Viết Mở Bài Bài Thơ Tỏ Lòng / Top 7 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Mở Bài Kết Bài Tỏ Lòng Hay Nhất

Mở bài Kết Bài tỏ lòng

Top 4 mở bài tỏ lòng

Mở bài bài thơ tỏ lòng

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng nổi tiếng đời Trần với tài văn võ song toàn, lại mang một ý chí chiến đấu vì dân tộc. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, ông còn sáng tác nhiều bài thơ thể hiện chí nam nhi và lòng yêu nước. Tiếc rằng các tác phẩm của ông đã thất lạc gần hết, chỉ còn lại hai bài thơ là “Thuật hoài” (Tỏ nỗi lòng) và “Vãn Hưng Đạo Đại Vương” (Khóc viếng Hưng Đạo Đại Vương). Trong đó bài “Thuật hoài” là áng thơ thể hiện hùng tâm tráng chí của một bậc đại trượng phu.

Nhắc đến danh thần Phạm Ngũ Lão, nhà sử học Ngô Sĩ Liên từng viết cho rằng: Nếu như học vấn của Hưng Đạo Vương thể hiện qua bài hịch thì học vấn của Phạm Ngũ Lão lại biểu hiện ở lời thơ. ‘Lời thơ’ ở đây mà Ngô Sĩ Liên nhắc đến chính là bài “Thuật hoài” (Tỏ lòng). Quả thật, khúc tráng ca hào hùng ấy không chỉ nói lên sự uyên thâm trong học vấn mà còn phải được viết ra từ một người con mang nặng nỗi lòng dân tộc, tình yêu nước thương dân và khát vọng được cống hiến với sự nghiệp của đất nước.

Mở bài nâng cao Tỏ Lòng

Thời nhà Trần với bao chiến công lẫy lừng đã trở thành cảm hứng sác tác chung của các vị danh thần, tướng sĩ lúc bấy giờ, điều đó được ghi lại trong những áng văn chương kiệt xuất như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… Và sẽ thật thiếu sót nếu như không nhắc tới “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm yêu nước thương dân của tác giả.

Mở bài tỏ lòng hay

Top 3 kết bài Tỏ lòng

Kết bài trực tiếp tỏ lòng

Quả thật, thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. Phạm Ngũ Lão qua bài thơ “Tỏ lòng” đã cho ta thấy rõ điều đó. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng không hề gãy ý, ngôn ngữ hàm súc, đạt đến độ súc tích cao. Tất cả đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những con người có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao cả, hòa chung với khí thế hào hùng của dân tộc.

Kết bài hay tỏ lòng

Văn học vẫn luôn sống một cuộc đời cao đẹp gắn liền với con người và kết tinh những giọt ngọc của thời đại và ngòi bút của Phạm Ngũ Lão qua “Tỏ lòng đã làm được điều đó. Những tâm tư, nỗi tiềm của tác giả gửi gắm trong tác phẩm qua những ngôn từ súc tích, ngắn gọn nhưng sức biểu đạt cao đã làm lay động trái tim bao bạn đọc, vấn vương trong lòng những người con yêu nước trong suốt bao nhiêu năm qua.

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tỏ Lòng

Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ ‘Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão

Bài làm

Cảm nhận của em về bài thơ “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão là danh tướng tài ba, là người đã cùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xông pha biết bao trận mạc. Sáng tác của ông tuy không nhiều nhưng lại mang âm hưởng và nghĩa khí cao đẹp. Bài thơ “Tỏ lòng” là sáng tác thể hiện lòng tự hào về những chiến công hiển hách cũng như những khát vọng lớn lao của một nam tử hán đại trượng phu giữa thời kì Tổ Quốc bị xâm lăng.

Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt. Đó là khi đất nước vừa giành được chiến thắng trước đội quân Mông-Nguyên hùng mạnh. Sự ra đời của bài thơ kịp thời khích lệ và đề cao tinh thần chiến đấu bất khuất của những người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất.

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu

Dịch nghĩa:

Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu

Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu đẩu

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngang tàng đầy bản lĩnh của những chàng dũng sĩ xông pha nơi trận mạc. “Hoành sóc” là một từ ngữ miêu tả tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang, dũng mãnh và oai phong. Đó là khí thế hùng hồn và sức mạnh vô song của cả dân tộc. Là ý chí quật cường, là sức mạnh, quyền uy của một vị thủ lĩnh đang cầm đầu đoàn quân oanh tạc mọi chiến trường. Đoàn quân ấy hừng hực sức chiến đấu, nó ngông cuồng, lẫm liệt như chúa tể sơn lầm mà bất kì loài nào cũng phải khiếp sợ. Ca ngợi sức mạnh quân đội, Phạm Ngũ Lão như muốn cổ vụ, động viên quân lánh có niềm tin và vững bước hơn ở những chiến trường sau. Sức mạnh của họ sẽ chiến thắng tất cả , không gì có thể quật ngã nó được. Đồng thời, ngoài sự ngợi ca, nhà thơ còn như muốn báo trước một chiến thắng vẻ vang, hùng hồn phía trước. Nó là ngọn lửa chiến thắng đang sục sôi trong trái tim mỗi người lính. Nó như ngọn cuồng phong cuốn trôi tất cả các thế lực thù địch, giành tự do về cho dân tộc. Sức mạnh ấy có thể nuốt troi con trâu lớn. “Khí thôn Ngưu” còn như muốn nói lên, sự hùng mạnh, cường tráng của đội quân có thể vươn cao, vươn xa lên tận những ngôi sao Ngưu đang tỏa sáng trên bầu trời. Sức mạnh ấy sẽ bao trùm và bảo vệ cả dân tộc, mang đến cho đất nước sự tự do, mang đến cho nhân dân cuộc sống no ấm, đủ đầy và hạnh phúc.

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Dịch nghĩa:

Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh

Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu

Ở thời đại đó, tư tưởng “trung quân ái quốc” như là lí tưởng sống bao trùm toàn bộ xã hội. Là một đấng nam nhi, phải đem thân mình cống hiến cho đất nước, đi theo và phục vụ Vua. Nhắc đến trí là nhắc đến trí làm trai, làm trai là phải lập công, lập nghiệp. Công danh như món nợ phải trả của một kẻ làm trai. Khi chưa lập được công danh, chưa giúp được nước nhà thì người nam nhi vẫn chưa trả hết nợ. Phạm Ngũ Lão vốn đã là một vị tướng giỏi, đã cùng Hưng Đạo Vương lập bao chiến công hiển hách nhưng với ông như thế cũng chưa đủ. Khi dân tộc vẫn sống trong cảnh xâm lăng, loạn lạc thì ông vẫn mang món nợ với đời. Ông vẫn luôn trăn trở trong lòng khi đất nước còn chưa độc lập, nhân dân vẫn phải sống trong cảnh lầm than. Chính sự canh cánh, trăn trở đã thôi thúc ông cùng bao sĩ phu nuôi dưỡng khát khao, lí tưởng được phò vua, giúp nước, được xông pha nơi trận mạc mà đánh đuổi quân thù. Tinh thần ấy là sức mạnh kiên cường cổ vũ tinh thần chiến đấu của cả dân tộc. Nghĩ rằng mình chưa đủ tài, chưa đủ giỏi để trả nợ công danh, nhà thơ lại nhớ đến chuyện Vũ Hầu mà người đời vẫn hết sức ngợi ca. Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng tài giỏi, uyên thâm. Ông là người biết suy xét, biết nhìn xa trông rộng. Là vị quân sư tài giỏi, là cánh tay phải đắc lực của Lưu Bị thời Tam quốc diên nghia. Chính sự mưu trí của ông đã giúp ích rất nhiều ch Lưu bị trong việc điều binh bố trận, nên ông rất được coi trọng. Nghĩ về người anh hùng Vũ Hầu, tác giả nghi lại mình và cảm thấy có phần hổ thẹn khi bản thân chưa đủ giỏi, chưa đủ mưu trí. Gia Cát Lượng như là tấm gương sáng, là người mà cả đời Phạm Ngũ Lão muốn học theo, từ nhân cách cho đến tài trí. Chính từ sự hổ thẹn này đã thôi thúc tác giả sống cs ích hơn, mong muốn công hiến hơn để có thể trả được cái nợ công danh cho đời.

Bài thơ ‘Tỏ lòng” tuy ngắn ngủi nhưng lại mang ý nghĩa hết sức lớn lao. Một mặt, nó ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dung và sức mạnh kiên cường của dân tộc. Mặt khác nó như lời thúc dục đấng nam nhi phải biết cống hiến cho dân tộc, cho nhân dân. Chỉ khi đất nước được độc lập, nhân dân được ấm no thì người là trai mới trả hết nợ công danh cho đời. Qua đó ta cũng thấy được tâm hồn thanh cao và tấm lòng nhân hậu đáng ngưỡng mọ của tác giả.

Seen

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão.

Đề bài: Em hãy viết bài văn để cảm nghĩ về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được cảm xúc chủ đạo trong bài thơ.

Phạm Ngũ Lão là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, trong đó nổi bật lên là bài thơ Tỏ Lòng, với những cảm xúc đan xen và tấm lòng yêu nước của tác giả được thể hiện vô cùng sâu sắc trong tác phẩm.

Trong tác phẩm hàng loạt những ý chí quyết tâm được dựng xây nhằm thể hiện một ý chí kiên cường và sự anh dũng đối với tất cả mọi người, sự quyết tâm để dành được độc lập tự do cho dân tộc, trải qua mấy nghìn thu, vẫn luôn múa giáo và tung hoành khắc giang sơn để có thể tìm ra một lối thoát cho chính dân tộc của mình. Đây đều là những ý chí và lòng quyết tâm sâu sắc nhất mà họ mong muốn dành cho dân tộc:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.)

Với một ý chí quyết tâm cao, lòng chiến đấu anh dũng đã được đẩy mạnh mẽ với những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhưng nó lại có một sức mạnh vô cùng to lớn khắc khoải trong trái tim của mỗi con người, đoàn kết sức mạnh, 3 quân đoàn kết với nhau để có thể đánh thắng được kẻ thù. Kẻ thù được ví như trâu, trâu biểu tượng cho sức mạnh và sự hung dữ, nhưng khi ba quân đã kiên cường và đoàn kết, thì điều đó trở nên vô cùng nhẹ nhàng và nó có ý nghĩa to lớn là đánh thắng được những kẻ thù. Sức mạnh của ba ba quân đó là sức mạnh của sự đoàn kết, luôn chiến đấu và sẵn sàng nuốt trôi đi kẻ thù, dù cho kẻ thù có nặng và nguy hiểm tới mức độ như thế nào.

Mấy mùa thu đi qua, múa giáo trên giang hồ, và cầm bút chiến đấu cũng luôn cố gắng hết sức mình, đó là sức mạnh của những ý chí, lòng quyết tâm, và sự quyết tâm cao độ, trong khoảng không gian đó, sức mạnh của mỗi người đều được nâng cao, và nó trở thành một động lực để chiến đấu. Những chiến công đó đều tạo nên được những công danh cho cuộc đời, và sự nghiệp của đất nước, mỗi chúng ta đều có thể thấy được ý chí và tính kiên cường của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Tư thế hiên ngang anh dũng, nó thể hiện một ý chí kiên cường, quyết tâm để đem lại chiến công cho dân tộc, ở đây tư thế của những đấng nam nhi, nâng cao được tài năng và ý chí kiến cường của những người chiến sĩ cách mạng.

Những bậc nam nhi trong thiên hạ đều được giao trọng trách và trách nhiệm bảo vệ đất nước, chính những điều đó mà trên người những người quân tử luôn mang những vấn vương, và công nợ đối với đất nước. Trong hai câu thơ đầu dường như tác giả đang thể hiện khí phách của những anh hùng dân tộc, đó là sức mạnh của sự kiên cường, lòng quyết tâm và còn thể hiện được ý chí anh dũng thực hiện được những trọng trách và mang lại nhiều tác dụng lớn trong cuộc đời của tác giả, những điều đó đã tạo nên được cho chúng ta thấy một con người có tinh thần và trách nhiệm cao đối với đất nước và đối với những người dân nghèo của dân tộc:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Công danh của những đấng nam nhi, phải xuất phát từ một tấm lòng yêu nước, thương dân, công danh và sự nghiệp đó họ phải đánh đổi bằng xương máu của chính mình, nhưng dù khó khăn, gian nan và vất vả, nhưng họ vẫn không nản chí, mà luôn vượt qua để đạt được những công danh và sự nghiệp bất ngờ đối với chính dân tộc của mình. Những tình cảm của những đấng nam nhi đều được tạo nên từ những đều đơn giản nhất, đó là sự quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do cho dân tộc.

Khí phách anh hùng luôn luôn được đẩy cao và nó đã tạo nên một ý chí và lòng quyết tâm đối với những bậc chính quân trong thiên hạ. Món nợ công danh đó là những chiến công và sự quyết tâm và trách nhiệm đối với dân, với nước. Tấm lòng của những bậc chính nhân anh hùng, đó là những ý chí đối với chính con người và đất nước của dân tộc Việt nam, trong chính những vần thơ trên mà tác giả đã thể hiện được những cảm xúc và những tấm lòng và lòng hẹn ước của dân tộc. Chính tác giả đang thể hiện nỗi lòng của mình, và những tấm lòng đó là mối thẹn thùng với ý chí của tấm lòng của ý chí của một người trai nhân.

Trong bài thơ cảm xúc của tác giả đã thể hiện được khí phách anh hùng của những nam nhi thời hán đường, đó là những con người có ý chí và lòng kiên cường, sự quyết tâm và tấm lòng có phần day dứt của tác giả, khi bản thân vẫn còn mang mối nợ đối với đất nước, dân tộc và đất nước, cảm xúc của tác giả đang thể hiện những tình cảm đặc biệt đối với những anh hùng có cảm xúc mạnh mẽ và tấm lòng của tác giả đối với dân tộc của mình. Trong trái tim của tác giả, vừa thẹn thùng khi mình chưa bằng vũ hầu.

Bài thơ đã mang âm hưởng mạnh mẽ và da diết trong tâm hồn của một đấng nam nhi, khi muốn lo và phục vụ những lợi ích thiết thực đối với chính dân tộc của mình, cảm xúc đó đã tạo âm hưởng sâu xa, và nhịp điệu và hồn phách trong chính tác phẩm này.

Nguồn: Văn mẫu

Từ khóa tìm kiếm:

cảm nhận của em về bài thơ tỏ lòng

đề văn về bài tỏ lòng

Bài Thơ Viết Thay Một Nỗi Lòng

Bỗng một vòng tay ôm chặt và nhấc bổng tôi lên đến nghẹt thở. Khi tôi quay lại, trước mắt tôi là một cựu chiến binh ngực áo lấp lánh huân chương với nụ cười rạng rỡ. Tôi chưa kịp nhớ tên anh thì anh lại ôm chặt tôi hỏi: “Có nhận ra ai không? Có một Sơn La đây!”. Bấy giờ tôi mới nhận ra Mạn khi anh thốt ra “Có một Sơn La đây”. Chúng tôi xa nhau đã hơn 40 năm, sau trận chiến đấu tiến công cao điểm Mỏ Tàu (tây Thừa Thiên – Huế) tháng 12-1974. Trận chiến đấu ấy Mạn bị thương hai lần.

Tôi bần thần như không tin người đứng trước mặt mình, sau hơn 40 năm gặp lại. Mạn là chiến sĩ thông tin tiểu đoàn, gan dạ, mưu trí và dũng cảm không coi bom đạn là gì. Nhưng điều tôi nhớ nhất ở anh, một con người khi đối mặt với bom đạn, sống chết chỉ trong tấc gang mà ruột gan lúc nào cũng đau đáu nhớ về cái miền quê nhỏ bé, nơi còn lại mẹ già và mấy đứa em nhỏ…

Quê Mạn ở Sốp Cộp (Sơn La), anh là người dân tộc Thái. Như anh kể, anh sinh ra, lớn lên ở một bản làng heo hút giáp biên giới nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, một bản làng đi mấy quả đồi mới gặp một nếp nhà. Nhà Mạn nghèo lắm, ba anh em nương tựa vào người mẹ già. Khổ là vậy nhưng thấy Mạn ham học, mẹ vẫn ráng sức nuôi các con và cho Mạn theo học đến hết lớp 7 trường huyện. Ngày nhập ngũ, Mạn đi bộ hết hai ngày đường mới xuống đến phố thị Sơn La. Lần đầu tiên Mạn nhìn thấy ánh đèn điện, nhà cao tầng, được đi tham quan Nhà tù Sơn La và các di tích lịch sử… Mấy năm chiến tranh ở chiến trường Thừa Thiên-Huế, Mạn cùng tiểu đội với tôi. Những đêm không lên chốt, không ra trận địa, nằm trong hầm chữ A, Mạn thường kể với tôi ký ức tuổi thơ của mình. Dường như ký ức ấy luôn hiển hiện trong anh, kể cả trong giấc ngủ vừa chợt đến sau một trận chiến đấu.

Một đêm cuối năm 1974, cũng trong căn hầm chữ A dưới chân cao điểm Mỏ Tàu, dưới làn pháo cầm canh của địch, không ngủ được, Mạn bật dậy đột ngột đề nghị tôi làm cho anh một bài thơ về nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ Sơn La. Anh nói rằng, nhiều lúc anh nhớ quê đến cháy ruột cháy gan mà không sao diễn tả được. Có được một bài thơ nói hộ lòng mình về nỗi nhớ quê hương để đọc, để hát thì nguôi ngoai hơn. Thấy tôi hay làm thơ báo tường nên anh nảy ra ý muốn ấy.

Ngày ấy, tôi cũng chưa một lần đặt chân đến miền Tây Bắc, chỉ biết Tây Bắc, Sơn La qua những trang sách học trò và qua cả những câu chuyện Mạn vẫn đêm đêm nằm kể. Nhưng vì yêu quý Mạn, yêu cái nỗi nhớ quê hương da diết trong trái tim gan lỳ, dũng cảm của một người lính đang sống, chiến đấu ở nơi trận mạc, thế là tôi tưởng tượng ra một miền Tây Bắc qua những trang sách, qua những tâm sự của Mạn để làm ra một bài thơ tình…

Thời gian trôi đi, chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, mấy chục năm rồi tôi cũng quên đi bài thơ ấy. Dường như đoán được ý nghĩ ấy trong tôi, Mạn kéo tôi vào một quán nước ven đường. Anh nói rằng sau chiến tranh, anh được đơn vị cử ra Trường Văn hóa Quân khu 4 học hết bổ túc cấp 3 để vào trường đào tạo sĩ quan binh chủng hợp thành. Mạn nói, ngày tôi làm hộ anh bài thơ, anh thuộc ngay tức khắc. Chỉ có điều, ngày ấy anh không biết “cos”, “sin”, “đạo hàm” là gì. Sau này học văn hóa cấp 3 ở Trường Văn hóa Quân khu 4 thì mới hiểu. Mạn khoe với tôi, hơn 40 năm qua, bài thơ ấy như một hành trang trong cuộc đời anh. Vui cũng đọc, buồn cũng ngâm nga, đến nỗi “Có một Sơn La” đã trở thành “nickname” của anh thời facebook!

Biết tôi không còn nhớ bài thơ ấy nữa nên anh bảo tôi mở điện thoại di động ghi âm. Anh đọc, tôi ngồi bần thần nghe lại bài thơ hơn 40 năm trước tôi viết trong căn hầm dưới làn pháo địch.

CÓ MỘT SƠN LA

“Đường lên Tây Bắc quanh co

tiếng chim rừng đây đó…”(*)

Tôi ép ngực vào vách hầm đất đỏ

Tiếng hát chao nghiêng

Giữa đêm Trường Sơn

*

Đất nước những ngày chưa bình yên

Tuổi thơ tôi lớn lên

Úp mũ rơm che trang sách

Học thuộc lòng bài “Cây đào Tô Hiệu”

B-52 Mỹ rải xuống chùa chiền, trường học

Trang sách cháy dưới hầm

Mảnh giấy còn lại chỉ nhận ra

nút cài trên ngực áo của cô gái Thái

trong đêm hội xòe

*

Hành quân qua những mùa mưa

Vuốt tóc ướt, ngẩng mặt lên giữ chốt

Giữa Trường Sơn đạn bom ác liệt

Tôi vẫn mơ năm cánh hoa đào

 

Có những đêm nhìn bầu trời đầy sao

Cánh rừng già cháy đen chất độc

Gối đầu trên ba lô tôi mơ vào trang sách

Những “sin”, những “cos”, những “đạo hàm”…

 

Sáng cuốn võng hành quân 

Gặp cô gái Pa Kô đi tải đạn

Bóng lưng gầy gập trên suối cạn

Tôi mơ ngày gặp em…

 

Em gái Thái ơi

Cái ngày tôi mơ ấy

Bỗng thấy cùng em

Vít ngọn cần đốt cháy con tim

Uống cạn dòng sông, ngọn suối.

 

Đất nước sẽ không còn chiến tranh

Thời gian có thể già đi trước tuổi

Núi có thể bạc đầu…

Chỉ còn hoa đào vẫn hồng tươi như thế

Chỉ còn hoa ban vẫn tinh nguyên như thế

Như em

Trong tay anh đi qua đêm hội xòe.

 (Cao điểm Mỏ Tàu cuối năm 1974)

 (*) Lời bài hát “Đường lên Tây Bắc” của nhạc sĩ Văn An.

HỒ ANH THẮNG