụ cho phong cách thơ Hồ Chí Minh lại vừa cho thấy tình yêu và lòng cảm thụ thiên nhiên của tác giả.

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Ở câu thơ đầu “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên” tác giả đã vẽ ra khung cảnh bầu trời đêm rằm với một vẻ đẹp lộng lẫy đầy nghệ thuật. Trăng đêm rằm vốn dĩ rất tròn và sáng. Ở đây ánh trăng lại còn lên giữa bầu trời đã chiếu rọi vào cảnh vật vừa khiến cho cảnh vật thêm lung linh huyền ảo lại vừa làm tôn thêm vẻ rạng rỡ của trăng.

Ở câu thơ tiếp theo, cảnh xuân được lột tả rõ nét với “Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”; điệp từ “xuân” xuất hiện 3 lần như muốn nhấn mạnh sắc xuân nhuộm phủ khắp đất trời. Xuân bao trùm cả không gian (trời xuân) và bao trùm cả chiều chiều dài, chiều rộng (xuân giang, xuân thủy). Khắp nơi đều được xuân và trăng nhuộm đỏ đầy sức sống, đầy vẻ thơ mộng, trữ tình. Mùa xuân vốn là mùa của sự sinh sôi nảy nở, là mùa của vạn vật hồi sinh, tươi trẻ. Ở đây hình ảnh mùa xuân nhuộm trên mọi cảnh vật trong cả không gian và thời gian như muốn nói sức sống, sự trường tồn của đất trời và vẻ đẹp vĩnh hằng của nó.

Hai câu thơ đầu, nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả cảnh để họa lên bức tranh phong thủy buổi đêm đầy trữ tình để đến câu thơ thứ 3 hình ảnh của con người bắt đầu xuất hiện “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. Giống như phong cách thường thấy trong thơ Hồ Chí Minh, ở thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, Người thường dùng hai câu thơ đầu để tả cảnh và sự xuất hiện của con người sẽ bắt đầu ở câu thơ thứ 3. Trong câu thơ này, con người không trực tiếp xuất hiện nhưng hình bóng lại rõ mồn một trong khung cảnh ấy. Đó là con người đang đàm đạo việc quân, việc nước giữa cảnh khuya. Việc quân hệ trọng, đêm khuya người chiến sỹ cách mạng ấy vẫn cùng những người chiến sỹ khác bàn bạc, không nghỉ ngơi đêm ngày, không phân biệt ngày Tết Nguyên tiêu, ngày lễ lạt mà vẫn cặm cụi việc nước non. Hình ảnh này làm ta liên tưởng đến câu thơ “Nguyệt thôi song vấn: Thi thành vị? – Quân vụ nhưng mang vị tố thi”, (Trăng vào cửa sổ đòi thơ – Việc quân đang bận xin chờ hôm sau).

Bởi vì bận đàm đạo việc quân đến đêm khuya cho nên khi trở về nhà thơ chợt thấy “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền). Việc nước xong, quay trở về chợt thấy ánh trăng tỏa sáng như bao trùm lên mọi cảnh vật, như tràn đầy con thuyền người chiến sỹ đang ngồi. Ánh trăng “nguyệt mãn thuyền” đầy tính tượng hình, gợi lên hình ảnh ánh trăng đầy ắp lòng con thuyền nơi nhà thơ đang ngồi. Phải chăng trên con thuyền đó, nhà thơ đang say đắm, ngây ngất trước vẻ đẹp tráng lệ mà đầy thơ mộng của trăng. Câu thơ cũng cho thấy tấm lòng yêu thiên nhiên và biết cảm thụ cái đẹp của người chiến sỹ cách mạng. Mặc dù bận việc nước việc quân, mặc dù trời đã vô cùng khuya khoắt vẫn chưa được nghỉ ngơi, nhưng nhà thơ vẫn nhận ra cái đẹp của thiên nhiên, vẫn cảm thụ nó bằng con mắt và trái tim của một người nghệ sỹ.

Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi nhưng nhà thơ đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp của đêm rằm của đất trời nước Nam. Từ đó người đọc cũng có thể nhận thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật núi non thắm thiết của người chiến sỹ cách mạng. Phải rất yêu thì nhà thơ ấy mới nhìn cảnh vật đêm Tết Nguyên tiêu và bóng trăng bằng tận trái tim mình như vậy.

Bài thơ với bút pháp gợi nhiều hơn tả nhưng tác giả Hồ Chí Minh đã cho người đọc như thấy được một bức tranh toàn cảnh mà rực rỡ, sống động trong đêm rằm mùa xuân ấy.

Cảm Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng

Đề bài: Cảm nghĩ của em sau khi học xong bài Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh

Có sự hòa trộn, kết hợp giữ cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng yêu nước, bài thơ Rằm tháng Giêng của chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện được rõ nét bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, sống động trong đêm trăng ngày Rằm, đồng thời cũng vẽ ra được bức chân dung tự họa của chủ tịch Hồ Cí Minh, đó là một con người có lòng yêu nước cũng như ý thức, trách nhiệm với công việc của đất nước, của quốc gia.

Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh đã vẽ ra khung cảnh lộng lẫy, choáng ngợp mà không kém phần thi vị, mơ mộng của cảnh vật trong thời khắc đêm trăng ngày Rằm. Ta cũng thấy rằng, hình ảnh ánh trăng thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm thơ văn của Hồ Chí Minh, điều đặc biệt là mỗi lần xuất hiện thì hình ảnh ánh trăng này không hề bị trùng lặp mà đều mang một sắc thái mới lạ, nó chứa đựng những cảm xúc khác nhau của tâm hồn người thi sĩ Hồ Chí Minh, trong bài thơ “Rằm tháng Giêng” cũng vậy, Bác đã thể hiện được sự cảm nhận độc đáo về ánh trăng ngày Rằm, về khung cảnh thiên nhiên dưới sự soi chiếu của ánh trăng ấy.

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”

Ở hai câu thơ đầu tiên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cụ thể cả thời gian và không gian của bức tranh thơ, đó là không gian của bầu trời, sông nước dưới sự bao phủ, soi chiếu của ánh trăng Rằm, thời gian được nhà thơ chỉ ra đó chính là thời khắc đêm khuya, khi mọi nhịn sống rộn rã của con người đã bị màn đêm bao phủ bằng vẽ tĩnh lặng lặng tuyệt đối. Tuy nhiên, trong cách cảm nhận của Hồ Chí Minh, thì cái thời khắc tưởng chừng như tĩnh lặng ấy lại hiện ra vô cùng mới lạ, vô cùng gợi cảm. Ánh trăng Rằm soi chiếu xuống mặt nước tạo thành luồng ánh sáng bạc lấp lánh, trong cách cảm nhận của Bác thì ánh trăng ấy không tỏa chiếu một cách thông thường mà “lồng lộng” soi. Lồng lộng là từ láy gợi ra được cả chiều dài cũng như độ rộng của không gian được soi chiếu. Ánh trăng rọi xuống vạn vật trở lên vô cùng gợi cảm, sinh động trong cách cảm nhận của Người.

Câu thơ tiếp theo lại thể hiện sự hài hòa một cách tuyệt đối, một sự pha trộn tuyệt diệu của thiên nhiên. Sông, nước, trời dường như đã không còn khoảng cách, giới hạn nữa, chúng hòa quyện lại với nhau, làm cho nhau trở lên tươi đẹp hơn, ta có thể thấy đước sự phản chiếu được vật này qua vật kia: “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”. Dưới ánh trăng ngày Rằm, dòng sông kia như “lẫn” thêm cả màu của bầu trời làm cho nó trở nên rực rỡ hơn, mang đậm sắc màu của màu xuân. Từ “lẫn” mà Hồ Chí Minh sử dụng ở đây rất hay, bởi nó chỉ sự hòa trộn một cách tự nhiên, không phân biệt được là do yếu tố nào tác động đến yếu tố nào mà chỉ biết rằng chúng cùng nhau hòa quyện, cùng nhau tôn vinh vẻ đẹp của nhau lên.

Ta có thể thấy rất rõ, hai câu thơ đầu tiên đã chủ yếu là tả cảnh, khung cảnh ngày xuân dưới ánh trăng Rằm dường như hiện ra rõ nét hơn, màu sắc tươi thắm, sinh động hơn rất nhiều. Đặc biệt, qua cảm nhận của Hồ Chí Minh thì nó càng trở lên mới lạ, gợi cảm hơn, nó gợi cho người đọc liên tưởng đến một không gian rộng lớn, mênh mông nhưng không gây cho người đọc cảm giác sợ hãi mà còn làm cho người đọc khát khao thưởng thức, khám phá, những cảnh vật vô cùng quen thuộc cũng trở lên gợi cảm lạ thường. Điều đáng nói nhất trong hai câu tả cảnh này, có sự kết hợp một cách khéo léo tình cảm chủ quan của người viết, đó là cảm xúc say mê, sự rung động của tâm hồn trước sự tươi đẹp của cảnh sắc thiên nhiên.

Từ việc khắc họa khung cảnh của đêm trăng Rằm, ở hai câu thơ tiếp theo chủ tịch Hồ Chí Minh đã khắc họa hình ảnh của chính mình trong bức tranh thơ ấy:

“Giữa dòng bàn bạc việc quân

Như vậy, bài thơ “Rằm tháng Giêng” đã khắc họa một bức tranh màu xuân thật đẹp, nó cũng được phát hiện trong một thời gian thật đặc biệt, đó là vào thời khắc đêm khuya. Trong sự kì vĩ, tươi đẹp của bức tranh mùa xuân hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đẹp, đó là một con người hết lòng vì dân, vì nước, vì sự thắng lợi của Cách mạng dân tộc.

Nguồn: Văn mẫu

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Của Hồ Chí Minh

Bài làm

Năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trong giai đoạn khó khăn, phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị người chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến không khỏi âu lo, trằn trọc. Nỗi lòng ấy của Người đã được thể hiện tinh tế trong bài thơ Cảnh khuya mà chúng ta từng đọc. Bước sang năm 1948, tình hình đất nước và sự nghiệp kháng chiến có nhiều chuyển biến khả quan. Niềm vui đang trở lại. Do đó vào đêm rằm tháng giêng (âm lịch) năm đó, sau một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cơ, Bác đã hứng khởi sáng tác bài thơ: Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng).

Phiên âm chữ Hán :

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên ;

Yên ba thâm xử đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Xuân Thuỷ dịch :

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân ;

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Tác phẩm thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên văn bằng chữ Hán. Nếu chúng ta dịch nghĩa của bản phiên âm thì bài thơ ấy có thể như sau :

Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất,

Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân ;

Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân,

Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền.

Nhà thơ Xuân Thuỷ dịch Nguyên tiêu sang thơ tiếng Việt chuyển thành thơ lục bát, thể hiện khá tốt nội dung, ý nghĩa, nhưng đã làm hao hụt phần nào âm điệu và ngôn từ của bài thơ nguyên tác. Do đó, khi đọc bài thơ, ta cần cố gắng kết hợp bản dịch thơ với nguyên tác thì mới cảm nhận chính xác vẻ đẹp của thơ Bác.

Bài Nguyên tiêu viết về đề tài tả cảnh thiên nhiên, rất gần với thơ Đường. Cả những hình ảnh, từ ngữ, âm diệu, vần điệu của bài thơ cũng vậy. Đọc bài thơ, lắng nghe âm điệu và thoáng qua các chất liệu tạo vật như trăng tròn, sông xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng, nửa đêm, đầy thuyền… ta có cảm giác thơ của Bác Hồ giống thơ của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm ngủ ở bến Phong Kiều), nhất là câu cuối của hai bài. Kết bài Phong Kiều dạ bạc, Trương Kế viết : “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. Hồ Chí Minh viết: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”, về vóc dáng, hai câu thơ gần giống nhau, nhưng về cốt cách, bản chất thì khác nhau một trời một vực. Nói khác đi, bài thơ Nguyên tiêu tuy sử dụng nhiều chất liệu cổ thi, nhưng vẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Hồ Chí Minh, mang vẻ đẹp, sức sống và tinh thần của thời đại mới. Bác làm thơ Đường nhưng không máy móc mà đầy sáng tạo. Mỗi bài thơ của Người thể hiện tài năng và tâm hồn, trí tuệ của người chiến sĩ cách mạng hài hoà phong cách người nghệ sĩ ngày nay.

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên ;

(Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

Hai câu thơ đầu vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng giêng sáng quá, đẹp quá. Bầu trời cao rộng, thoáng đãng. Trăng tròn đầy. Cả không gian tràn ngập sức sống, trải mênh mang tường như không có giới hạn. Tất cả đều tươi trẻ, dào dạt cảnh xuân. Dòng sông mùa xuân, nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả dùng điệp từ “xuân” ba lần liền mạch, nối nhau, ngân nga như một dòng nhạc xanh êm dịu. Câu thơ có bảy tiếng thì năm tiếng có thanh không: Xuân giang, xuân…, xuân thiên mang âm hưởng bay bổng, gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm sao. Nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn dùng ngòi bút chấm phá chọn nét cảnh tiêu biểu, ấn tượng, hài hoà thống nhất với nhau, đã tạo ra một bức tranh đêm rằm tháng giêng ớ chiến khu Việt Bắc năm 1948, vừa mang vẻ đẹp của tạo vật vừa ẩn dụ cho tình hình kháng chiến đầy triển vọng lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy, là một cái nhìn, một cảm hứng, một phong thái binh tĩnh, ung dung, thanh thản của người nghệ sĩ – chiến sĩ.

Đến hai câu kết của bài thơ thì chất chiến sĩ – nghệ sĩ càng hiện rõ :

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nquyệt mãn thuyền.

(Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

Một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cơ đã diễn ra trong đêm rằm tháng giêng ấy. Vị trí cuộc họp ở đâu ? Ở “yên ba thâm xứ” tức là ở “trên khói sóng nơi sâu thẳm”, bí mật và thiêng liêng như trong huyền thoại vậy. Thế giới từng gọi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta là “cuộc kháng chiến thần thánh”, có lẽ cũng căn cứ một phần vào cơ quan đầu não – những người chỉ huy kháng chiến – tài ba, huyền thoại này chăng ? Cuộc họp ấy đã bàn bạc, nhận định và quyết định những điều gì, chúng ta khống biết. Song điều chắc chắn chúng ta có thể tin được là cuộc họp ấy đã thành công rực rỡ, đem lại niềm vui, niềm tin cho mọi người. Do đó, lúc tan họp, mọi người ra về giữa đêm khuya, thấy trời như sáng ra, trăng như tròn hơn, ánh trăng ăm ắp đầy cả khoang thuyền: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền). Cả câu thơ nguyên tác lẫn câu thơ dịch đều đẹp. Những chiến sĩ kháng chiến chống ngoại xâm như được ngồi trên ánh sáng, tắm trong ánh trăng. Tất cả, ánh trăng rằm trên bầu trời Tổ quốc, con thuyền trên dòng sông quê hương và những tướng lĩnh của cuộc kháng chiến, tiêu biểu nhất là Hồ Chí Minh đã hoà hợp với nhau, cùng toả sáng cho nhau trong sức sống thanh xuân, trong niềm lạc quan và niềm tin chiến thắng.

Có thể nói, nếu bài Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước, mối lo âu và tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp của đất nước thì bài “Nguyên tiêu” vừa nối tiếp vữa nâng cao những cảm hứng ấy của Bác Hồ, đồng thời thê hiện rõ hơn tinh thần chủ động, phong thái ung dung, lạc quan, niêm tin vững chắc ở sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ, người chiên sĩ – người nghệ sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ vừa mang âm điệu cổ điển vừa thể hiện tinh thần thời đại, khoe khoắn, trẻ trung. Nhờ đó, đêm rằm tháng giêng năm 1948 ấy vốn đã sáng, càng thêm sáng vì có nhiều niềm vui toả sáng…