Mở Bài Bài Thơ Đồng Chí

Một số cách mở bài bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Mở bài bài thơ Đồng chí

Chính Hữu là nhà thơ trẻ đứng trong hàng ngũ những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Là một nhà thơ chiến sĩ nên phần lớn tác phẩm thơ ca của Chính Hữu mang đề tài người lính và chiến tranh, trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Đồng chí” được sáng tác năm 1948. Ra đời trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, bài thơ đã mang đến cho người đọc cái nhìn chân thực nhất về hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, khó khăn của bộ đội và nhân dân ta, cũng từ đó cho ta thấy được vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội giữa những người lính.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã đi qua hơn 60 năm nhưng vẫn để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong lòng mỗi người dân Việt Nam, trong suốt những năm tháng hào hùng ấy đã ghi dấu những hình ảnh đẹp về người lính bộ đội cụ Hồ, về tình quân dân thắm thiết và đặc biệt là tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn. Bằng chính sự trải nghiệm đời lính và là người trong cuộc, nhà thơ Chính Hữu đã viết nên bài thơ “Đồng chí” nhằm ca ngợi tình cảm thiêng liêng, gắn bó sâu sắc của tình đồng chí và khẳng định ý chí chiến đấu, tinh thần quả cảm vì sự nghiệp dân tộc của các anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp xưa.

Quả không sai khi người ta gọi Chính Hữu là nhà thơ quân đội, bởi ông là nhà thơ đã gắn bó với cả hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc là kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Tuy Chính Hữu làm thơ không nhiều chủ yếu là về người lính và chiến tranh nhưng thơ của ông mang những nét đặc sắc riêng, viết về bộ đội nhưng thiên về nội tâm, tình cảm. Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào năm 1948 khi tác giả đang cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc đã trở thành tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kỳ chống Pháp, có thể nói đây là tác phẩm thành công đầu tiên thuộc thể loại thơ kháng chiến.

“Đồng chí” – một danh từ chỉ những người có chung chí hướng, lý tưởng, ở chung một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng, và tình đồng chí là một thứ tình cảm đặc biệt. Nhà thơ Chính Hữu đã ca ngợi về thứ tình cảm đó qua bài thơ “Đồng chí”, cho người đọc cảm nhận được tình cảm đồng chí thật tự nhiên, bình dị, gắn bó trong mọi hoàn cảnh. Bài thơ có sự hòa hợp giữa chất giọng lãng mạn của văn chương và vẻ đẹp dung dị của người lính, tình đồng chí của những người lính cách mạng được nhà thơ diễn tả bằng những chi tiết và hình ảnh gần gũi, giản dị, chân thực mà giàu cảm xúc, những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng không kém phần thơ mộng.

Trong hàng ngũ quân đội tham gia kháng chiến, những người lính cùng chung cảnh ngộ, hoàn cảnh chiến đấu được gọi là “đồng đội”. Trong cuộc sống quân ngũ, những người lính đã cùng nhau chia sẻ từng cái khắc nghiệt của hoàn cảnh sống, kề vai sát cánh trong chiến đấu, từ đó hình thành nên một mối quan hệ thiêng liêng, gắn bó – tình đồng chí. Chính tình đồng chí là một phần quan trọng củng cố lòng tin và tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho người chiến sĩ, đó cũng là một nét đẹp của những người lính cách mạng. Có không ít văn thơ đã ca ngợi về thứ tình đồng chí nhưng hay nhất có lẽ là bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu, bài thơ là tiêu biểu cho nền thơ ca kháng chiến và khi nhắc đến thơ kháng chiến không thể không nhắc đến “Đồng chí”. Với những hình ảnh chân thực lãng mạn đã giúp cho bài thơ có sức tạo hình, sức lan toả mạnh mẽ.

Phân Tích Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

Phân tích tình đồng chí qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu ra đời cách đây hơn 30 năm, cho đến nay, vẫn là một bài thơ mà em ưa thích bởi nó giúp em hiểu thêm được vì sao quân đội ta đã trở thành một quân đội anh hùng.

Đọc bài thơ, em bắt gặp những anh bộ đội đã có một cuộc đời, một quê hương nghèo khổ, nào là “nước mặn đồng chua”, nào là “đất cày lên sỏi đá” nào là “gian nhà không”. Đến khi vào bộ đội, họ cũng chẳng giàu có gì hơn, cũng “áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá” và “chân không giày…”. Đã thế, còn bị những cơn sốt rét rừng hành hạ.

Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.

Lại phải sống cảnh “rừng hoang sương muối”. Bao nhiêu thiếu thốn về vật chất! Phải nói là cực kì gian khổ. Nhưng trong suốt bài thơ, em không hề nghe một lời than, hay cảm thấy ở họ một phút chán chường, dao động. Trái lại, bao trùm lên cuộc sống, thấm đượm trong từng trái tim của họ là mối tình đồng chí keo sơn, là niềm tin ở chính mình, ở đồng đội.

Tình của những người nông dân chân lấm tay bùn, sông ở mọi vùng quê của đất nước, nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ nhanh chóng có mặt trong đoàn quân – chiến sĩ:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Từ xa lạ đến chỗ thân quen, họ không cần chờ thời gian, năm tháng, bởi vì họ đang tập hợp dưới ngọn quân kì, bởi vì họ đã gặp nhau ở mục đích của cuộc ra đi. Lí tưởng chiến đấu gắn bó họ lại với nhau và họ nhanh chóng trở thành “đồng chí”; “Súng bên súng, đầu sát bên đầu. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

Chính vì cùng chung một lí tưởng cùng sông trong tình đồng chí mà họ sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”. Họ động viên nhau vượt qua mọi gian khổ “miệng cười buốt giá” và “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Cuộc sống chiến đấu đã xây đắp nên tình đồng chí cao đẹp đó. Và cũng chính tình đồng chí giúp họ tạo nên sức mạnh và niềm tin cho mỗi con người – chiến sĩ và cho cả đoàn quân. Một tư thế sẵn sàng chiến đấu, một tinh thần lạc quan tin tưởng, một biểu tượng rất cao đẹp của người lính cụ Hồ:

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Đây là đỉnh cao của tình đồng chí. Vì nếu đêm nay giữa “rừng hoang sương muối” mà Anh hoặc Tôi không “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” thì mọi tình cảm thân ái như “chung chăn”, áo rách quần vá “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” còn có ý nghĩa gì? Câu thơ này có một từ bình thường nhưng không thay thế được đó là từ “đứng”. Có nhạc sĩ đã phổ nhạc bài thơ này và sửa lại thành “ngồi”. “Đứng” là thường trực chiến đấu mà “ngồi” là nghỉ ngơi. Với lại từ “đứng” có âm “đ” cứng, thanh trắc (dấu sắc) mạnh phô diễn được sức mạnh của tình đồng chí ở đỉnh cao. Nói như thế, nhà thơ cảm thấy hãy còn hữu hạn nên đã chọn một ấn tượng cho cái vô cùng của tình đồng chí:

“Đầu súng trăng treo”

Lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí! Cặp đồng chí này (súng và trăng) nói về cặp đồng chí kia (tôi và anh), nói được cái cụ thể và gợi đến vô cùng súng và trăng, gần và xa “Anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng…là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.

Sự kết hợp yếu tố hiện thực, tươi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ ca kháng chiến, thi ca cách mạng.

Suy Nghĩ Của Em Về Tình Đồng Chí Đồng Đội Trong Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác năm 1948 trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đang diễn ra rất quyết liệt.Bài thơ giúp người đọc hiểu hơn về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ và tình đồng chí,đồng đội gắn bó keo sơn của họ .

Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm tình của hai người bạn ,những câu thơ mộc mạc ,tự nhiên , mặn mà như một lời thăm hỏi quê quán cửa nhà:

Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá .

Hai dòng thơ đủ giới thiệu với người đọc về hoàn cảnh xuất thân của hai người lính.Người thì ở vùng đồng bằng chiêm trũng “nước mặn đồng chua”,người ở vùng trung du bạc màu “đất cày lên sỏi đá”.Như vậy cả “quê anh” và “làng tôi” đều là những miền quê lam lũ,vất vả,đói nghèo.Từ những phương trời xa lạ,họ”chẳng hẹn” mà “quen nhau” bởi họ có cùng chung mục đích đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương .Vào bộ đội họ kề vai sát cánh bên nhau ,cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ :

Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ .

Cùng là những người nông dân nghèo mặc áo lính ,chung lý tưởng đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương . Họ vào bộ đội , chung nhiệm vụ ,chung một chiến hào,cùng đắp chung một tấm chăn khi trời giá lạnh.Điều kỳ lạ là khi chiếc chăn chung đắp lại đó là lúc dòng tâm sự mở ra .Có lẽ vì vậy mà họ hiểu nhau, thân nhau và trở thành tri kỉ.Lúc đó “Đồng chí “mới vang lên ,như tình yêu thương được hình thành từ thử thách và gian khó ,bị dồn nén tận đáy lòng đến giờ bật dậy, đủ sức đứng riêng thành một câu thơ.Nhịp thơ thắt lại,chắc khoẻ ,mộc mạc ,giản dị mà thiêng liêng,cảm động.Ta chợt nhận ra ,lấp lánh đằng sau những câu thơ nói về gió, về rét, lặng lẽ cháy một ngọn lửa ấm nồng tình đồng đội … Và như vậy “đồng chí” vừa là cao trào cảm xúc được dồn tụ trong sáu câu thơ trước ,vừa mở ra những gì chứa đựng ở suy nghĩ tiếp sau :

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Đi dọc bài thơ là sự sóng đôi của hai hình tượng “anh” và “tôi”.Tình tri kỉ, tình đồng chí đựơc bắc qua sự sóng đôi có ý nghĩa bổ sung ấy .Vì vậy đến đây, khi tác giả chỉ nói một cảnh ngộ ,người đọc vẫn có ấn tượng chung cho cả hai.Mấy câu thơ nói về gia cảnh của người này hoá ra lại diễn đạt sâu sắc tình yêu thương lặng lẽ của người kia .Là nông dân ,với họ ruộng đất quí hơn vàng , vào bộ đội ,họ để lại đằng sau xóm làng ,đất đai,nhà cửa.”Mặc kệ “đấy mà sao lưu luyến thế ,đến cả giếng nước gốc đa cũng chợt có hồn,biết nhớ ,biết thương người nơi tiền tuyến . “Giếng nước gốc đa” hay chính là đôi mắt hẹn ngày về của người bạn gái, làm ấm lòng người lính phương xa ?Tất cả đều có thể ,bởi một chút nhung nhớ ấy cùng với ngôi nhà ,ruộng nương và xóm làng thân thuộc là động lực để vì nó mà anh chấp nhận bao nhiêu gian khổ :

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi . Áo anh rách vai , Quần tôi có vài mảnh vá , Miệng cười buốt giá , Chân không giày .

Không một chút tô vẽ điểm trang ,Chính Hữu tái hiện cuộc sống thiểu thốn của cuộc đời quân ngũ bằng những chi tiết thành thực đến thương lòng : áo rách,quần vá,chân không giày, sao chống nổi những cơn sốt rét giữa rừng sâu ?! Trong hoàn cảnh ấy, người lính sẻ chia cho nhau tình yêu thương ở mức tột cùng “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay “. Một câu thơ thôi song nói được bao điều. Bàn tay tìm đến nhau như san sẻ cho nhau ,truyền cho nhau hơi ấm ,niềm tin và sức mạnh . “Anh – tôi “nhoà đi sau “miệng cười buốt giá” để niềm tin , niềm lạc quan ,sự bất chấp khó khăn gian khổ của người lính hiện lên .Chính Hữu đã rất tinh khi phát hiện ra nội lực tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính .Chính nó đã góp phần tạo nên chiều sâu cho tình đồng chí thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này .

Những câu thơ cuối bài hoàn thiện một cách xuất sắc chân dung người lính mộc mạc mà khoẻ khoắn, can trường :

Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.

“Rừng hoang sương muối”. Lại là cái giá ,cái rét run người của thiên nhiên khắc nghiệt ,song thiên nhiên không thể nào can thiệp tới ý chí và tình cảm của người chiến sĩ .Bởi các anh đứng cạnh bên nhau, chở che, nương tựa vào nhau trong tư thế chủ động chờ giặc tới .Và hình ảnh thơ cuối cùng mới đẹp làm sao!ở một góc nhìn nghiêng,vầng trăng như treo trên đầu nòng súng giơ cao của người chiến sĩ . Hình ảnh súng và trăng trở thành biểu tượng cho sự kết hợp hài hoà giữa thực và mộng,giữa chất chiến đấu và chất trữ tình ,giữa tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn thi sĩ. Giữa rừng đêm hoang lạnh ,hình ảnh ấy tạc vào đêm tạo thành bức tượng đài chiến sĩ vững vàng mà thơ mộng .

Bài thơ dừng lại khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh những người nông dân mặc áo lính chân thật mà ấm nồng tình đồng đội .Bởi thế bài thơ không chỉ là tác phẩm xuất sắc của Chính Hữu mà còn là thi phẩm xuất sắc nhất về người lính Cụ Hồ của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Cảm Nhận Vẻ Đẹp Của Tình Đồng Chí Đồng Đội Trong Bài Thơ “Đồng Chí”

BÀI LÀM VĂN SỐ 1 VẺ ĐẸP CỦA TÌNH ĐỒNG CHÍ TRONG “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU

Chính Hữu là người lính và cũng là nhà thơ của lính. Thơ ông không nhiều song ấn tượng bởi lời thơ hàm súc, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng. “Đồng chí” là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu viết năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, khó khăn. Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Chính Hữu bị ốm nặng phải nằm lại tại một trạm quân y, đơn vị đã cử người ở lại chăm sóc. Cảm động trước tấm lòng tình cảm của người đồng đội, Chính Hữu đã viết lên bài thơ. Bài thơ đã khắc họa hình tượng người lính cách mạng từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn, gắn bó của họ.

Trước hết vẻ đẹp của tình đồng chí được thể hiện ở cơ sở hình thành lên tình đồng chí. Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí là cùng chung cảnh ngộ xuất thân – đều là những người nông dân mặc áo lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Lời thơ tự nhiên như lời kể của người lính về quê hương: anh đi lên từ vùng đồng bằng chiêm trũng “nước mặn đồng chua”, tôi đi ra từ vùng “đất cày lên sỏi đá”- vùng trung du miền núi. Quê anh, làng tôi – hai vùng quê cách xa nhau nhưng đều chung nhau cái nghèo khó, lam lũ. Việc sử dụng sáng tạo những thành ngữ tục ngữ đã tạo cho lời thơ mộc mạc tự nhiên như tâm hồn người trai cày nói về quê hương mình. Như vậy, những người lính đều ra đi từ những làng quê nghèo khó, họ đều là những người nông dân mặc áo lính. Chính sự đồng cảnh, đồng giai cấp đã tạo cơ sở ban đầu vững chắc để hình thành lên tình đồng chí.

Cơ sở thứ hai hình thành lên tình đồng chí là cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng. Anh với tôi từ bốn phương trời xa lạ chẳng hẹn mà cùng tụ hội về đây trong quân ngũ của lá cờ cách mạng bởi: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Câu thơ có hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng: “súng bên súng” là cùng chung nhiệm vụ cầm súng chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là cùng chung chí hướng, lý tưởng ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc quyết tâm chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. Cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng đã gắn kết anh tôi với nhau.

Tình đồng chí còn được hình thành từ sự chia sẻ gắn bó trong gian khổ khó khăn:

Câu thơ đầy ắp kỷ niệm của một thời gian khổ khó khăn: những đêm đông lạnh giá chăn không đủ đắp, họ phải chung nhau mảnh chăn mỏng. Tấm chăn sui khép lại đêm đông lạnh giá nhưng mở ra sự gắn bó hiểu nhau như tri kỷ. Cấu trúc anh tôi sống đôi khi ở hai câu thơ khi gộp làm một đã diễn tả quá trình từ xa lạ, quen nhau rồi thành tri kỉ và kết thành: “Đồng chí”. Câu thơ thứ bảy chỉ với hai tiếng và dấu chấm than vang lên như một nốt nhấn thể hiện sự phát hiện về một thứ tình cảm bình dị mà thiêng liêng, mới mẻ của những người lính cách mạng: đồng chí. Câu thơ như bản lề của bài thơ vừa khái quát cảm xúc ở sáu câu thơ đầu, vừa mở ra những biểu hiện ở những dòng thơ tiếp theo. Đồng thời làm nổi bật một quy luật tất yếu: cùng chung cảnh ngộ xuất thân, cùng nhiệm vụ lý tưởng, cùng chia sẻ gắn bó thì sẽ trở thành đồng chí của nhau.

Vẻ đẹp của tình đồng chí còn được thể hiện ở những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí. Biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí là họ thấu hiểu tâm tư, nỗi lòng của nhau:

” Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đã nhờ người ra lính.”

Những người lính ra đi để lại sau lưng tất cả những gì thân thuộc nhất: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa. Từ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ dứt khoát quyết chí ra đi vì nghĩa lớn. Mặc kệ mà không hề dửng dưng vô tình: họ ra đi nhưng từ trong sâu thẳm người lính vẫn nhớ về quê hương, họ vẫn biết nơi quê nhà ruộng nương vẫn chờ tay người cày xới, gian nhà lung lay trong gió chờ người sửa sang, nơi giếng nước gốc đa có ánh mắt người thân trông ngóng. Đặc biệt hình ảnh nhân hóa ẩn dụ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” đã thể hiện quê hương vẫn nhớ người trai cài ra trận hay người ra trận vẫn nhớ về quê hương. Nỗi nhớ hai chiều càng trở nên da diết. Trong đoạn thơ cấu trúc “anh- tôi” sóng đôi giờ chỉ còn lại anh: nỗi nhớ quê hương trong lòng anh được tôi nói hộ. Tôi nói cho anh hay đó cũng chính là nỗi nhớ quê hương của tôi. Những người lính họ thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau.

Tình đồng chí còn được thể hiện ở sự chia sẻ gắn bó trong gian khổ khó khăn của cuộc đời người lính. Anh với tôi cũng chịu những cơn sốt rét từng hành hạ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.”

Cơn sốt rét từng đã trở thành căn bệnh phổ biến với những người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp ăn uống kham khổ, thiếu thốn thuốc men. Chính Hữu đã gợi tả một cách chân thực: “biết ớn lạnh”, “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Anh với tôi cùng chịu cảnh thiếu thốn:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày”

Chính Hữu đã đưa vào trong lời thơ những hình ảnh chân thực về cuộc sống chiến đấu của người lính Cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp thiếu thốn đủ bề từ lương thực đến tư trang. Để từ đó người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về anh bộ đội. Cấu trúc “anh – tôi” lại sóng đôi như khẳng định trong gian khổ khó khăn đều có anh có tôi cùng chia sẻ gắn bó.

Trong gian khổ khó khăn người lính cách mạng hiện lên vẫn hiên ngang, lạc quan. Trong gian khổ khó khăn họ vẫn nở nụ cười – nụ cười lạc quan ấm áp xua tan cái giá buốt. Đặc biệt là hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” rất tự nhiên, chân thực nhưng đã thể hiện sâu sắc cảm động tình đồng chí của người lính cách mạng. Họ nắm lấy tay nhau như để động viên nhau, như để truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh của tình đồng chí để cùng nhau chắc tay súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Phải chăng tình đồng chí vừa là vẻ đẹp vừa là cội nguồn sức mạnh của người lính cách mạng?

Không những thế vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ còn được thể hiện ở biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí. Với bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn ba câu thơ cuối đã gợi lên bức tranh cảnh đường đêm khuya thật đẹp:

Trên nền hiện thực khắc nghiệt: đêm khuya, nơi “rừng hoang sương muối” giá buốt, người lính hiện lên với tư thế chủ động hiên ngang “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Chính tư thế thành đồng vách sắt ấy đã làm lu mờ đi mọi gian khổ khó khăn. Phải chăng chính tình đồng chí đã làm lên vẻ đẹp ấy của người lính? Hình ảnh người lính được kết đọng lại qua chi tiết bất ngờ, độc đáo:

“Đầu súng trăng treo” được Chính Hữu nhận ra từ chính những đêm hành quân phục kích chờ giặc của mình và đồng đội. Giữa mênh mông bát ngát của rừng khuya, người lính chắc tay súng canh gác, mũi súng hướng lên trời. Trăng lơ lửng giữa không trung, càng về khuya trăng xuống thấp dần, đến một mức độ nào đó nhìn lên trăng như treo trên đầu ngọn súng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn gợi bao liên tưởng thú vị cho người đọc: “súng” là biểu tượng của chiến tranh, của hiện thực, của chất chiến sĩ; “trăng” là biểu tượng của hòa bình, của lãng mạn, của chất thi sĩ. Sự kết hợp của hai hình ảnh tưởng chừng như đối lập nhau mà lại hỏi hòa bổ sung cho nhau để cùng nói về các mặt của người lính và tình đồng chí: vừa chiến sĩ mà lại rất thi sĩ, vừa hiện thực mà lại lãng mạn. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc kháng chiến: người lính cầm súng chiến đấu bảo vệ hòa bình cho quê hương, đất nước. Nhịp thơ 2/2 như gợi nhịp lắc của cái gì lơ lửng chung chiêng giữa bát ngát mênh mông chứ không thể buộc chặt. Giữa hiện thực khắc nghiệt nhưng tâm hồn người lính vẫn lãng mạn, bay bổng bởi trong lòng họ có tình đồng chí ấm áp. Chính vì vậy “Đầu súng trăng treo” đã trở thành biểu tượng của người lính cách mạng trong văn học kháng chiến và được Chính Hữu chọn làm nhan đề cho tập thơ nổi tiếng của ông.

Với bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực giàu sức gợi, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã đem đến cho người đọc cảm nhận chân thực về người lính cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.

BÀI LÀM VĂN SỐ 2 VẺ ĐẸP CỦA TÌNH ĐỒNG CHÍ TRONG “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU

Chính Hữu là một nhà thơ quân đội trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Thơ của ông có bề dày về thời gian, tầng cao về cảm xúc, giàu chất hiện thực và vẻ đẹp của người lính Cách Mạng trong kháng chiến. Chính Hữu viết không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều mang hơi thở của thời đại, trong đó có bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ với những vẻ đẹp giản dị, sơ khai nhưng có một đời sống tâm hồn, mục đích, lý tưởng cao đẹp, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, thắm thiết.

Bài thơ được làm theo thể thơ tự do, 20 dòng thơ với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thơ thủ thỉ, tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có nhiều câu thơ để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hai người lính trẻ chụm đầu vào nhau kể chuyện tâm tình:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ đầy ấn tượng về những vùng đất cảnh đời đầy nhọc nhằn, vất vả. Cách nói cô đúc, khắc họa rõ nét những vùng quê nghèo của những người lính. Các anh đến từ những miền quê khác nhau nhưng lại chung cái đói, cái nghèo lam lũ. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy như cuộc sống thực đã ùa vào trong câu chữ đem đến những cảm nhận sâu sắc về hoàn cảnh xuất thân và quê hương của những người lính. Tổ Quốc gọi các anh lên đường, họ không hẹn mà gặp gỡ ở chiến trường. Nơi đây các anh cùng chung lý tưởng, nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Tình đầu chí nảy nở bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên nọ lại hở bên kia. Trong những ngày tháng thiếu thốn ấy, từ “xa lạ” họ trở thành “tri kỷ”.

“Tri kỷ” là những người bạn thân thiết, hiểu rõ về nhau. Vất vả, nguy nan đã gắn kết những người lính trở thành bạn tâm giao gắn bó. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng tình cảm trìu mến yêu thương đồng đội. Hình ảnh giản dị nhưng cảm động biết bao.

Từ trong tâm khản, họ bỗng bật thốt lên hai từ “Đồng chí!”, đặt cả trong một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. “Đồng chí” với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khác nhau vừa mới mẻ lại vừa thiêng liêng. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích, là mối tình tri kỷ nhưng được thử thách, tôi rèn trong gian khổ. Như vậy trong tình đồng chí còn có tình giai cấp, tình bè bạn, tình tri kỷ, mối tình dân tộc của những người vì nước, quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ nhưng chất chứa dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ 6 câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo.

Từ những cơ sở hình thành tình đồng chí, những biểu hiện cao đẹp đầy xúc cảm ở những câu tiếp theo, Chính Hữu cụ thể hơn vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng thắm thiết. Đồng chí trước hết là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Hai chữ “mặc kệ” đã lột tả được tinh thần mến nghĩa của những người nghĩa binh nông dân trong thơ Nguyễn Đình Chiểu, tinh thần “Ra đi không vương thê nhi” của các đấng trượng phu xưa, và tinh thần “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” của những người tự vệ thủ đô trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Nhưng khi đặt cạnh “Gian nhà không” và “Gió lung lay” thì có gì đó cảm động quá. Người lính không hoàn toàn “mặc kệ” như khẩu khí đâu. Đó là đức hy sinh. Hy sinh những thứ gắn bó để bảo vệ quê hương đất nước. Một đức hy sinh giản dị cảm động lòng người.

Trải qua những ngày gian lao kháng chiến đã ngời lên phẩm chất anh hùng ở những người nông dân mặc áo lính. Cái nhìn hiện thực đã giúp nhà thơ ghi lại được những nét chân thực về cuộc đời đi chiến đấu của người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Chính Hữu còn ghi lại được những hình ảnh người lính can trường vượt lên vững vàng trên vị trí của mình. Bức tượng đài cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ là bức tranh tuyệt đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt qua tất cả khắc nghiệt của thời tiết. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh tả thực, vừa là hình ảnh biểu tượng. Bốn chữ có nhịp lắc của cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Suốt đêm vầng trăng ở trên cao thấp dần và có lúc treo lơ lửng trên nền mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn thân thiết, gắn bó. “Súng” và “trăng” gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. “Súng” biểu tượng cho chiến đấu, “trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp thơ mộng, trong sáng, thanh cao, vĩnh hằng. “Súng” và “trăng”, gần và xa, thực tại và mơ mộng, chiến sĩ và thi sĩ, chất chiến đấu và chất trữ tình. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao từ cuộc đời chiến đấu.

Tình đồng chí đồng đội như là sự hội tụ, tập trung tất cả những tình cảm, những phẩm chất của nhũng người lính giản dị, cao quý. Gian lao thử thách khiến tình đồng chí đồng đội thêm keo sơn sâu sắc. Ngược lại, tình đồng chí đồng đội giúp người lính có sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn

Nguồn Internet

Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí

Phân tích bài thơ Đồng Chí

Phân tích bài Mùa xuân nho nhỏ Chính Hữu ” Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo “

Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ Tố Hữu . Hình ảnh người lính trên đường ra trận trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn khó phai mờ . Cũng viết về người lính kháng chiến thời chống Pháp nhưng bài thơ Đồng chí của Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác . Đó là mối tình đồng chí đồng đội được hình thành và phát triển trong điều kiện chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian khổ để tạo nên phẩm chất dẹp đẽ , một trong những nguòn sức mạnh của quân đội ta .

Thật vậy , bài thơ Đồng chí không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ được nhiwuf người biết đến nhất , thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến Đồng chí . Bài thơ đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người .

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu được sáng tác theo thể thơ tự do , chỉ có 20 dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí , đồng đội thật sâu sắc . Mở đầu bài thơ tác giả viết :

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Bằng thành ngữ ” Nước mặn đồng chua ” và hình ảnh gợi tả “Đất cày lên sỏi đá ” có sức khái quát cao . Tác giả đã giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp . Họ là những người sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói ” nước mặn đồng chua ” , “đất cày lên sỏi đá ” . Họ thật sự là những người nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc ” , đang chống chọi lại với thời tiết khắc nghiệt của vùng quê chua phèn sỏi đá để khoát lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê hương đất nước thân yêu .

Mỗi người một vùng quê , những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa hề quen biết nhau .

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp , cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng thân quen với nhau . Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ ” Nhớ ” của mình cũng thể hiện tình cảm này .

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ

Gặp nhau hòi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến “

Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí . trước hết phải nói tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu .

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Súng bên sung là cách nói hàm súc , hình tượng . Cùng chung lí tưởng chiến đấu . Anh cùng tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương , vì độc lập tự do và sống còn của dân tộc . “Đầu sát bên đầu ” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao . Có thể nói hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc . Súng và đầu , ý chí và tình cảm là sự gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng . Câu thơ ” Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ” là câu thơ hay và cảm động đầy ắp kỉ niệm của một thời gian khổ . Đã là đôi tri kỉ phải hiểu nhau thông cảm cho nhau , chia sẻ ngọt bùi cho nhau . Phải là người bạn chí cốt bên nhau . Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân , cùng chung lí tưởng chiến đấu . Câu thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể , giản dị mà hết sức gợi cảm .

“Đồng chí ” . Câu thơ chỉ gồm hai tiếng như ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thoiư , đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn , là sự kết tinh mọi cảm xúc , mọi tình cảm . Tình đồng chí là cao độ của tình bạn tình người .

Phân tích bài thơ Đồng Chí

Ruông nương anh gởi bạn thân cày

Gian nhà không mặt kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người trai làng ra lính

Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng , từng cảnh ngộ riêng của những người lính vốn là nông dân đó . Gơi bạn thân cày mảnh ruộng của mình . Nhớ tới gian nhà trống không ” gió lung lay “. Sẵn sàng gởi lại những gì quí giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn . Hai chữ “mặc kệ ” đã nói được một cách dứt khoát mạnh mẽ của những người lính ra trận . Họ dứt khoát nhưng không vô tình , trong lòng họ vẫn nặng tình với quê hương thân yêu . Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết :

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

“Giếng nước gốc đa ” hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao ” Cây đa giếng nước sân đình “. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người ra trận . Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây thêm ấn tượng mạnh mẽ .

Mối tình đồng chí keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau mà đó còn là sự cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính .

Ao anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Bằng những hình ảnh thơ chân thực và xúc động , gợi tả , gợi hình . Tác giả đã làm sống dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đấu của người lính thời chống Pháp . Đó là những gian khổ tột cùng của người lính , những cơn sốt run người vừng trán ứơt mồ hôi , những trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét . Những gian lao thiếu thốn ấy càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ . Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá ” thật đáng yêu làm sao . Hình ảnh người lính thật đáng trân trọng mỗi khi ta đọc những câu thơ nói về cuộc sống kham khổ của họ .

Ao vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Chúng ta mới cảm thấy khâm phục và tự hào biết bao .

Vậy sức mạnh nào để giúp cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy ? Có phải chăng đó là tình đồng chí dồng đội “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay “.

Thật giản dị và xúc động của sự biểu hiện tình đồng chí , đồng đội thiêng liêng ở hững người lính . Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng . Tình đồng chí còn được thử thách cao nhất là trong chiến đấu , trong sự sống chết nơi chiến hào .

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Có thể nói đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp của tình đồng chí , là một biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ . Trong cảnh “Rừng hoang sương muối ” những người chiến sĩ phục kích chờ giặc đứng bên nhau , Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn . Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét . Trong cái đêm phục kích ấy có vầng trăng như treo trên đầu súng . Một hình ảnh thơ rất đặc sắc chỉ có bốn tiếng thôi nhưng dã gây cho người đọc một bất ngờ thú vị . Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng . Súng và trăng là gần và xa , thực tại và mơ mộng , chất chiến đấu và chất trữ tình , chiến sĩ và thi sĩ . Súng còn là biểu tượng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do . Trăng là biểu tượng của non nước thanh bình cùng đặt trên một bình diện “đầu súng trăng treo “. Ý thơ đã đem đến cho chúng ta một liên tưởng về tâm hồn người lính rất đẹp . Trong ác liệt chiến tranh vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui . Có thể nói đó là các mặt bổ sung cho nhau , hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mạng . Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ .

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu rất hàm súc , mộc mạc , chân thực và có sức gợi tả khái quát cao , đã khắc họa được một trong những phẩm chất đẹp của anh bộ đội cụ Hồ . Đớ là mối tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn , gian khổ có nhau , sóg chết có nhau . Bài thơ có thực có hư tạo nên vẻ đẹp hài hòa , gây cho người đọc những suy tư sâu sắc , những xúc động sâu lắng . Có thể nói bài thơ Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ , mộc mạc , bình dị cao cả và thiêng liêng .

Phân tích bài thơ Đồng Chí