Viết Đoạn Văn Về Bài Thơ Khi Con Tu Hú / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Cảm Nhận Về Bài Thơ “Khi Con Tu Hú”

Đề bài: Cam nhan ve bai tho Khi con tu hu. Sau khi học xong em hãy nêu cảm nhận của mình về bài thơ “Khi con tu hú”.

Mở bài: Cảm nhận về bài thơ “Khi con tu hú”

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, ghi dấu những chặng đường biến đổi trong tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ. Khi con tu hú một bài thơ hay trong các bài thơ tiêu biểu của ông, được sáng tác trong thời gian sôi sục của cách mạng nhưng ông bị bọn giặc giam cầm tự do, nhưng tâm hồn ông thì luôn là vượt lên trên cảnh ngộ tù đày để về với thiên nhiên bên ngoài, bầu bạn và tâm sự, vừa tôi luyện ý chí bền bỉ vượt nghịch cảnh.

Thân bài: Cảm nhận về bài thơ “Khi con tu hú”

Nhan đề của bài thơ dường như chỉ nói về một thời gian chưa đầy đủ về mặt thời gian. Là một điểm nhấn để ta phải tập trung theo dõi con vật diễn ra như thế nào, đầy đủ ẩn ý sự chuẩn bị cho bước bùng lên của cảnh vật, cũng như sự khát khao mãnh liệt của con người. Sự liên tưởng Khi con vật báo hiệu của mùa hè-Con Tu Hú bắt đầu hoạt động gọi bầy, sự tự do bay lượn trên bầu trời nó đã thu hút sự chú ý của người chí sĩ cách mạng bị giam cầm sau thanh sắt nhà tù, điều này càng làm cho tâm trạng của người tù không yên bình mà dồn dập khát vọng muốn được giải thoát ra ngoài kia để đóng góp cho phong trào cách mạng đang sục sôi.

Cả bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, giàu âm hưởng, có khả năng truyền tải tình cảm, linh hoạt trong chỉ vọn vẹn trong 10 câu thơ ngắn gọn, xúc tích.

Ta có thể cảm nhận được quang cảnh bên ngoài của mùa hè tuyệt vời với biết bao kỷ niệm thân thương in hằn trong kí ức của tác giả qua 6 câu đầu. Những sự vật trong hoàn cảnh ấy nó đến với sự tự nhiên, lần lượt được gợi về sau tiếng động của âm thanh của con Tu Hú. Mùa hè của tác giả thật đẹp đẽ, chân thực, rộn rã, nhiều màu sắc. Tất cả những cảnh vật đang ở trong giai đoạn đỉnh điểm như lúa chiêm đang chín, trái cây thì ngọt dần, ve mới bắt đầu ran, nắng còn rất mới…Có thể nói đó cũng là sự trùng hợp trong hoàn cảnh của người tù không?. Vì ở người tù so với việc hoạt động cách mạng, đây cũng chính là thời điểm đẹp, đầy sự hứng khởi trong quá trình mới giác ngộ và theo đuổi lý tưởng cách mạng,sẵn sàng hăng hái phục vụ cho tổ quốc.

Tất cả những điều tác giả cảm nhận được chèn âm thanh, hình ảnh được hiện lên sống đông,phải đi qua mùa hè đó tác giả mới hiểu hết vẻ đẹp của từng cảnh vật từ trời xanh, nắng đào, bắp vàng, trái chín… đến chú tu hú lộn nhào từng không, tất cả đang được hiện lên trong một khung nền của tự do đối ngược với căn buồng tốm tăm, kìm hãm của tác giả hiện tại.

Tác giả đã vận dụng hết các tri giác để cảm nhận không khí của mùa hè, bằng tình yêu sự sống thiết tha trong trái tim nóng bỏng làm người đọc như sống dậy, hòa nhập theo tiếng mời gọi sự vật, cùng tác giả để thưởng thức hết vẻ đẹp của nó.

Đến những câu thơ tiếp theo, suy nghĩ muốn vùng dậy giải phóng bản thân khi quá thiết tha với cảnh ngày hè sôi động ngoài kia, tâm trạng phẫn uất, đau khổ khi nghĩ về thực tại thật đắng cay với người tù mất quyền được sống, được hành động, gò bó, bất lực, nhưng những ý nghĩ ấy không đồng nghĩa với sự cam chịu mãi,sự yếu đuối cũng không thể tồn tại thể hiện qua câu “muốn đạp tan phòng, cảm giác chết vì uất ức, ngột ngạt” câu thơ đang êm dịu,vui tươi, nhịp đều, bỗng bị gằn lại mạnh mẽ hơn theo sự thay đổi tâm trạng người chiến sĩ.Tất cả chúng xuất hiện như để tôi luyện thêm ý chí sắt đá của người tù, trong tâm hồn ông lúc này chỉ là sự khao khát bằng sức mạnh phi thường của bản thân để đạp đổ tất cả, phóng thoát cho bản thân.

Âm thanh trong bài thơ này được gửi gắm như một biện pháp chủ đạo giúp tác giả thành công hơn trong việc miêu tả, là cách kết nối dễ dàng nhất với thế giới bên ngoài.

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Âm thanh con tu hú ở đây làm không gian khác thường đi, đáng chú ý hơn đó là sự kích động tâm hồn đang buồn đau, mang nhiều uất ức, tiếng vọng đó càng lặp lai nhiều lần như thúc giục hành động của nhân vật. Tiếng chim đước sử dụng độc đáo, thành công trong việc miêu tả nội tâm của tác giả gợi nhiều tâm sự, xúc cảm.Càng chăm chú lắng nghe chính tâm hồn tác giả càng có nhiều sự biến đổi từ vui tươi, thưởng thức, mơ mộng đến sự bức bách luôn bị dằn vặt trong tâm hồn, luôn thúc giục hành động.

Kết bài: Cảm nhận về bài thơ “Khi con tu hú”

Bài thơ mang những tính triết lý, rất gần gũi, bình dị mà thân thuộc.Bài thơ khép lại, với âm thanh vang vọng của tiếng chim, gieo vào lòng tác giả ngay lúc này chính là khát vọng tự do luôn mạnh mẽ, sức sống đẹp đẽ cùa mùa hè đã truyền ngọn lửa của hy vong, phản kháng loại bỏ ngục từ về với quá khứ tươi đẹp tiếp tục cống hiến cho trường kì kháng chiến, qua đó cũng có thể thấy cả cuộc đời của nhà thơ, chiến sĩ Tố Hữu là một chuỗi sự hiến dâng cho Tổ Quốc, cho Đảng,cho nhân dân không ngưng nghỉ.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM

HAY NEU CAM NHAN VE BAI THO “KHI CON TU HU”

TIẾNG TU HÚ KÊU MỖI MÙA HÈ VỀ ĐỂ LẠI CHO EM CẢM GIÁC NHƯ THẾ NÀO

HÃY NÊU CẢM XÚC CỦA EM KHI ĐỌC BÀI THƠ “KHI CON TU HÚ”

Soạn Bài: Khi Con Tu Hú

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Nhà thơ Tố Hữu (1920 – 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, từ sáu, bảy tuổi Tố Hữu đã học và tập làm thơ. Giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937 – 1938. Tháng 4 – 1939, bị thực dân Pháp bắt, giam giữ ở các nhà lao miền Trung và Tây nguyên. Tháng 3-1942, vượt ngục Đắc Lay, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Huế. Sau Cách mạng, Tố Hữu đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền (từng là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).

Tác phẩm đã xuất bản: Từ ấy (thơ, 1946); Việt Bắc(thơ, 1954); Gió lộng (thơ, 1961); Ra trận (thơ, 1971); Máu và hoa (thơ, 1977); Một tiếng đờn (thơ, 1992); Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973); Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981).

được Tố Hữu viết khi ông đang bị địch giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế).

Thơ viết trong tù có nhiều loại, thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau. Có khi nhà thơ diễn tả nỗi khổ cực của người tù:

Cũng có khi nhà thơ vượt lên trên cảnh ngộ tù đày để chủ động đến với thiên nhiên, rèn luyện ý chí.

Nhưng phổ biến nhất là những câu thơ diễn tả nỗi khổ tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Càng khao khát được hoạt động, được cống hiến, người tù càng cảm thấy bức bối, uất ức khi bị giam hãm giữa bốn bức tường ngột ngạt, chứng kiến thời gian đằng đẵng cứ chầm chậm trôi qua trong khi ở bên ngoài, phong trào cách mạng đang sôi sục.

1. Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.

Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi, nó là tín hệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.

Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:

Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.

Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cách diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không” Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.

3. Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.

Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.

Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau. Ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy.

4. Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.

Các bài thơ viết về nhà tù của Tố Hữu luôn luôn có sự đối lập sâu sắc giữa hai thế giới: một thế giới của tự do rộn rã tiếng chim ca, suối chảy, rộn rã tiếng kèn xung trận đối lập với thế giới chật hẹp, ngột ngạt của nhà tù. Sự đối lập đó càng lớn thì khát vọng tự do càng được biểu hiện mãnh liệt.

Bài thơ có hai đoạn thơ thể hiện hai hoàn cảnh, tâm trạng đối lập, do đó khi đọc cần chú ý giọng điệu rộn rã, tươi vui ở 6 câu thơ đầu và giọng điệu căm uất, nghẹn ngào ở 4 câu thơ còn lại.

Soạn Bài: Khi Con Tu Hú – Ngữ Văn 8 Tập 2

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả ( các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Tố Hữu trong SGK Ngữ văn 8 Tập 2).

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác trong nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả mới bị bắt giam ở đây..

* Thể thơ: Bài thơ Khi con tu hú được viết theo thể thơ lục bát.

* Bố cục: Bài thơ có thể được chia làm 2 phần:

Phần 1: 6 câu đầu : Bức tranh mùa hè.

Phần 2: 4 câu cuối : Tâm trạng của người tù và người chiến sĩ cách mạng.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Nhan đề bài thơ là vế phụ của một câu trọn ý, chỉ thời gian diễn ra sự việc trong câu. Hơn thế nữa, tiếng chim tu hú chính là tín hiệu của sự sống, của mùa hè sôi động.

* Câu văn có 4 chữ đầu là “Khi con tu hú” tóm tắt nội dung bài thơ là: Khi con tu hú gọi bầy cũng là khi đất trời chuyển sang hè, trong không gian lao tù bức bối, ngột ngạt, người chiến sĩ cách mạng lắng nghe tiếng chim tu hú giống như lắng nghe nhịp sống của mùa hè càng thêm cháy bỏng niềm khao khát tự do.

* Tiếng tu hú kêu lại tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ là bởi vì nó gợi nhắc về một mùa hè tràn đầy sức sống, một mùa hè sôi nổi, phóng khoáng, đối lập hoàn toàn với cảnh tù túng chật chội mà tác giả đang phải chịu.

Câu 2:

* Cảnh mùa hè được miêu tả trong 6 câu thơ đầu hiện lên rất tươi đẹp, dào dạt sức sống, khung cảnh đất trời cao rộng.

* Rất nhiều chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong bài được chọn lọc như: tiếng ve kêu râm ran, lúa chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với những cánh diều bay liệng và trái cây trong vườn thơm ngọt.

Câu 3:

* Tâm trạng của người tù, người chiến sĩ ở 4 câu thơ cuối: tâm trạng đau khổ, uất ức, ngột ngạt.

Ở những câu thơ này, cách ngắt nhịp đã có sự khác biệt, câu 8 (ngắt 6/2), câu 9 (ngắt 3/3). Kết hợp với đó là những từ diễn tả hoạt động, trạng thái với sắc thái mạnh: dậy, đạp tan, ngột, chết uất và những từ cảm thán, diễn đạt sự bức xúc: ôi, làm sao, thôi, cứ,…

Có thể nói, nếu tiếng tu hú ở đầu bài thơ gợi cho tác giả những cảm nhận về mùa hè sôi động, đầy sức sống, mùa hè của tự do, của niềm háo hức, rộn rã; thì ở những câu thơ cuối, tiếng chim tu hú khiến cho nhà thơ có cảm giác ngột ngạt, u uất lên đến cao độ, lúc này, tâm trạng của người chiến sĩ càng thêm đau khổ, bức bối vì cảnh tù giam hãm, mất tự do.

Câu 4:

Theo em, cái hay của bài thơ nằm trong cả hai phần nội dung và nghệ thuật.

Về nội dung: Bài thơ thể hiện tình yêu đối với cuộc sống tha thiết, niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng khi bị giam cầm trong nhà tù thực dân.

Về nghệ thuật: Bài thơ có nhiều hình ảnh gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, sử dụng thể thơ lục bát dễ nghe, dễ nhớ, lời thơ tự nhiên và có thể truyền tải được những cảm xúc sâu lắng, đồng thời, góp phần thể hiện được sức sống đang sục sôi của người chiến sĩ cách mạng.

4.3

/

5

(

7

bình chọn

)

Phân Tích Bài Thơ Khi Con Tu Hú Của Tố Hữu

Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố hữu – Bài làm 1

Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc tại những vùng làng quê ở Việt Nam. Khi tu hú kêu cũng chính là lúc mùa hè về. Và trong hoàn cảnh như vậy thì người chiến sĩ cách mạng cảm thấy bị bó buộc hơn bao giờ hết.

Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp cây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào tâng không

Mở đầu bài thơ là những hình ảnh mà người thanh niên đang tưởng tượng ở trong tâm trí của mình khi được nghe tiếng những chú chim tu hú kêu. Anh tưởng tượng ra rất nhiều thứ, đó đều là những hình ảnh đẹp gắn liền với kí ức khi còn có được tự do. Cả không gian như tràn đầy nhựa sống, biết bao nhiêu hình ảnh với đầy những màu sắc hiện lên như màu vàng của vựa lúa chiêm, những hạt thóc, ánh nắng đào cùng những âm thanh như tiếng sáo diều, tiếng ve ngân. Đó là sự kết hợp cảm nhận cả về hình ảnh và âm thanh của nhà thơ. Phải có một tình yêu thiên nhiên, trí tưởng tượng phong phú lắm thì anh mới có thể cảm nhận được những điều như vậy. Tất cả những giác quan đều được cảm nhận qua đường nét, màu sắc, âm thanh của quê hương.

Những hình ảnh đều là của mọi vật khi đang viên mãn và có nhiều thành quả nhất: là khi những hạt lúa được kết tinh, là thành quả của biết bao mồ hôi và nước mắt. Với tâm hồn tinh tế cùng con mắt độc đáo, ánh nắng cũng có sự thay đổi bởi nhiều góc độ, bên cạnh cả bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình, giúp cho tầm nhìn của con người càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết. ” Trời xanh càng rộng càng cao”.

Cả không gian như được mở rộng ra tới vô tận. Dù cho người thanh niên lúc ấy đang ở trong tù, phía sau song sắt nhưng vẫn cảm nhận được hình ảnh ở bên ngoài bằng chính trái tim và sức sống của mình. Tất cả mọi thứ đều đang tươi vui, ngay cả sáo diều cũng không hề lẻ loi mà luôn có đôi có cặp, được tự do bay lượn, cảm nhận được vùng trời của chính mình. Thế nhưng, con người- người thanh niên bây giờ lại không được như vậy. Anh khao khát, mong muốn có được tự do như cặp chim ấy nhưng cũng không thể có được. Anh chỉ có thể nhìn tự do, gửi gắm tâm hồn khao khát của mình tới những cảnh vật bên ngoài. Đến đây, nhịp thơ lục bát bỗng dưng như chia đôi. Nhà thơ đã vẽ lên hai bức tranh đối nghịch nhau. Bên ngoài là những tự do, hạnh phúc với một cuộc sống tràn ngập ánh nắng, còn bên trong nhà tù, phía sau song sắt lại là một cuộc sống tối tăm, gò bó. Trong chính hoàn cảnh ấy, người chiến sĩ trào lên những khao khát cháy bỏng hơn bao giờ hết.

Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Ngột làm sao, chết mất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu

Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp tình cảm của tác giả. Cảm xúc dồn nén tới mức bị bức bối, với hàng loạt những câu cảm thán ” ôi”,” mất thôi” khiến cho người chiến sĩ càng muốn đi ra ngoài để có được tự do thực hiện những lí tưởng của mình. Khổ thơ chính là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trang uất ức, muốn đạp bỏ tất cả những cảnh giam cầm để có được tự do của mình. Có lẽ bởi vậy, mà bên ngoài đời thực, sau ba năm, Tố Hữu đã vượt ngục để quay về đội ngũ, làm tròn ước nguyện cống hiến với cuộc đời.

Bài thơ là sự kết hợp hoàn chỉnh giữa cảnh và tình. Những hình ảnh thiên nhiên được tác giả miêu tả hết sức sinh động, qua đó thể hiện được ý chí kiên cường của người chiến sĩ.

Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố hữu – Bài làm 2

Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trong bước đường hoạt động cách mạng đang bị địch bắt giam tại lao Thừa Phủ – Huế. Bài thơ phản ánh tâm trạng ngột ngại của một người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh: Tâm trạng ấy càng trở nôn hức xúc khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài. Đặc biệt giữa không gian tự do ấy bỗng vang ngân tiếng chim tu hú gọi bầy. Với âm thanh da diết đó, nỗi ngột ngạt, u uất còn dồn nén và biến thành niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm hãm nổi:

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Mở đầu bài thơ, với tựa đề Khi con tu hú, tác giả muốn khẳng định đây là một thứ âm thanh mở ra mạch cảm xúc của toàn bài thơ. Tác động của âm thanh này đặt vào tâm cảnh của nhà thơ càng trở nên tha thiết và thôi thúc hướng đến tự do.

Ta biết rằng, người thanh niên cộng sản Tố Hữu dù bị tù đày, ưa tấn nhưng không nản chí sờn lòng. Nhà thơ đã xác định:

Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

(Trăng trối)

Trở lại câu thơ mở đầu của bài thơ: “Khi con tu hú gọi bầy”. Đó là cái thời điểm thiết tha và thiếu thốn khi nghe con tu hú gọi bầy, tiếng gọi trở về với bạn bè, đồng đội. Tiếng chim gọi bầy càng tăng thêm nỗi cô đơn của nhà thơ giữa bốn bức tường lạnh lẽo. Tố Hữu bị bắt giam giữa lúc nhiệt tình cách mạng của tuổi thanh xuân đang sục sôi, muốn đem tất cả nhiệt huyết để cống hiến cho cách mạng.

Tiếng chim tu hú gọi bầy đã thức dậy một nỗi nhớ sâu xa trong Tố Hữu. Trong thế giới tăm tối của ngục tù nhà thơ đã huy động nhiều giác quan để hình dung, tưởng tượng đồng quê thân thuộc ngoài kia:

Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần

Vườn râm dậy tiếng ve vang

Bắp rây văng hạt đầy sán nắng đào.

Một bức tranh đựơc “vẽ” trong tâm tưởng bằng nỗi nhớ da diết. Nhịp sống của đồng quê thật rộn rã và tràn đầy sức sống. “Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần”, sự vật đang vận động tiến dần đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ (đương chín, ngọt dần). Một mùa hè đã báo hiệu, một mùa hè với những cảnh vật, âm thanh, màu sắc, ánh nắng quen thuộc. Phải là một người tha thiết yêu cuộc sông, gắn bó máu thịt với quê hương mới có nỗi nhức nhối không nguôi đến như thế!

Trí tưởng tượng của nhà thơ được chắp cánh đến với bầu trời khoáng đạt:

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều xáo lộn nhào từng không.

Cũng là bầu trời xanh thân thiết của tuổi thơ với “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Giữa khoảng trời bao la, cao, rộng vài con sáo nhào lộn như nét chấm nhỏ nhoi giữa cái mênh mông của đất trời. Hình ảnh con diều sáo lộn nhào giữa từng không cũng là niềm khát vọng được tự do của người chiến sĩ cách mạng bị giam cầm.

Niềm khái khao đó bị dồn nén lúc này đây đã bùng lên mãnh liệt:

Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nổi khát khao hành động: “muốn đạp lan phòng”.

Bài thơ có 10 câu, câu mở đầu và câu kết thúc là tiếng kêu của con tu hú. Âm hưởng tiếng kêu xuyên suốt toàn bài, tiếng kêu liên hồi, khắc khoải và da diết. Tiếng kêu vang vào thế giới chật chội, tăm tối của nhà lao và tâm trạng nhà thơ trở nên bực bội, ngột ngạt, đến nỗi phải kêu lên:

Ngột làm sao, chết uất thôi.

Bài thơ khép lại nhưng là nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêu mãi…

Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.