Viết Kết Bài Bài Thơ Tây Tiến / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Mở Bài Kết Bài Cho Tây Tiến

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ tinh tế, lãng mạn, tài hoa. Là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. Ông rất thành công với những bài thơ viết về người lính, trong đó có bài “Tây Tiến”.

Mở bài 2 (gián tiếp)

Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, Tây Tiến được xem là bông hoa đầu mùa vừa đẹp lại vừa lạ. Bông hoa ấy được nở ra từ hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn. Đó chính là người nghệ sĩ tài hoa – nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng” – Quang Dũng.

Có những “bài ca không bao giờ quên”, cũng có những năm tháng chiến tranh không phai mờ trong ký ức. Cùng với khí thế sôi sục của những năm mưa bom bão đạn, văn học, với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách sống động tượng đài của những chiến sĩ anh hùng kiên trung. Để ngày hôm nay lòng ta không khỏi bùi ngùi xúc động khi đọc lên những câu thơ bất hủ trong áng thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng.

Mở bài 4. Mở bài này thầy Phan Danh Hiếu viết thêm ngày 5.11.2019

Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ “Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu”. Vâng! Có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, như “bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” để rồi in dấu ấn và chạm khắc trong tâm khảm ta những gì đẹp nhất để “suốt đời đi vẫn nhớ”. Đó phải chăng là những tác phẩm đã “vượt qua mọi băng hoại” của thời gian trở thành “bài ca đi cùng năm tháng” để lại trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ những dư vang không thể nào quên. Một trong số bài ca đó phải kể đến “Tây Tiến” của người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Trong bài thơ có những vần thơ thật lắng đọng, đặc biệt là đoạn tả chân dung người lính:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Mở bài 5. (Facebook cô Diễm Hằng – Hà Nội)

Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến : “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.

HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO

Mở bài 6 (cho đoạn thơ thứ 3) (trích 127 BÀI VĂN) Sau khi mở bài xong và dẫn dắt vào vấn đề theo yêu cầu của đề bài thì phần thân bài cần giới thiệu:

Bài thơ “Tây Tiến” có thể xem như một hiện tượng “xuất thần” của Quang Dũng trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đó là “đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện” (Phong Lê) được khí phách của cả một thời đại ùa vào, chắp cánh để cho cái chất bi tráng bay lên như một nét đẹp hiếm có của một thời thơ.

Kết bài

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”.

“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông”

Tây Tiến là một trong những bài thơ đặc sắc của Quang Dũng nói riêng và thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ là nỗi hoài niệm bâng khuâng về con đường hành quân giữa thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, thơ mộng. Trên chặng đường quân hành đó, nổi bật lên là hình tượng người lính với tinh thần chiến đấu quả cảm và tâm hồn lãng mạn hào hoa dù phải sống giữa bao gian khổ và thiếu thốn. Xin được mượn mấy lời thơ của Giang Nam thay cho lời kết:

CÁCH VIẾT MỞ BÀI HAY – XEM VIDEO

Mở Bài Kết Bài Bài Thơ Tây Tiến Chinh Phục Mọi Giám Khảo

Mở bài Tây Tiến đoạn 2

Ơi, kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường

Cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân pháp lắm gian khổ hi sinh nhưng cũng đầy tự hào, oanh liệt để trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho nhiều thi phẩm nổi tiếng. Trong những chàng trai ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc có trái tim nhiệt thành của tầng lớp thanh niên trí thức Hà Nội. Hình ảnh người chiến sĩ “lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” được thể hiện đậm nét trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ đã bổ sung hoàn thiện cho nét đẹp lãng mạn hào hoa phong nhã lại vừa mang đậm tinh thần bi tráng của người lính Tây Tiến.

Mở bài trực tiếp Tây Tiến

Cho đến nay Tây Tiến vẫn là một đài thơ đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơ Tây Tiến…chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ, ý thơ, hình tượng thơ giầu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây Tiến. Với Tây tiến, Quang Dũng đưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm,của sự vọng tưởng diệu huyền. Với Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

Mở bài gián tiếp Tây Tiến

Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến.

Mở bài Tây Tiến đoạn 3

Chiến tranh đã qua đi, những hạt bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, họ đã dùng máu và nước mắt của mình tô lên hai chữ “độc lập” của dân tộc. Tây Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong giai đoạn lịch sử khốc liệt những 1945-1954. Qua bài thơ này, Quang Dũng đã dùng bút lực của mình để vẽ lên thi đàn văn chương một bức tượng đài người lính Tây Tiến vừa lãng mạn hào hoa, vừa hào hùng bi tráng.

Mở bài Tây Tiến đoạn 1

Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xếNhững cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹGió nói tôi nghe những tiếng thì thào“Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau…” ( Cuộc chia ly màu đỏ – Nguyễn Mỹ)

Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm không thể nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, là để báo thù, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình cảm cá nhân vị kỉ để đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thực xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ.

Kết bài Tây Tiến

Bức trượng đài người lính Tây Tiến trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp được khắc họa bởi bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng ấy gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người lính trong Ngày về của Chính Hữu:

Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửaCả kinh thành nghi ngút cháy sau lưngNhững chàng trai chưa trắng nợ anh hùngHồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắmRách tả tơi rồi đôi giày vạn dặmBụi trường chinh phai bạc áo hào hoa

Cảm hứng lãng mạn những vẫn là cái gốc, là hiện thực – hiện thực của thiên nhiên đất nước, hiện thực đời lính. Nhờ cảm hứng lãng mạn nên hiện thực không đau thương mà sang trọng hào hoa, lãng mạn mà vẫn gắn bó với nhịp đấu tranh của nhân dân, đất nước.

Phân Tích Bài Thơ “Tây Tiến”

1. Mở bài:

– Dẫn dắt.

– Giới thiệu chung về Quang Dũng.

– Giới thiệu chung bài thơ ”Tây Tiến”.

2. Thân bài:

a. Đoạn 1: Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên con đường hành quân gian khổ

* Hai câu thơ mở đầu:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

– Câu 1: nhắc tới 2 danh từ – điểm về, nơi đến của nỗi nhớ.

+ Tây Tiến: Đoàn binh.

+ Ngắt nhịp 4/3.

+ Nhớ rừng núi: Không gian mênh mông của miền Tây.

* Bức tranh thiên nhiên vừa dữ dội, hoang vu, hiểm trở vừa thơ mộng, trữ tình của núi rừng

– Bức tranh thiên nhiên dữ dội, hoang vu, hiểm trở:

+  BPNT liệt kê nhắc tới một loạt các địa danh ở miền Tây ấn tượng, khó quên trong đời lính.

+ Sương rừng: ở Sài Khao, Mường Lát: tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh, bản làng, vùng đất người lính đã đi qua.

+ Dốc núi, vực sâu (ba câu thơ tiếp)

+ Núi rừng qua nét vẽ ấn tượng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

– Bức tranh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình

+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân.

+ Mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

+ Cơm lên khói, mùa em thơm nếp xôi

+ Mùa em: mùa lúa chín; liên tưởng xao xuyến nồng nàn trước nụ cười rạng rỡ, ánh mát sóng sánh từ tình người miền Tây.

+ “Nhà ai”: vừa phiếm chỉ, vừa nghi vấn.

* Hình ảnh người lính Tây Tiến đi hành quân:

– Hồn nhiên, tinh nghịch: súng ngửi trời, cọp trêu người (chất lính).

– Kí ức về người lính trên đường hành quân:

“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”

+ Anh bạn: gọi đồng đội tình cảm thân thiết, gắn bó.

+ Từ láy dãi dầu: vất vả, khó khăn, nhọc nhằn mà người lính phải đối mặt, vượt qua trên đường hành quân.

+ Không bước nữa, bỏ quên đời: Có thể hiểu là nghỉ ngơi buông mình vào giấc ngủ vô tư lự trẻ trung / có thể hiểu kiệt sức – xót xa / có thể hiểu là cái chết nhẹ nhõm quên đời.

b. Đoạn 2: Tình quân dân gắn bó thiên nhiên con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ

* Thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

– Không gian: ánh sáng lung linh của lửa đuốc, âm thanh réo rắt của tiếng đàn, cảnh vật và con người như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực.

– Nhân vật trung tâm: em với áo xiêm lộng lẫy (xiêm áo tự bao giờ), vừa e thẹn vừa tình tứ (e ấp), vừa duyên dáng trong điệu vũ xứ lạ (man điệu).

– Hai chữ kìa em: cái nhìn vừa ngạc nhiên vừa mê say, ngây ngất của các chàng trai Tây Tiến.

* Cảnh sông nước miền Tây:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

– Con người:

+ Dáng người trên độc mộc: dáng hình mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái trên những chiếc thuyền độc mộc.

+ Vẻ đẹp của con người hoà hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên: những bông hoa rừng cũng “đong đưa”, làm duyên trên dòng nước lũ.

c. Đoạn 3: Hình tượng người lính Tây Tiến

* Chân dung hiện thực của người lính:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

– Vừa bi: Ngoại hình khác thường do hiện thực nghiệt ngã:

+ “không mọc tóc”: người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi giáp lá cà, người thì bị sốt rét đến rụng tóc.

+ “Quân xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét, bệnh tật hành hạ.

– Vừa hùng: không né tránh hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua cái nhìn lãng mạn:

+ “Đoàn binh không mọc tóc”: “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân”.

+ “Quân xanh màu lá” nhưng vẫn “dữ oai hùm”.

* Tâm hồn lãng mạn của người lính.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

-  “Mắt trừng”: cái nhìn nảy lửa đối với kẻ thù. Đôi mắt như thiêu đốt quân thù.

– “Gửi mộng qua biên giới”: chiến đấu dũng cảm nhưng cũng rất nhớ quê hương, gửi “mộng” cũng tức là gửi gắm hoài bão, lí tưởng, tâm hồn mình qua biên giới vì nhiệm vụ của người lính là bảo vệ biên giới nên họ luôn đề cao tinh thần trách nhiệm của mình.

– Nỗi nhớ trong giấc mơ:

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

+ Nhớ người yêu, những cô gái Hà Thành duyên dáng, xinh đẹp.

+ Diễn tả đúng thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

* Cái chết bi tráng và sự bất tử:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

– Miêu tả cái chết nhưng không bi luỵ:

+ Những từ Hán Việt cổ kính: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” .

+ Phủ định từ chẳng (khác với không-sắc thái trung tính) và cách nói hoán dụ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

– Hai câu thơ tiếp theo thấm đẫm tinh thần bi tráng:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

+ Áo bào thay chiếu: sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, phải mai táng bằng chính chiếc áo các anh mặc hàng ngày.

+ Gọi áo các anh là áo bào: nghe trang trọng, thiêng liêng, thể hiện tình cảm yêu thương đồng đội.

d. Đoạn 4: Lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây Bắc

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

– Cách nói khẳng định: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”.

– Đường lên Tây Tiến: thăm thẳm, chia phôi: nỗi xót xa khi đã xa đồng đội, khi nghĩ đến đường lên Tây Tiến xa xôi, vời vợi.

– Lời thề cùng Tây Tiến:

+ Mùa xuân ấy: thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại.

                                (tâm hồn)   (thể xác)

3. Kết bài: Suy nghĩ, cảm xúc về bài thơ.

Bài Văn: Bình Luận Bài Thơ “Tây Tiến” (1)

Tây Tiến vẫn là một đài thơ (thi sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơ Tây Tiến chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ, ý thơ, hình tượng thơ giàu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây Tiến. Cái độc đáo của bài thơ là không có cấu tứ,cái kết của bài thơ (của cuộc hành binh) lại không nằm ở cuối bài mà lại nằm ở 2 câu 13-14/34:

Nhớ ôi, Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Với Tây Tiến, Quang Dũng dưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh bộ đội Cụ Hồ (Vệ quốc đoàn – Vệ út – Vệ túm – Lính râu ria) thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng – cái buổi đầu đi làm cách mạng của những trai tài gái sắc đất Hà thành (và ven đô) hiên ngang, hào hoa phong nhã, cái thời “chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh” (tả thực) với “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (lãng mạn). Bút pháp bậc thầy của Tây Tiến là nhà thơ đã vận dụng sáng tạo kỹ xảo thơ truyền thống (thơ Đường) với “phép đối” trong từng câu, đoạn thơ, từng khổ thơ tạo ra 2 vế âm/dương, tương phản trong một “trường đối nghịch” (thủ pháp đối lập) nhằm tô đậm ý tưởng “không ca ngợi một chiều” mà là phản ánh đúng hiện thực của cuộc chiến… đó là sự đói chọi, sự tàn khốc của chiến tranh lấy ý chí (Việt Nam) chọi lại sắt thép (thực dân Pháp). Thủ pháp đối ý, đối âm trong Tây Tiến với những câu thơ ăm ắp hồn chiến sĩ, tạo nên khẩu khí bi tráng của toàn bài. Đó là lối diễn đạt độc đáo, cao thủ mà hình như chỉ riêng Quang Dũng một mình trong cõi thơ

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời

để Tây Tiến ở một vị trí tượng đài vút lên trời xanh giữa núi rừng Tây Bắc hùng vĩ của Tổ quốc! Trong Tây Tiến có một hình tượng thơ đã làm không ít người thắc mắc, đó là

Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…

đó chẳng qua là một từ hoa “ẩn dụ” cảm từ câu ca dao xứ Mường “trăm thứ hoa không bằng hoa con gái” mà con gái Thái – Mường là “bông hoa rừng”chèo thuyền độc mộc đưa bộ đội qua sông đang mùa nước lũ… Qua rồi để nhà thơ lãng mạn lưu giữ một bóng dáng cô lái đò trên “Châu Mộc chiều sương ấy” cứ đong đưa trong con mắt người Sơn Tây đẹp đến lạ lùng. Cái chết (hi sinh) của người chiến sĩ nay không phải là “da ngựa bọc thây” mà là “chiến bào thay chiếu anh về đất” để Sông Mã gầm lên như súng thần công bắn vang trời tiễn đưa người anh hùng… Dùng cái bi, cái mất mát để tôn vinh cái hào hùng… với cảm hứng lãng mạn cách mạng được đặc tả trên cái nền hiện thực đã tạo nên âm hưởng, ma lực kỳ diệu của bài thơ Tây Tiến rất kinh điển mà cũng rất hiện đại – đó là một trong những bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam thế kỷ XX đặt trong hành trang ta mang theo đi vào thế kỷ XXI, hội nhập cùng làng thơ thế giới hôm nay.

Cho đến nayvẫn là một đài thơ (thi sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơchưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ, ý thơ, hình tượng thơ giàu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ. Cái độc đáo của bài thơ là không có cấu tứ,cái kết của bài thơ (của cuộc hành binh) lại không nằm ở cuối bài mà lại nằm ở 2 câu 13-14/34:Với, Quang Dũng dưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh bộ đội Cụ Hồ (Vệ quốc đoàn – Vệ út – Vệ túm – Lính râu ria) thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng – cái buổi đầu đi làm cách mạng của những trai tài gái sắc đất Hà thành (và ven đô) hiên ngang, hào hoa phong nhã, cái thời “chiến trường đi chẳng tiếc ngày xanh” (tả thực) với “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (lãng mạn).Bút pháp bậc thầy củalà nhà thơ đã vận dụng sáng tạo kỹ xảo thơ truyền thống (thơ Đường) với “phép đối” trong từng câu, đoạn thơ, từng khổ thơ tạo ra 2 vế âm/dương, tương phản trong một “trường đối nghịch” (thủ pháp đối lập) nhằm tô đậm ý tưởng “không ca ngợi một chiều” mà là phản ánh đúng hiện thực của cuộc chiến… đó là sự đói chọi, sự tàn khốc của chiến tranh lấy ý chí (Việt Nam) chọi lại sắt thép (thực dân Pháp). Thủ pháp đối ý, đối âm trongvới những câu thơ ăm ắp hồn chiến sĩ, tạo nên khẩu khí bi tráng của toàn bài. Đó là lối diễn đạt độc đáo, cao thủ mà hình như chỉ riêng Quang Dũng một mình trong cõi thơđểở một vị trí tượng đài vút lên trời xanh giữa núi rừng Tây Bắc hùng vĩ của Tổ quốc!Trongcó một hình tượng thơ đã làm không ít người thắc mắc, đó làđó chẳng qua là một từ hoa “ẩn dụ” cảm từ câu ca dao xứ Mường “trăm thứ hoa không bằng hoa con gái” mà con gái Thái – Mường là “bông hoa rừng”chèo thuyền độc mộc đưa bộ đội qua sông đang mùa nước lũ… Qua rồi để nhà thơ lãng mạn lưu giữ một bóng dáng cô lái đò trên “Châu Mộc chiều sương ấy” cứ đong đưa trong con mắt người Sơn Tây đẹp đến lạ lùng.Cái chết (hi sinh) của người chiến sĩ nay không phải là “da ngựa bọc thây” mà là “chiến bào thay chiếu anh về đất” để Sông Mã gầm lên như súng thần công bắn vang trời tiễn đưa người anh hùng…Dùng cái bi, cái mất mát để tôn vinh cái hào hùng… với cảm hứng lãng mạn cách mạng được đặc tả trên cái nền hiện thực đã tạo nên âm hưởng, ma lực kỳ diệu của bài thơrất kinh điển mà cũng rất hiện đại – đó là một trong những bài thơ hay nhất của thơ Việt Nam thế kỷ XX đặt trong hành trang ta mang theo đi vào thế kỷ XXI, hội nhập cùng làng thơ thế giới hôm nay.