Viết Đoạn Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Nhớ Rừng / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Kovit.edu.vn

Thuyết Minh Bài Thơ Nhớ Rừng

Thế Lữ là một cây đại thụ của phong trào Thơ mới Việt Nam đầu thế kỉ XX. Bài Nhớ rừng là tác phẩm nổi bậc nhất, đã gắn liền với tên tuổi của ông. Nói đến Thế Lữ không thể không nói đến bài thơ Nhớ rừng.

Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới những năm đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự bùng nổ mãnh liệt, một cuộc cách mạng thật sự trong địa hạt văn chương, nhất là đối với bộ phận thơ ca. Những thể thơ cũ (tiêu biểu từ thơ Đường luật) với khuôn khổ cứng nhắc, niêm luật gò bó đã không dung chứa nổi, không còn phù hợp với những tư tưởng, cảm xúc dào dạt, mới mẻ, lúc nào cũng chỉ chực tung phá.

Đổi mới thể thơ, đổi mới hình thức câu thơ, các nhà thơ mới đồng thời đưa vào đó những dòng cảm xúc dạt dào, mạnh mẽ, tựa như những dòng nham thạnh bỏng đang tuôn chảy tràn trề. Nhớ rừng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu mới này.

Sự ảnh hưởng mạnh mẽ các trào lưu phương Tây khơi bùng ý thức tự cường tự chủ của các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, tri thức. Bài thơ Nhớ rừng ra đời phản ánh sâu sắc khát vọng tự do và tinh thần yêu nước thầm kín của tầng lớp thanh niên tri thức lúc bấy giờ. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do tám chữ, in trong tâp Mấy vần thơ(1935). Đây là giai đoạn đầu trong sự nghiệp sáng tác của Thế Lữ.

Bài thơ Nhớ rừng mượn lời con hổ trong vườn bách thảo để diễn tả tâm sự của một lớp người đang đau khổ trong cuộc sống “bị nhục nhằn tù hãm”. Họ chán ghét thực tại tầm thường giả dối, nhưng bất lực và chỉ biết chìm đắm vào dĩ vãng oai hùng. Bài thơ thể hiện tư tưởng giải phóng cá nhân và khát vọng tự do mãnh liệt.

Về cơ bản bài thơ có 5 đoạn nhưng được cấu trúc theo hai cảnh tượng tương phản: Con hổ trong thực tại và con hổ trong dĩ vãng. Sự đối lập giữa hai bức tranh làm nổi bậc tâm trạng của con hổ vừa khao khát tự do vừa bất lực trước thực tại phũ phàng.

Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh đuợc nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh cuộc sống của con hổ. Chúa sơn lâm đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích.

Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào thì kẻ thuộc “giống hùm thiêng” cũng luôn biết thân phận thực sự của mình là một vị chúa. Nó tỏ ra khinh mạn, coi thường trước những sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thật sự của thiên nhiên của những con người “ngạo mạn ngẩn ngơ” chỉ biết “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”. Chán nản làm sao cảnh phải chịu sống ngang bầy cùng với “bọn gấu dở hơi”, với “cặp báo chuồng bên vô tư lự”.

Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén để làm nên những hờn căm chất chứa trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình, một thời đại vàng son rực rỡ mãi mãi không còn nhìn thấy nữa.

Được sống lại với những ký ức tươi đẹp ở chốn núi rừng hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thường và giả dối của những khung cảnh nơi nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của hổ là những cảnh “không đời nào thay đổi”, những cảnh đơn điệu nhàm chán do con ngưới sửa sang và cố đòi “bắt chước”

Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của những sự giả dối nhân tạo. Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng.

Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn “nước non hùng vĩ”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc mộng ngàn to lớn”.

Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ: mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.

Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà, bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.

Bài thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn: mạch cảm xúc cuồn cuộn, giọng điệu hào hùng, bút pháp cường điệu và sự phù hợp tuyệt vời giữa đối tượng mô tả và nghệ thuật mô tả của tác giả. Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất của bút pháp thơ lãng mạn và cũng là một đặc điểm quan trọng của văn biểu cảm.

Ngôn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu sức biểu cảm, giàu tính sáng tạo; câu thơ co duỗi thoải mái… Nhớ rừng đã thể hiện một đặc điểm của thơ mới đương thời là: tạo lại dáng cho câu thơ tiếng Việt. Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét: “Đọc đôi bài, nhất là bài “Nhớ rừng”, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được”.

Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng đã lan toả một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tuởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Soạn Bài: Viết Đoạn Văn Trong Văn Bản Thuyết Minh Trong Sách Giáo Khoa Ngữ Văn Lớp 8

I. Kiến thức cơ bản cần nắm vững

1. Nhận dạng các đoạn văn thuyết minh

Đoạn văn là bộ phận của văn bản. Viết tốt đoạn văn là điều kiện để làm tốt bài văn.

Đoạn văn thường gồm hai câu trở lên, được sắp xếp theo thứ tự nhất định.

2. Sửa lại các đoạn văn thuyết minh.

a, Đoạn văn thuyết minh ( a) lộn xộn về thứ tự trình bày cấu tạo chiếc bút bi.

Có thể sửa lại: các phần cấu tạo bút (ruột bút, đầu bút, ống mực, vỏ bút, móc gà, nút bấm) tiếp đến cách sử dụng và bảo quản bút.

b, Nội dung văn bản thuyết minh về bàn cũng có sự lộn xộn.

Sửa lại: phần đế đèn → phần thân đèn → phần chao đèn.

II. Luyện tập Bài 1 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 tập 2):

Mở bài: Ngôi trường nơi em đang theo học là ngôi trường nhỏ của một huyện miền núi. Trường được thành lập từ năm 1964 cho tới nay vẫn luôn là niềm tự hào của biết bao thế hệ học trò.

Kết bài: Ngôi trường luôn là ngôi nhà yêu quý thứ hai của em, nơi đó gắn với biết bao kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò. Là nơi cho em học hỏi được nhiều điều mới lạ và lý thú, mở ra trước mắt em những chân trời mới. Em hy vọng sẽ góp một phần nhỏ sự cố gắng của mình làm đẹp thêm cho ngôi trường này.

Bài 2 (trang 15 sgk Ngữ văn 8 tập 2) :

Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Bác là nhà cách mạng lỗi lạc, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Người sinh ra tại quê ngoại Kim Liên, Nghệ An trong một gia đình có truyền thống Nho học. Năm 1911 với bí danh là Văn Ba, Người rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Suốt những năm tháng bôn ba ở nước ngoài Người đã tìm kiếm, học hỏi và nghiên cứu con đường cứu nước. Sau khi trở về Việt Nam, Người trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đi tới thắng lợi. Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, hạnh phúc của nhân dân.

Văn Thuyết Minh: Giữa Đèo Ngang

Không biết đèo Ngang có từ bao giờ, nhưng để đi vào tâm thức người Việt, trở thành một ngọn đèo văn chương thì phải nhớ đến một chiều xế tà vào nửa đầu thế kỷ 19, buổi ấy có người con gái dừng chân đứng lại trời non nước ở đèo Ngang, trên hành trình từ làng Nghi Tàm ven hồ Tây, Hà Nội vào kinh đô Phú Xuân nhậm chức “cung trung giáo tập” dưới thời vua Minh Mạng.

Gần 200 năm qua, trên ngọn đèo cỏ cây chen đá lá chen hoa này, tiếng guốc độc hành của lữ khách, tiếng chim quốc hoang vu, tiếng chim gia chạnh lòng vẫn hòa âm cùng ánh trăng tà dương chảy qua bao thăng trầm cuộc thế, rơi vào mắt lữ khách hình dáng Bà Huyện Thanh Quan cô quạnh qua đèo Ngang một mảnh tình riêng ta với ta.

Như một mảnh tình riêng của dãy Hoành Sơn hùng vĩ, không hoành tráng mây vờn đỉnh núi, không mạo hiểm như đường vào đất Ba Thục ở Hải Vân – chữ dùng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đèo Ngang chỉ khiêm tốn cao 400m, dài chừng 256m với hai mái chon von ranh giới hai tỉnh – lòng về Hà Tĩnh dạ ái ân Quảng Bình – nhưng không có ngọn đèo nào trên đất Việt lại ẩn chứa nhiều tầng ký ức như đèo Ngang.

Cái thuở đèo Ngang đầu biển cồn ngăn, đầu sóng dựng / nhà người mái lá, mũi bờ nghênh / xóm chài buồm lướt mua và bán / ruộng lạc triều dâng sóng ngập duyềnh như vua Lê Thánh Tôn cảm khái khi ngài nghỉ ở trạm Hoành Sơn hai ngày trên sông Nước Mặn vào năm 1470 không còn nữa. Bóng dáng dòng sông bây giờ chỉ là những vùng nước quanh co chân đèo như ký ức thấm bao mồ hôi, nước mắt và máu của lịch sử cứ dùng dằng đất và người. Vì ký ức ấy nên đèo thì ngang mà lòng người lại dựng đứng mỗi khi bước chân qua vòm mái Hoành Sơn quan – dấu vết duy nhất còn lại trên đường thiên lý Bắc – Nam được vua Minh Mạng xây dựng năm 1833.

Con đường thiên lý vốn được hình thành trước đó hơn 800 năm – năm Nhâm Thìn 992 khi vua Lê Đại Hành sai phục quốc Ngô Tử An đem ba vạn quân đi mở đường sang Nam giới… Hóa ra đèo Ngang là chỉ giới đầu tiên người Việt tiến về Nam là nơi phân vân giữa hai nỗi lòng Việt – Chăm, là rào che một cõi giang san chúa Nguyễn lánh mình lập quốc theo lời sấm trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Với địa chí như vậy, đèo Ngang đã trở thành chiếc đòn gánh trĩu nặng quá khứ hai vai dân tộc trong ưu tư nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan vào buổi chiều lom khom dưới núi tiều vài chú / lác đác trên sông chợ mấy nhà / nhớ nước đau lòng con quốc quốc / thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Sau Bà Huyện Thanh Quan, cao đồ Cao Bá Quát cũng từng hứng chí đến đèo Ngang rong chơi sáng lên đứng Hoành Sơn / chiều xuống tắm Bàn Thạch / nhặt đá cầm trong tay / non sông chưa đầy vốc. Non sông chưa đầy vốc nhưng cũng đủ cho người hôm nay một đời yêu chưa thỏa. Bởi không chỉ yêu mà chỉ vì giọt buồn trong sáng, nữ tính, phiêu bồng nhởn nhơ trải cánh hải âu bay trên đỉnh đèo Ngang – nơi suốt đời gìn Nam giữ Bắc chia nghiêm cửa / suốt cổ về kim chốt chặn đàn như vua Thiệu Trị khen tặng.

Và mỗi khi qua đèo Ngang, hốt nhiên tôi nhận ra chân dung trọn vẹn của dân tộc tôi hoàn thiện trong đau thương và được nuôi dưỡng bằng những nỗi niềm cô đơn hay lãng đãng mà người ta quen gọi là cái gốc văn hóa của tâm hồn.

Bài Văn Thuyết Minh Về Bánh Chưng Ngày Tết Lớp 9, 10

Bài văn thuyết minh về bánh chưng ngày tết của học sinh giỏi lớp 9, 10 và cách lập dàn ý thuyết minh về chiếc bánh chưng chi tiết.

I. Dàn Ý Thuyết Minh Về Bánh Chưng Ngày Tết Ngắn Gọn

Giới thiệu khái quát về chiếc bánh chưng

2. Thân bài thuyết minh về chiếc bánh chưng lớp 10

a. Nguồn gốc lịch sử, xuất xứ của bánh chưng

– Bánh chưng là một loại bánh quen thuộc, gần gũi và có từ lâu đời ở nước ta, mang những đặc trưng riêng của văn hóa Việt Nam.

– Bánh chưng là loại bánh duy nhất ở nước ta có lịch sử lâu đời trong ẩm thực của người Việt còn được nhắc lại ở sử sách cho đến tận ngày hôm nay.

– Nguồn gốc ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy”, về Lang Liêu và vua Hùng thứ sáu

b. Nguyên liệu và cách làm

– Nguyên liệu:

+ gạo nếp – một loại gạo dẻo và có vị thơm để làm vỏ bánh.

+ Nhân bánh được là sự kết hợp giữa đậu xanh, thịt lơn và dưa hành.

+ Lá chuối hoặc lá dong và lạt để gói bánh

+ Một số nguyên liệu phụ khác như tiêu, muối…

– Các bước làm bánh chưng:

Gạo nếp phải được làm sạch sẽ và ngâm với nước để gạo được mềm và dẻo hơn.

Đậu xanh được làm sạch vỏ và được nấu chín nhuyễn với một ít muối.

Thịt lợn được cắt thành miếng nhỏ và ướp với gia vị để tạo độ thơm.

Lạt buộc cần được làm thành sợi dài và mỏng

+ Gói bánh chưng: Bánh chưng được gói bằng tay nhờ vào các khuôn bánh được làm sẵn từ trước

Yêu cầu khi luộc bánh phải đủ thời gian, không quá ngắn mà cũng không quá dài.

Người ta thường luộc bánh trong khoảng thời gian tám đến mười giờ, tùy vào loại gạo nếp được sử dụng

+ Sau khi bánh đã được nấu chín, người ta vớt bánh ra để nguội và như có thể sử dụng luôn.

Tùy vào khẩu vị của mỗi vùng, miền mag bánh chưng có thể thêm vào hoặc bớt đi một số nguyên liệu.

c. Cách sử dụng và vai trò, ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt.

– Bánh chưng là nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt.

– Biểu tượng cho tấm lòng biết ơn ông bà tổ tiễn và sự trân trọng những điều bình dị, tinh túy trong trời đất.

– Bánh chưng là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ, trong mâm cơm cúng tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về.

– Bánh chưng đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong tâm thức của mỗi người con đất Việt.

Khái quát lại vai trò, ý nghĩa của chiếc bánh chưng và cảm nghĩ của bản thân về chiếc bánh chưng.

II. Bài Viết Thuyết Minh Về Chiếc Bánh Chưng Lớp 9, 10

Câu ca dao ấy cất lên chắc hẳn sẽ gợi lên trong mỗi người dân trên đất nước Việt Nam từ già cho tới trẻ, từ trai cho tới gái hình ảnh chiếc bánh chưng – một loại bánh dân dã, quen thuộc, thân quen mà rất đỗi cao quý và ngập tràn ý nghĩa đối với mỗi người con đất Việt.

2. Thân bài thuyết minh về cái bánh chưng

Như chúng ta đã biết, bánh chưng là một loại bánh quen thuộc, gần gũi và có từ lâu đời ở nước ta, mang những đặc trưng riêng của văn hóa Việt Nam. Có thể nói, bánh chưng là loại bánh duy nhất ở nước ta có lịch sử lâu đời trong ẩm thực của người Việt còn được nhắc lại ở sử sách cho đến tận ngày hôm nay. Nguồn gốc ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy”, về Lang Liêu và vua Hùng thứ sáu. Chuyện kể rằng, sau khi đánh tan giặc Ân xâm lược, vì muốn chọn được người kế vị xứng đáng, vua Hùng thứ sáu đã tổ chức cuộc thi giữa các con của mình với yêu cầu ai làm cho vua cha vừa lòng, tìm được lễ vật phù hợp để dâng lên lễ tế thì sẽ được truyền ngôi cho. Trong khi các anh của mình lên rừng, xuống biển tìm kiếm bao nhiêu sơn hào hải vị, của ngon vật lạ thì Lang Liêu – người con út lại không biết nên lấy gì làm lễ vật để dâng lên vua cha vì chàng chả có gì ngoài lúa gạo. Nhưng thật may mắn thay cho chàng, chàng nằm mộng và được thần chỉ cho cách lấy gạo, đậu và thịt để làm bánh. Loại bánh chàng làm ra hình tròn thì gọi là bánh giầy tượng trưng cho trời, bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất. Và rồi, cuối cùng, Lang Liêu chính là người làm hài lòng vua cha, chàng được truyền ngôi và cũng kể từ đấy, bánh chưng ra đời và trở thành nét biểu tượng độc đáo trong văn hóa ẩm thực Việt Nam, thể hiện lòng biết ơn, quý trọng của con cháu với ông bà tổ tiên và với trời đất.

Bánh chưng là loại bánh dân dã, quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam, bởi vậy nguyên liệu để làm nó cũng rất bình dị, gần gũi. Trước hết, để làm được bánh chưng không thể thiếu gạo nếp – một loại gạo dẻo và có vị thơm để làm vỏ bánh. Nhân bánh được là sự kết hợp giữa đậu xanh, thịt lợn và dưa hành. Ngoài ra, khi làm bánh cũng cần có là chuối hoặc lá dong và lạt để gói bánh cùng một số nguyên liệu phụ khác như tiêu, muối. Thông thường, để làm ra được một chiếc bánh chưng người ta cần phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận và khéo léo của người làm bánh. Đầu tiên đó là công đoạn chuẩn bị nguyên liệu. Những nguyên liệu kể trên phải được sơ chế một cách kĩ càng, chu đáo. Gạo nếp phải được làm sạch sẽ và ngâm với nước để gạo được mềm và dẻo hơn. Đậu xanh được làm sạch vỏ và được nấu chín nhuyễn với một ít muối. Thịt lợn được cắt thành miếng nhỏ và ướp với gia vị để tạo độ thơm. Ngoài ra, lạt buộc cần được làm thành sợi dài và mỏng. Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu theo yêu cầu, người ta bắt đầu gói bánh. Bánh chưng được gói bằng tay nhờ vào các khuôn bánh được làm sẵn từ trước. Đồng thời, để làm nên một bánh chưng ngon còn yêu cầu khi luộc bánh phải đủ thời gian, không quá ngắn mà cũng không quá dài. Thông thường, người ta thường luộc bánh trong khoảng thời gian tám đến mười giờ, tùy vào loại gạo nếp được sử dụng. Sau khi bánh đã được luộc chín người ta vớt bánh ra và để nguội, như vậy là đã có một chiếc bánh chưng ngon, đẹp rồi. Thêm vào đó, tùy vào khẩu vị của mỗi vùng, miền mag bánh chưng có thể thêm vào hoặc bớt đi một số nguyên liệu.

Bánh chưng là nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt. Nó biểu tượng cho tấm lòng biết ơn ông bà tổ tiễn và sự trân trọng những điều bình dị, tinh túy trong trời đất. Bánh chưng là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ, trong mâm cơm cúng tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về. Bánh chưng đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong tâm thức của mỗi người con đất Việt. Chắc có lẽ bởi vậy mà mỗi người con đất Việt ở xa quê, mỗi dịp Tết đến người ta vẫn cùng nhau tự gói hay mua về những chiếc bánh chưng để thờ cúng và cùng nhau thưởng thức như một cách để nhớ, để gìn giữ và lưu truyền nét đẹp văn hóa của dân tộc.

Tóm lại, bánh chưng là loại bánh cổ truyền, có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống của hàng triệu, hàng triệu người con đất Việt. Dù thời gian có trôi đi, cuộc sống của con người ngày càng phát triển và có thêm nhiều món ăn, loại bánh mới nhưng không bất cứ thứ gì có thể thay đổi được vị trí, ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong văn hóa và trong ẩm thực của người dân Việt Nam.

thuyết minh về bánh chưng

thuyết minh bánh chưng

thuyết minh về bánh chưng ngày tết

thuyết minh về bánh chưng lớp 10

thuyết minh về bánh chưng ngày tết học sinh giỏi

thuyết minh về món ăn ngày tết lớp 10

thuyết minh về món bánh chưng

thuyết minh về chiếc bánh chưng ngày tết

thuyết minh về cái bánh chưng

Bình Luận Facebook

.