Viết Mở Bài Bài Thơ Tràng Giang / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất

Mở bài gián tiếp Tràng Giang

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thiên thai, không phải diệu ái tỉnh, không phải lời ly tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm than vãn của bờ sộng, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi tha thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?” Hôm nay đọc “Tràng Giang”, tôi mới hiểu tại sao Xuân Diệu lại nói vậy. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên sông nước yên bình và tĩnh lẵng, ẩn chứa sau đó là nỗi buồn chất chứa – những u sầu của người thi sĩ.

Mở bài Tràng Giang ngắn gọn

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ mới (1930 – 1945). Ông yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng nhiều của nền văn học Pháp. Thơ ông hàm súc và giàu chất suy tưởng. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận được viết vào mùa thu năm 1939. Bài thơ là một minh chứng điển hình cho sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và chất hiện đại, vẽ lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên yên bình, tĩnh lặng, ẩn chứa sau đó là cả một nỗi sầu “vạn kỷ” của người thi sĩ.

Mở bài trực tiếp

Nếu như nhà thơ Xuân Diệu được biết đến với một hồn thơ mang nỗi ám ảnh về thời gian thì Huy Cận – người bạn tâm giao của ông lại mang trong mình nỗi ám ảnh về không gian. Trong quá trình sáng tác văn học của mình đặc biệt là trong giai đoạn trước Cách mạng, Huy Cận đã để lại cho văn đàn Việt Nam rất nhiều những tác phẩm xuất sắc phải kể đến đó là bài thơ “Tràng Giang”. Thi phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại….

Mở bài nâng cao

Nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận định: ” Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận…”.Thật vậy, thơ Huy Cận là sự đan xen giữa nổi sầu vũ trụ của thế nhân với nổi cơ đơn mang tính thời đại của các nhân, nó tạo thành nổi sầu vạn kỷ trong hồn thơ ông.Đó là một tiếng thơ có nét gì đó rất riêng , là sự hòa trộn giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại.Bài thơ ” Tràng Giang”(Huy Cận) là một tác phẩm tiêu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy.Qua bài thơ mang “vẻ đẹp cổ điện mà hiện đại” , Huy Cận đã bộc lộ cái sầu của một cái tối cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người , tình đời, lòng yêu nước thầm kín nhưng thật thiết tha.

Mở bài Tràng Giang hay nhất

Nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận định: ” Đời chúng ta nằm trong một vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu”. Nếu Xuân Diệu gắn liền với đắm say với thiết tha , rạo rực thì nhà thơ Huy Cận lại gắn liền với nổi sầu vận kỷ mênh mang, đa sầu, đa cảm. Bài thơ ” Tràng Giang” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và tình thơ Huy Cận. Như Voltaire từng nói: “Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. Và Tràng Giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ “vừa cổ điển vừa hiện đại”. Nhà thơ thực sự đã đem đến một tứ thơ hay giàu cảm xúc và đậm chất Huy Cận.

Soạn Bài Tràng Giang

Kiến Guru sẽ hướng dẫn các em học sinh soạn bài Tràng Giang để  thấy được những giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật bài Tràng Giang mang lại cho nền văn học nước nhà.

Tràng Giang là một bài thơ mang đậm nỗi buồn của con người trước vũ trụ bao la rộng lớn. Không phải tự nhiên mà tác phẩm này được đưa vào chương trình Ngữ Văn 11 để các em tìm hiểu.

I. Soạn bài Tràng Giang: Những đặc điểm chính về tác giả – tác phẩm

1. Soạn bài Tràng Giang phần tác giả 

a. Tóm tắt tiểu sử Huy Cận

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận. Ông sinh năm 1919 và mất 2005. Quê hương của ông thuộc Đức Ân, Vũ Quang, Hà Tĩnh ngày nay.

Ông đã có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp giải phóng nước nhà, và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền đương thời.

b. Đặc điểm thơ văn của Huy Cận

Huy Cận là một người yêu thơ ca Việt Nam, thơ Đường và cũng chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Mang nhiều đặc điểm của phong trào thơ mới, thơ của Huy Cận hàm súc và giàu chất suy tưởng, triết lí. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong thơ của Huy Cận là luôn thấm đượm nỗi buồn, ông hay mượn cảnh vật để miêu tả nỗi buồn, sự hoang vắng trong lòng mình.

Sự nghiệp thơ văn của ông có 2 giai đoạn:

– Trước Cách mạng tháng tám, ông là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, cái tôi, nỗi buồn, sự cô đơn trước thời cục bấy giờ. 

Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (1937-1940), Vũ trụ ca (1940-1942)

– Sau Cách mạng tháng tám, Huy Cận ít làm thơ hơn nhưng thơ ông đã có nhiều đổi mới, chủ yếu ca ngợi về đất nước và cuộc sống mới của nhân dân

Tác phẩm tiêu biểu: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960)

2. Soạn bài Tràng Giang phần tác phẩm 

a. Hoàn cảnh ra đời bài Tràng Giang

Tác phẩm Tràng Giang được ra đời vào một buổi chiều mùa thu năm 1939 khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mang sóng nước…

Tràng Giang là tác phẩm được in trong tập Lửa Thiêng.

b. Nội dung bài Tràng Giang

Nội dung xuyên suốt bài thơ Tràng Giang là sự cô đơn, lẻ loi trước cảnh trời rộng sông dài. Qua đó tác giả muốn thể hiện tính yêu nước rất âm thầm nhưng vô cùng thiết tha.

Khi đứng trên chính quê hương đất nước của mình mà Huy Cận vẫn cảm thấy cô đơn mất mát bởi vì từ sâu trong hồn ông, ông không cảm nhận được đây là quê hương của mình. Bởi vì đất nước chưa giành được chính quyền, vẫn còn đang bị đô hộ bởi thực dân Pháp.

II. Hướng dẫn soạn bài Tràng Giang

Câu 1: Ý nghĩa câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Câu đề từ tuy nằm ngoài bài thơ và chỉ có 7 chữ nhưng đã thể hiện được toàn bộ tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả

– “Bâng khuâng” miêu tả tâm trạng vô định khắc khoải

– “Trời rộng”, ” Sông dài” là hình ảnh thiên nhiên vô cùng rộng lớn

Câu đề cũng là định hướng nội cho toàn bộ bài thơ

Soạn bài Tràng Giang câu 1

Câu 2: Cảm nhận về âm điệu chung của toàn bộ bài thơ

Âm điệu chung của toàn bộ bài thơ Tràng Giang là một âm điệu trầm buồn, sâu lắng và kéo dài triền miên. Sự cô đơn trống trải thấm đượm vào cả cảnh vật và trong lòng tác giả ” người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Hơn nữa, âm điệu toàn bộ bài thơ còn được tạo nên bởi nhịp điệu từ thể thơ thất ngôn, chủ yếu là nhịp 2/2/3 hoặc 4/3, khi đọc chậm càng tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ.

Tác phẩm Tràng Giang cũng sử dụng nhiều từ láy, điệp từ càng khiến nỗi buồn tăng lên bội phần.

Câu 3: Nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng Giang đậm chất cổ điển mà vẫn gần gũi thân thuộc

Bài thơ Tràng Giang mang một vẻ đẹp cổ điển bởi nhiều từ ngữ và hình ảnh sử dụng trong bài thơ mang tính ước lệ, cổ kính: thuyền về, nước lại, bến cô liêu, mây cao đùn núi bạc, bóng chiều sa, khói hoàng hôn… Đây là những từ ngữ và hình ảnh thường được sử dụng trong thơ cổ và đậm chất Đường thi.

Soạn bài Tràng Giang

Tuy nhiên bài thơ vẫn rất gần gũi quen thuộc bởi vì Huy Cận cũng sử dụng những hình ảnh vô cùng quen thuộc với mỗi con người Việt Nam: Thuyền, đò, củi khô, sông nước, bèo trôi…

Tất cả những chi tiết trên hòa quyện với nhau tạo nên một bài thơ đơn sơ nhưng lại tinh tế, cổ điển nhưng cũng vô cùng bình dị và thân thuộc.

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên của Huy Cận vẫn luôn ẩn chứa một tình yêu nước thầm kín. Điều này chúng ta có thể cảm nhận qua cách dùng từ ngữ và hình ảnh của ông trong bài Tràng Giang

– Hình ảnh sử dụng trong bài là những hình ảnh vô cũng quen thuộc của quê hương đất nước: thuyền xuôi dòng, cành củi khô, bờ xanh, mây núi, cánh chim, bãi vàng, chợ chiều

– Từ ngữ mà ông sử dụng là những từ ngữ mang đậm nỗi buồn của cảnh sắc và chan chứa sự nhớ nhung: lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu – đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Nguồn: Internet

Câu 5: Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:

– Sự kết hợp độc đáo và tinh tế giữa hình ảnh cổ điển và hình ảnh đời sống thường nhật

– Thể thơ thất ngôn tạo nên sự trang nghiêm cổ kính, kết hợp với nhịp thơ 4/3, 2/2/3 quen thuộc tạo nên sự hài hòa cân đối cho bài thơ

– Phép lặp từ, điệp ngữ tô đậm thêm nỗi buồn cho bài thơ

– Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để

Hướng Dẫn Soạn Bài Từ Ấy – Tố Hữu ngắn gọn nhất

III. Kết luận

Xuyên suốt bài thơ Tràng Giang là một nỗi buồn khắc khoải của tác giá trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Nhưng ý nghĩa ẩn chứa sâu trong đó là lòng yêu nước da diết và sự buồn bã trước cảnh quê hương vẫn còn đang bị gông cùm của thực dân Pháp.

Nguồn: Internet

Cám em học sinh có thể tham khảo hướng dẫn soạn bài và phân tích các tác phẩm khác 

Lời Đề Từ Trong Bài Thơ “Tràng Giang”

Lời đề từ trong bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận

Lời đề từ tựa như phần trích dẫn ngắn gọn được đặt vào đầu tác phẩm nhằm thâu tóm và gợi mở cho nội dung của toàn bài. Câu đề thường thể hiện những điều tâm đắc của người viết, đồng thời dẫn dắt bạn đọc đi vào thế giới của những dòng thơ một cách nhẹ nhàng hơn. Hơn thế, lời đề từ còn bổ sung thêm cho nội dung và cảm xúc của tác phẩm, góp phần làm sinh động hơn hồn thơ và mạch thơ. Đối với bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, nhờ có lời đề từ mà ta hiểu sâu hơn những suy nghĩ của Huy Cận khi sáng tác tác phẩm này.

Bài thơ “Tràng giang” được viết vào mùa thu năm 1939, lấy cảm xúc từ cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước. Khi đất nước vẫn đang chìm trong những khổ đau mà thực dân Pháp gây nên, hình ảnh dòng sông trong tiết trời thu càng làm con người thêm sầu não. Một lời đề từ tưởng như nhãn tự cho cả tập “Lửa thiêng”: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã tạo nên những giá trị, ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc.

Trước những áp bức mà thực dân Pháp gây nên, lòng nhà thơ như có nhiều ngã rẽ. Ông muốn tìm cho mình một con đường đúng đắn nhưng vẫn chưa biết nên chọn ra sao. Sông mênh mang mở ra trước mắt, dòng sông của quê hương, dòng sông của dân tộc, con sông Hồng thắm vị phù sa. Kiếp người quá bé nhỏ khi đứng trước trời đất bao la như thế, lòng Huy Cận đầy ắp những sầu lo.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Gợi mở ra cả không gian mênh mang, gợi mở ra cả nỗi nhớ nhà đau đáu, gợi mở ra cả bóng dáng con người bé nhỏ, gợi mở ra cả những ngã rẽ không tên,… Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã bao quát tất cả nội dung của trang viết cũng như dệt nên những tiếng lòng. Sóng đời không ngừng lại cũng như từng lớp mây cao che khuất nơi đỉnh núi. Người thanh niên trẻ cần một nguồn sáng mới để giúp ích cho dân tộc.

Từ khóa: Lời đề từ trong bài thơ Tràng Giang, phân tích lời đề bài thơ Trang Giang,

Nguồn: [Văn học 11] Lời đề từ trong bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tràng Giang

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận

Bài làm

Cảm nhận của em về bài thơ “Tràng giang” – Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới gai đoạn 1930-1945. Thơ ông thường là sự kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và vẻ đẹp cổ điển, chúng đan hòa vào nhau tạo nên một chất thơ rất độc đáo. Trước Cách mạng, những sáng tác của Huy Cận thường mang một nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận với việc vẽ lên bức tranh thiên nhiên đượm buồn để nói lên tâm tư, nỗi niềm của thi sĩ về kiếp người nhỏ nhoi, lạc trôi vô định giữa dòng đời rộng lớn.

Ngay từ nhan đề, “Tràng giang” gợi lên một không gian mênh mông, sầu thẳm. Tràng giang nghĩa là sông dài. Thế nhưng nhà thơ không dùng trường giang mà thay vào đó là tràng giang, một từ Hán Việt có ý nghĩa sâu rộng hơn. Hai âm thanh của vần “ang” kéo dài, ngân nga, nó không chỉ là con sông dài mà còn mở ra trước mắt bạn đọc một khoảng sông nước mênh mông, vô tận. Dòng sông vừa rộng, vừa dài gợi lên trong tâm hồn thi sĩ một cảm giác xốn xang pha chút sầu thẳm. Giữa không gian rộng lớn ấy, kẻ trữ tình đứng đây, ngắm nhìn và tâm hồn trở nên cô lieu, đượm buồn về sự nhỏ bé của chính mình trước sự bát ngát của thiên nhiên.

Lời tựa đề cũng chính là cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Từ láy “bâng khuâng’ như lột tả hết được tâm hồn của người thi sĩ. Trước sự mênh mông của đất trời, kẻ thi sĩ thấy tràn lên một sự cô đơn, một nỗi buồn không biết tỏ cùng ai. Nó gặm nhấm tâm hồn ông để trở thành nỗi nhớ, thành niềm hiu quạnh. Bên trên là bầu trời xanh thẳm bát ngát, ở dưới là dòng tràng giang mênh mông, nhà thơ đứng đó, ở giữa và càng cảm thấy mình nhỏ bé, cô liêu. Lời đề từ ngắn thôi nhưng đã làm toát lên vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại đặc trưng cho phong cách và cảm hứng trong thơ Huy Cận.

Ngay mở đầu bài thơ, dòng sống đã gợi lên một nỗi buồn sầu thẳm.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xua mái nước song song

Thuyền về bến lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Hàng loạt từ ngữ lột tả nỗi buồn được nhắc đến. Nó làm cho tâm hồn kẻ trữ tình man mác, bâng khuâng. Nỗi buồn ấy kết hợp với hai điệp từ “song song, điệp điệp” càng như dài, vô tận không điểm dừng. Nỗi buồn cứ triền miên, trải dài và như sâu thẳm hơn. Thuyền và nước vốn là hai vật không thể tách rời, chúng quấn quýt, hòa quyện vào nhau. Thuyền xua mái, nước đẩy thuyền trôi lênh đênh, nhưng tại sao ở đây, “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”? Liệu rằng đó có phải hình ảnh của một cuộc chia li không báo trước? Cuộc chia li làm ai cũng phải ngậm ngùi, buồn bã. Thuyền và nước là hai hình ảnh rất quen thuộc trong thơ cổ điển. Thế nhưng đắt nhất trong khổ thơ lại là hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Giữa dòng nước vô tận ấy, hiện lên bóng dáng một cành củi nhỏ bé đang lênh đênh theo nhịp chảy của dòng nước. Con số một dường như càng nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé, lẻ loi. Cành củi ấy không biết mình sẽ đi đâu về đâu giữa mênh mông nước cuốn. Rồi dòng nước nào sẽ cuốn nó đi, nó cũng không biết. Mọi thứ như vô định, không phương hướng. Hình ảnh cành củi khô như là nỗi ám ảnh trong lòng người đọc về những kiếp người bé nhỏ, đang phó thác cho số phận, cuộc đời họ bấp bênh, cô độc không lối rẽ. Một cảm xúc nghe sao tê tái, xót xa.

Sang khổ thơ tiếp theo, tác giả lại vẽ lên một tràng giang đìu hiu, thê lương hơn.

Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Cùng một câu thơ nhưng tác giả sử dụng tận hai từ láy. “Lơ thơ” gợi tả sự thưa thớt, ít ỏi. Những cồn cỏ vốn phải tươi tốt,trải dài một màu xanh mượt mà. Nhưng ở đây, chúng lại lác đác, lơ thơ, thiếu sức sống. Từng con gió “đìu hiu” thổi qua, nó như mệt mỏi, tiêu điều. Khung cảnh ấy gợi lên sựu lạnh lẽo, cô độc khiến cho con người càng thêm cô đơn đến nỗi phải thốt lên “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chợ vốn là hình ảnh của sự ấm nó, đông đúc. Ở đó là nơi con người tụ tập, trao đổi buôn bán. Nó vốn dĩ phải trào lên những âm thanh sống động, tiêng cười nói của con người nhưng ở đây nhà thơ lại sử dụng hình ảnh chợ chiều.Buổi chiều chợ đã vãn người, chỉ còn lại khoảng đất trống vắng tanh. Tất cả như càng làm nổi bật lên nỗi niềm cô đơn, hiu quạnh đang dấy lên trong tâm hồn người thi sĩ.

Sang khổ ba, không gian yên ắng ấy đã có âm thanh của sự dịch chuyển.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Từng đám bèo nối nhau trôi dạt giữa dòng nước mênh mông. Tuy ở đây đã có sự di chuyển nhưng chính cái động ấy càng làm tâm hồn nhà thơ thêm tê tái. “Bèo” là hình ảnh vẫn hay tìm thấy trong thơ cổ điển nhưng nó lại là biểu tượng của sự bấp bênh, trôi nổi. Từng hàng béo đại diện cho biết bao số phận lạc long giữa sóng gió cuộc đời. Chúng cứ nối dài đến vô tận. Cảm giác lạnh lẽo, không chút “thân mật”, không có gì để có thể kéo tâm hồn nhà thơ ra khỏi nỗi cô đơn, tiêu điều.

Sau bức tranh của sông nước tràng giang mênh mông, vô tận, mãi đến cuối bài thơ, tác giả mới bộc bạch nỗi niềm của mình.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Làng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Trên bầu trời từng đám mây cứ hiện lên, cuồn cuộn như những dãy núi màu bạc trắng. Những cánh chim nhỏ bé đang chao liệng, nghiêng mình trong bóng chiều tà. Chiều tà đẹp nhất có lẽ là ở nông thôi. Buổi chiều gợi cho ta nỗi nhớ về quê nhà, về những gì thân thương nhất. Hình ảnh làn khói chập chờn trong ánh hoàng hôn là những nét vẽ đẹp nhất vè sự ấm no của quê hương. Và đứng trước không gian ấy, nỗi nhớ quê nhà trào dâng lên trong lòng người thi sĩ.

Nhưu vậy, với những hình ảnh mang đậm phong cách cổ điển cùng hồn thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, “Tràng giang” đã gợi lên trong lòng người đọc biết bao cảm xúc dạt dào. Nó là tiếng nói nghẹn ngào của những tâm hồn bé nhỏ, của những cuộc đời bấp bênh, là nỗi nhớ và tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước.

Seen

Incoming search terms: